Chương 27 THỊ TRẤN HERNDON, BANG VIRGINIA
NƠI NÀY TRƯỚC ĐÂY là đất nông nghiệp, nhưng từ lâu nó đã bị nuốt chửng bởi sự mở rộng không ngừng về phía tây của thủ đô Washington. Bây giờ thứ duy nhất mọc lên ở đây là các dãy nhà ở giá rẻ và bọn trẻ con trông khỏe khoắn, lành mạnh nhưng lại dành quá nhiều thời gian lang thang trong các góc tối của mạng internet. Tên của những ngõ cụt quanh co phản ánh tính cách lạc quan vô biên của người Mỹ - Sunnyside (Nắng ấm) và Apple Blossom (Hoa táo), Fairfield (Cánh đồng tươi đẹp) và Crest View (Khung cảnh núi đồi) - nhưng họ không thể che giấu một thực tế là Hoa Kỳ, người bạn cuối cùng của Israel trên thế giới, đã bước vào tình trạng suy thoái.
Ngôi nhà gạch hai tầng ở gần cuối Phố cụt Stillwater chỉ khác với các căn nhà lân cận ở lớp cửa sổ chống đạn. Trong nhiều năm qua, hàng xóm ở đây cứ nghe đâu người đàn ông sống trong đó làm việc tại một trong những công ty công nghệ cao nằm dọc khu Dulles Corridor. Mãi đến khi ông được lên chức và buộc phải đi lại bằng một chiếc xe Escalade bọc thép, lúc ấy mọi người mới vỡ lẽ ra có một gián điệp sống trà trộn giữa bọn họ. Nhưng không chỉ là gián điệp thông thường, Adrian Carter là Giám đốc Cơ quan Mật vụ Quốc gia (NCS), bộ phận điều phối hoạt động của CIA. Trong thực tế, Carter tại chức lâu hơn bất cứ người tiền nhiệm nào, một thành tựu mà ông nghĩ mình đạt được nhờ cứng đầu hơn là tài giỏi. Mà Carter là vậy. Một trong những giám đốc cuối cùng của CIA xuất thân từ dân đạo Tin Lành New England, ông tin rằng sự phù phiếm là tội lỗi, chỉ thua việc gian lận khi chơi golf.
Tuy chỉ mới tháng Ba nhưng cái nắng chói chang vẫn thiêu đốt cổ Gabriel khi ông băng qua bãi cỏ rộng của nhà Carter, một bảo vệ CIA theo cạnh ông. Carter đứng chờ sẵn dưới khung cửa mở rộng, ông có mái tóc rối, dần thưa của một giáo sư đại học và bộ ria mép đã lỗi thời cùng với sự thoái trào của nhạc disco, nối Crock-Pot, và chiến dịch đóng băng vũ khí hạt nhân. Cái quần vải chino màu nâu vàng của ông cần được là phẳng. Chiếc áo thun cotton cổ tròn cũng bắt đầu sờn ở khuỷu tay.
“Hãy thứ lỗi cho tôi vì bắt anh lặn lội đến nhà mình,” ông nói, bắt tay Gabriel, “nhưng đây là ngày nghỉ đầu tiên của tôi trong cả tháng trời, và tôi không thể chịu nổi nếu phải đến Langley hoặc một trong những ngôi nhà an toàn của chúng tôi.”
“Tôi sẽ rất hạnh phúc nếu không phải chui vào nhà an toàn lần nào nữa.”
“Vậy tại sao anh trở lại đây?” Carter nghiêm túc hỏi.
“Và chuyện quái gì xảy ra với mặt anh vậy?”
“Tôi đứng quá gần một cửa hàng đồ cổ Thụy Sĩ khi một quả bom phát nổ ngay bên trong.”
“St. Moritz à?”
Gabriel gật đầu.
“Tôi biết chuyện này sẽ hay lắm mà.”
“Anh chưa nghe đoạn hay nhất đâu.”
Carter mỉm cười. “Vào trong đã,” ông nói, đóng cánh cửa phía sau họ. “Tôi kêu vợ mình ra ngoài đi dạo rồi. Anh đừng lo, bà ấy đã dắt theo Molly.”
“Molly là ai?”
“Gâu, gâu.”
Một bữa trưa tự chọn đã được bày sẵn ngoài hiên có mành che, nhìn ra mảnh vườn xanh um trong giấc mơ Mỹ của Carter. Gabriel lễ độ lấy thịt nguội và salad nui vào đầy đĩa của mình nhưng không động vào khi kể lại cuộc hành trình kỳ lạ đưa ông từ Vương cung thánh đường Thánh Peter sang tận nhà của vị điệp viên cấp cao nhất nước Mỹ. Khi kết thúc câu chuyện, ông trình ra hai bức ảnh. Tấm đầu tiên chụp cảnh All Montazeri và cô ả trong tranh El Greco rời khỏi phòng trưng bày Galleria Naxos ở St. Moritz. Tấm thứ hai chụp ông chủ phòng triển lãm đang ngồi trong toa xe điện ở Zurich, nhìn như chỉ có một mình.
“Anh hãy nhìn kỹ cái gã ngồi bên trái hắn,” Gabriel nói. “Anh có nhận ra gã này không?”
“Tôi không nhận ra hắn.”
“Vậy tấm này thì sao?”
Gabriel đưa cho Carter một bức ảnh khác của gã. Lần này là ảnh chụp gã đang bước vào Đại sứ quán Iran tại Berlin.
Carter ngẩng phắt lên. “Massoud?”
“Bằng xương bằng thịt.”
Là con trai của một mục sư đạo Tin Lành, ngài Carter khẽ chửi thề.
“Cảm nghĩ của chúng tôi cũng như anh đây.”
Carter đặt bức ảnh lên bàn, bên cạnh hai tấm kia và nhìn nó chăm chú trong im lặng. Massoud Rahimi là một trong những nhân vật hiếm hoi của thế giới ngầm mà ta không cần phí lời giới thiệu. Thực tế, cũng không ai buồn nhắc đến họ của gã. Gã chỉ là Massoud, một kẻ có dấu vân tay in trên mọi vụ khủng bố lớn có liên quan tới Iran kể từ vụ đánh bom doanh trại Beirut năm 1983. Ngày nay, Massoud làm việc cho Đại sứ quán Iran tại Berlin, cũng là căn cứ chính cho hoạt động khủng bố tiền phương ở phương Tây của VEVAK. Gã mang hộ chiếu ngoại giao dưới một tên khác và chức danh quèn trong lãnh sự quán. Ngay cả người Đức, vốn có quan hệ thương mại thân thiết một cách đáng ngại với Iran, cũng không tin lấy nửa lời.
“Vậy giả thuyết của anh là gì?” Carter hỏi.
“Đơn giản mà nói, chúng tôi không tin việc Massoud và David Girard cùng ngồi trên một toa xe điện tại Zurich là sự trùng hợp ngẫu nhiên.”
“Anh có nghĩ rằng Massoud đã ra lệnh đặt bom ở St. Moritz không?”
“Đó là tác phong của Massoud,” Gabriel đáp. “Hắn chưa bao giờ ngần ngại để người phe mình tử vì đạo khi cần bảo vệ một bí mật quan trọng.”
“Và bây giờ anh muốn tìm hiểu bản chất của bí mật đó.”
“Chính xác.”
“Bằng cách nào?”
“Chúng tôi hy vọng Massoud sẽ tự tiết lộ với chúng tôi.”
“Anh đang nghĩ tới chuyện mua chuộc hắn ư?”
“Massoud thà chặt tay mình chứ không nhận tiền của Do Thái đâu.”
“Cưỡng ép ly khai?”
“Không có thời gian.”
Carter trầm ngâm chìm vào một sự im lặng nặng nề. “Tôi không cần nhắc anh nhớ Massoud đang mang hộ chiếu ngoại giao,” ông lên tiếng sau một lúc. “Và đó là lý do chúng ta không thể động vào gã.”
“Không ai là bất khả xâm phạm. Nhất là khi liên quan đến chuyện sống còn của nhiều người.”
“Massoud là bất khả xâm phạm,” Carter đáp lại. “Và chỉ cần anh chạm đến một sợi tóc của hắn thì việc đó sẽ biến tất cả các nhà ngoại giao Israel trên toàn cầu thành mục tiêu tấn công.”
“Nếu anh chưa nhận ra, Adrian, thì tình hình vốn đã vậy rồi. Bên cạnh đó,” Gabriel nói thêm, “tôi không đến đây để xin lời khuyên.”
“Vậy tại sao anh đến đây?”
“Tôi muốn biết liệu sân đấu có trống không.”
“Tôi có thể thẳng thắn tuyên bố CIA không lại gần sân,” Carter nói. “Nhưng anh nên biết rằng người Đức đã định tóm hắn khoảng vài năm trước đây.”
“Bằng cách nào?”
“Có vẻ như Massoud thích hưởng thụ cuộc sống, ưa cái sang trọng. Hắn thường xuyên cắt xén một ít từ ngân sách hoạt động của mình và giấu nó chỗ này chỗ kia ở các ngân hàng trên khắp châu Âu. BND đã nắm thóp hắn. Họ định ngồi xuống ngả bài với Massoud và cho hắn tự lựa chọn: hoặc làm việc cho bọn họ, hoặc họ sẽ báo cho mấy ông chủ của hắn ở Tehran biết hắn đang biển thủ công quỹ.”
“Làm sao anh moi được tin này?”
“Bởi vì người Đức đến gặp tôi và hỏi CIA có hứng thú tham gia không. Họ thậm chí còn cho tôi một bản sao bằng chứng chống lại hắn.”
“Rồi sau đó?”
“Chẳng có gì xảy ra cả,” Carter nói. “Giai đoạn đó Nhà Trắng nghĩ rằng họ có thể dỗ ngọt Iran từ bỏ chương trình hạt nhân của mình. Tổng thống và đội của ông không muốn làm bất cứ chuyện gì có thể chọc giận người Iran. Hóa ra Thủ tướng Đức cũng vậy. Bà sợ nó sẽ liên lụy đến các doanh nghiệp Đức đang kinh doanh tại Iran.”
“Vậy là vụ này chìm xuồng,” Gabriel nói. “Và kẻ giết người vẫn ung dung ngồi ở Berlin vạch kế hoạch tấn công vào đất nước tôi.”
“Có vẻ như vậy.”
“Thế số chứng cứ của BND giờ ở đâu?”
“Được cất trong phòng lưu trữ hồ sơ ở Langley.”
“Tôi muốn có nó.”
“Anh có thể lấy số hồ sơ,” Carter trả lời, “nhưng cái gì cũng có giá của nó.”
“Bao nhiêu?”
“Tôi có một danh sách dài các câu hỏi cần được trả lời.”
“Sao anh không tham gia cho vui?”
“Bởi vì tôi không muốn ở trong bán kính một trăm mét gần trò vui đó.” Carter nghiêm túc nhìn Gabriel. “Anh có cho phép tôi gửi anh hai lời khuyên không?”
“Nếu anh cần phải làm vậy.”
“Hãy dựng một câu chuyện thật hay để làm vỏ bọc,” Carter nói. “Và dù anh làm gì đi nữa cũng đừng để xảy ra sơ suất. Nếu không, rất có thể anh sẽ châm ngòi cho Chiến tranh Thế giới thứ ba.”
Carter yêu cầu lấy tập tài liệu của Đức sao cho chỉ để lại làn khói mỏng ở Langley, và trong vòng một giờ nhân viên chuyển phát của CIA đã giao chúng đến trước cửa nhà ông. Vì Carter không thể đưa ông tập tài liệu mà vẫn phủ nhận được trách nhiệm, nên Gabriel đã dành nguyên phần còn lại của buổi chiều ấm áp đó dưới hiên nhà của Carter, ghi vào trí nhớ mọi chi tiết những vi phạm tài chính của Massoud. Carter giải thích cho ông hiểu một vài điểm tinh vi nhưng dành phần lớn thời gian cho danh sách các câu hỏi muốn chất vấn Massoud. Vị giám đốc viết chúng lần lượt ra giấy, không viết tắt hay dùng ký hiệu, rồi sau đó đem đốt các trang chưa sử dụng trong tập giấy ghi chú vàng của mình. Carter là kiểu điệp viên tuyệt đối tuân thủ những kỹ thuật tình báo truyền thống, ở Langley, người ta đồn rằng Carter để lại những vệt phấn trên thành giường mỗi khi muốn làm tình với vợ.
Đến gần bốn giờ chiều Gabriel mới xem xong tập tài liệu, và chỉ vừa kịp bắt chuyến bay đêm của hãng Lufthansa đến Berlin. Khi cả hai ra khỏi nhà đến chỗ chiếc Escalade đang chờ sẵn, Carter có vẻ thất vọng khi Gabriel rời đi. Thật vậy, ông chu đáo đến kỳ quặc, đến nỗi Gabriel hơi ngạc nhiên khi vị giám đốc không nhắc ông cài dây an toàn.
“Anh đang bận tâm chuyện gì vậy, Adrian?”
“Tôi chỉ đang tự hỏi liệu anh có thực sự sẵn sàng cho vụ này.”
“Người tiếp theo hỏi tôi câu này...”
“Đó là một câu hỏi hợp lý,” Carter nói, cắt lời Gabriel. “Nếu người của tôi kinh qua những gì anh đã nếm trải ở hoang mạc Empty Quarter, anh ta sẽ được về nghỉ ngơi cả đời còn lại.”
“Tôi đã cố gắng làm vậy.”
“Có lẽ lần tới anh nên nỗ lực hơn.” Carter bắt tay Gabriel. “Nhớ gửi tôi một tấm bưu thiếp từ Berlin. Và nếu có lỡ bị bắt, anh hãy cố quên từ đâu mà mình đã nhận được thông tin về các hoạt động ngoài giờ của Massoud.”
“Đó sẽ là bí mật nhỏ giữa chúng ta, Adrian. Cũng giống như mọi chuyện khác.”
Carter mỉm cười và đóng cửa xe lại. Gabriel nhìn ông lần cuối khi ông đứng bên vệ đường, cánh tay giơ lên như thể đang vẫy taxi. Sau đó, chiếc Escalade ầm ầm quanh qua một khúc cua, và Carter biến mất. Gabriel nhìn ra ngoài cửa sổ kính màu về phía bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận và những cành non đang đơm hoa, nhưng trong tâm trí ông chỉ toàn các con số. Những số tài khoản bí mật của Massoud. Và những giờ khắc còn lại trước khi Massoud nhuộm các con đường đỏ máu.