Chương 28 QUẬN WANNSEE, THỦ ĐÔ BERLIN
MỘT TRONG NHIỀU bí ẩn tồn tại dai dẳng về chiến dịch là không hiểu nguyên do tại sao mà căn hộ an toàn của đội ở Berlin lại được đặt tại quận Wannsee. Người đứng đầu bộ phận Quản lý Nhà sẽ quả quyết đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, rằng ông đã chọn tòa nhà này đơn giản vì nó trống và hữu dụng, chỉ sau này, khi trang sử chính thức của vụ việc đã được khắc lên đá, ông mới thừa nhận rằng chính Ari Shamron đã tác động lên quyết định của ông. Shamron muốn nhắc nhở Gabriel và đội của ông về những gì đã xảy ra tại Wannsee vào tháng Một năm 1942, khi mười lăm tướng tá cấp cao của Đức quốc xã tụ họp ăn trưa trong căn biệt thự ven hồ đó rồi thảo luận những chi tiết hành chính trong kế hoạch hủy diệt cả một dân tộc. Và có lẽ, mọi người đều đồng ý rằng, ông muốn nhắc nhở đội về cái giá phải trả khi thất bại.
Ngôi nhà an toàn nằm cách Trung tâm Hội nghị Wannsee khoảng nửa dặm về phía nam, trên một dải đường cây cối rậm rạp có một cái tên thật phù hợp là Lindenstrasse. Hai bức tường cao bao quanh khuôn viên nhà, một là tường đổ nát còn một là cây xanh mọc um tùm. Các gian phòng trống trải bốc mùi ẩm ướt, bụi bặm và còn thoang thoảng mùi rượu. Cá chép đốm to béo ngủ mê man bên dưới lớp băng trong ao cá.
Các thành viên của đội Gabriel đóng giả làm nhân viên một công ty gọi là VisionTech có trụ sở đặt tại Montreal -sản phẩm tưởng tượng của một nhân viên bàn giấy tại Đại lộ King Saul. Theo câu chuyện vỏ bọc lần này, họ đến Berlin để thiết lập liên doanh với một công ty của Đức, chuyện đó giải thích cho số lượng nhiều bất thường các máy tính và thiết bị kỹ thuật mà họ sở hữu. Họ bày phần lớn máy móc trong phòng ăn lớn, là trung tâm điều hành của họ. Chỉ vài giờ sau khi họ đến, các bức tường phòng ăn đã phủ đầy những tấm bản đồ phóng to cùng ảnh chụp theo dõi một người đàn ông giả vờ là nhân viên quèn trong Đại sứ quán Iran nhưng trên thực tế, gã là tổng đạo diễn các hoạt động khủng bố quốc tế của đất nước gã.
Dina vui vẻ nhận nhiệm vụ chuẩn bị các câu hỏi cho buổi thẩm vấn Massoud vốn đã bị hoãn lại quá lâu. Bước vào chỗ làm việc của cô cứ như lạc vào một lớp học chuyên đề về sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố hiện đại. Massoud Rahimi đã ở trung tâm của nó từ tháng Mười Một năm 1979, khi hắn hòa cùng đoàn sinh viên và binh lính xông vào Đại sứ quán Mỹ ở Tehran. Trong số 52 con tin bị bắt giữ, nhiều người sau đó đã khẳng định hắn là tên tàn bạo nhất trong số những kẻ hành hạ họ. Hành quyết giả là trò giải trí ưa thích của hắn. Lúc đó, Massoud khoái trá nhất khi chứng kiến một người Mỹ cầu xin hắn tha cho con đường sống.
Tiết mục lớn của hắn diễn ra vào năm 1982 ở Lebanon, khi hắn bắt đầu làm việc với một nhóm chiến binh Shiite mới được gọi là Tổ chức của Người bị áp bức trên Trái đất. Người ta đồn đại rằng Massoud đã góp phần quan trọng trong việc rút ngắn tên của tổ chức thành Đảng của Chúa, hay còn gọi là Hezbollah. Người ta còn đồn rằng đích thân hắn hỗ trợ lắp ráp xe tải bom 5.500 cân đã phá hủy doanh trại Hải quân Mỹ tại Sân bay Beirut lúc 6:22 sáng ngày 23 tháng 10 năm 1983. Vụ tấn công, vụ nổ phi hạt nhân lớn nhất kể từ chiến tranh Thế giới thứ hai, giết chết 243 quân nhân Mỹ và thay đổi vĩnh viễn bộ mặt của khủng bố toàn cầu. Sau đó có thêm nhiều cuộc tấn công khác. Máy bay bị không tặc khống chế, con tin bị bắt giữ, các đại sứ quán bị đánh bom. Tất cả đều có một điểm chung. Chúng được tiến hành theo mệnh lệnh của gã làm việc trong Đại sứ quán Iran tại Berlin, được bảo vệ bởi tấm hộ chiếu ngoại giao.
Nhưng làm thế nào để thuyết phục một gã như Massoud tiết lộ những bí mật chết chóc nhất của hắn? Và làm thế nào để khống chế hắn ngay từ đầu? Họ sẽ làm theo phương pháp taqiyya truyền thống của người Shiite, thể hiện ngoài mặt một ý định khác và che giấu ý định thật sự. Họ sẽ không bắt cóc Massoud, Gabriel nói. Họ sẽ trở thành cứu tinh và người bảo vệ gã. Và khi đã hoàn toàn vắt kiệt gã, họ sẽ để cho gã đi theo con đường vui vẻ của mình. Tóm rồi thả, ông gọi sách lược đó là vậy. Vô hại, cũng chẳng chết ai.
Họ những muốn theo dõi hắn trong một tháng hoặc hơn, nhưng không thực hiện được; đèn báo động đỏ nhấp nháy ở Đại lộ King Saul, tất cả thông tin tình báo đều cho thấy sẽ có một cuộc tấn công lớn trong một tuần hoặc sớm hơn. Họ phải bắt giữ Massoud trước khi quả bom phát nổ, hoặc trước khi Tehran tìm ra một cái cớ để triệu hắn về nhà. Đó là nỗi sợ lớn nhất của Gabriel, rằng VEVAK sẽ “đóng băng” Massoud trước cuộc tấn công, khiến hắn nằm ngoài tầm với của Văn phòng hoặc của bất cứ ai khác. Và do vậy Gabriel ra thời hạn ba ngày - ba ngày để lên kế hoạch và tiến hành bắt cóc một nhà ngoại giao Iran ở giữa trung tâm của Berlin. Khi Eli Lavon cho rằng tỉ lệ thành công của họ chỉ bằng một phần tư, Gabriel dẫn ông vào văn phòng tạm của Dina để xem những bức ảnh về viễn cảnh sẽ xảy ra nếu họ thất bại. “Tôi không muốn những tỉ lệ,” Gabriel nói. “Tôi muốn Massoud.”
Nhờ Massoud cảm thấy rất an toàn trên đất Đức nên nhiệm vụ của họ phần nào dễ dàng hơn. Lịch trình của hắn - ít nhất trong thời gian ngắn ngủi mà họ quan sát được - hết sức chặt chẽ, ổn định. Phần lớn thời gian hắn chỉ quanh quẩn ở văn phòng VEVAK đặt trong Đại sứ quán, bên cạnh tình cờ là Viện Khảo cổ học Đức, một điềm tốt theo ý kiến chung của cả đội. Hắn luôn đến văn phòng trước 8:00 mỗi sáng và ở đó suốt đến tối mới về. Căn hộ của hắn nằm cách Đại sứ quán hai dặm về phía bắc, trong khu Charlottenburg của thủ đô Berlin. Chiếc xe chính thức hắn dùng hình như không có bọc thép, nhưng tay đầu gấu do VEVAK cử đến làm lái xe kiêm vệ sĩ của hắn thì khác. Nhiệm vụ vô hiệu hóa tay vệ sĩ trong đêm bắt hắn được giao cho Mikhail. Cũng không phải tốn công tốn sức thuyết phục anh chàng. Sau nhiều năm né đạn do Iran cung cấp trong thời gian công tác tại IDF, giờ Mikhail thật nôn nóng muốn đáp lại “ân huệ” xưa.
Nhưng nên ra tay ở đâu đây? Trên tuyến đường đông đúc? Trên con phố yên tĩnh? Ở một cột đèn giao thông? Ngay trước cửa nhà Massoud? Gabriel quy định rằng địa điểm sẽ được xác định bởi chỉ một yếu tố. Chỗ đó phải có đường rút lui an toàn cho họ bất luận thành công hay thất bại. Nếu họ chọn một vị trí quá gần Đại sứ quán Iran thì có thể phải đọ súng với cảnh sát Đức, những người bảo vệ nó ngày đêm. Nhưng nếu để Massoud về quá gần nhà hắn thì họ có thể mắc kẹt trong dòng giao thông đông nghẹt của Charlottenburg. Cuối cùng, lựa chọn trở nên rõ ràng với tất cả mọi người. Gabriel đánh dấu địa điểm đó trên bản đồ bằng một cái ghim màu đỏ như máu. Đối với Eli Lavon, nó trông giống một tấm bia mộ.
Như vậy, hoạt động đã chuyển sang giai đoạn mà cả đội gọi là “chặng cuối”. Họ đã có đối tượng mục tiêu, có kế hoạch hành động, có nhiệm vụ tác chiến. Bây giờ tất cả những gì họ cần làm là đưa chiếc máy bay tiếp đất an toàn mà không giết chết mình và mọi người trên đó. Vì không có máy tính để hướng dẫn, họ sẽ phải hành động theo kiểu cũ, dựa vào bản năng, thần kinh thép và có lẽ thêm một chút may mắn nữa. Họ cố gắng giảm thiểu sự phụ thuộc vào yếu tố may mắn. Gabriel tin rằng không nên trông mong vào vận may, vì vận may phải nỗ lực mới có. Và vận may thường mỉm cười với những ai lên kế hoạch và chuẩn bị tỉ mỉ.
Trong từ điển của Văn phòng, hoạt động này “nặng bánh”, nghĩa là nó cần huy động nhiều xe của các nhãn hiệu và model khác nhau. Vận tải, bộ phận phụ trách vấn đề này trong Văn phòng, chủ yếu thuê xe ngoài từ các đại lý thân thiện ở châu Âu sao cho không thể truy về thành viên của đội. Tuy nhiên, phương tiện di chuyển quan trọng nhất thì thuộc sở hữu của Văn phòng. Là một chiếc xe van hiệu Volkswagen với khoang giấu người bí mật, chiếc xe này từng đóng góp rất lớn cho một trong những chiến công nổi tiếng nhất của Gabriel - vụ bắt giữ tên tội phạm chiến tranh phát xít, Erich Radek, tại nhà hắn trên quận Nhất ở Vienna. Đêm đó Chiara ngồi sau tay lái. Radek vẫn thường xuất hiện trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của nàng.
Trước sự kinh ngạc và lo lắng của Chiara, nàng không nằm trong số những người có mặt tại Berlin trong lần hành động này, mặc dù vẫn đóng vai trò trung tâm trong nhiệm vụ. Việc của nàng là xếp đặt những mẩu taqiyya để che đậy dấu vết cho cả đội, và nếu thành công, đánh lạc hướng cả phía Đức và Iran. Giống như mọi lời nói dối hoàn hảo, nó phải hợp tình hợp lý và có đan xen vài chi tiết thật trong đó. Và có lẽ, Gabriel nói, nó cũng chứa một sợi dây hy vọng về tương lai - một tương lai mà Iran không còn nằm trong vòng kìm kẹp của bọn tín đồ cuồng tín. Các giáo sĩ Hồi giáo và bọn tay sai trong quân Vệ binh Cách mạng không phải là những nhân tố lý trí. Chúng hành động không thể đoán trước và tin vào sự diệt vong. Và Trung Đông sẽ không bao giờ biết đến hòa bình đích thực cho tới khi chúng bị đẩy lùi vào lịch sử.
Còn những lời nói dối khác nữa, chẳng hạn như chiếc ba-lô vải chất đầy đất sét màu kem, dây điện, thiết bị hẹn giờ, và một trái mìn dính limpet nhỏ chỉ được cái nổ to chứ sức công phá thì chẳng là bao. Nhưng tất cả chúng đều vô nghĩa nếu như họ không thể lôi cổ Massoud ra khỏi xe hắn mà không phải dùng quá nhiều vũ lực. Sau nhiều cân nhắc, họ quyết định Yaakov sẽ là lưỡi gươm bén ngót, còn Oded, cây búa cùn, sẽ là trợ thủ. Là một chuyên viên thẩm vấn dày dạn kinh nghiệm trước những tên khủng bố, Yaakov có khuôn mặt và thái độ khiến người ta khó thể nghi ngờ chuyện anh nói được làm được. Quan trọng hơn, Yaakov là hậu duệ của người Do Thái tại Đức và cũng giống Gabriel, anh nói thông thạo tiếng Đức. Nhiệm vụ của Yaakov là dụ Massoud ra khỏi xe. Và nếu ngôn từ không hiệu quả thì Oded sẽ nhảy vào vung búa xuống.
Cả đội không dám diễn tập ở nơi công cộng, vì vậy họ đã tiến hành vô số buổi diễn tập thu nhỏ trong phạm vi ngôi nhà an toàn ở Wannsee. Ban đầu, thái độ của Gabriel rất lạnh lùng chuyên nghiệp, nhưng khi buổi thực hành này kéo tới buổi khác, tâm trạng ông ngày càng bất ổn. Mikhail lo ngại ông bị dư chấn từ vụ đánh bom ở St. Moritz, hoặc có lẽ từ cơn ác mộng tại hoang mạc Empty Quarter. Nhưng Eli Lavon biết nguyên nhân thật sự. Đó là vì Berlin, ông bảo. Với tất cả mọi người trong đội, Berlin là một thành phố ma, nhưng điều này đặc biệt đúng đối với Gabriel. Nơi đây từng là nhà ông bà ngoại ông. Và rất có khả năng đây còn là nhà của Gabriel, nếu không có bọn giết người đã tụ tập trong căn biệt thự ven hồ ngay đầu con phố.
Và do đó, họ lắng nghe với sự kiên nhẫn đáng ngưỡng mộ khi ông lật lại từng chi tiết của kế hoạch đến cả trăm lần. Và họ trộm cười khi ông mắng xối xả Yaakov và Oded sau lần diễn tập cuối đặc biệt đáng sợ. Và mỗi khi ông ở một mình, họ cẩn thận không lại gần làm ông giật mình bởi vì, mặc dù cả đời lăn lộn trong nghề, lần này ông lại căng thẳng bất thường, và rốt cuộc, vào buổi chiều cuối cùng của họ tại Berlin, khi không thể chịu nổi tính khí gắt gỏng của ông nữa, họ nhuộm thẫm vùng tóc bạc nổi bật hai bên thái dương ông và giấu đôi mắt màu xanh lục không thể nào quên của ông đằng sau cặp kính. Sau đó, họ bọc ông trong áo khoác và khăn choàng rồi với một cú đẩy nhẹ, xua ông ra khỏi ngôi nhà an toàn để lang thang ngoài phố giữa các linh hồn đã khuất.
Con người thực địa trong ông muốn tận mắt nhìn qua ít nhất một lần các địa điểm tác chiến - Đại sứ quán, chốt canh gác, các vị trí rút lui, vị trí cướp người. Sau đó, ông leo lên chuyến tàu S-Bahn mang ông băng ngang Berlin đến Cổng Brandenburg. Giờ đây, trong khu Đông Đức cũ của thành phố, ông đi dọc theo Đại lộ Unter den Linden, dưới những cành cây chanh trơ trụi. Tại Friedrichstrasse, trung tâm giải trí về đêm trụy lạc của Berlin những năm 1920, ông rẽ phải và đi vào quận Mitte. Đó đây ông thoáng thấy tàn tích của quá khứ trong khu vực, nhưng hầu hết các di sản kiến trúc thời Đông Đức đã được xóa sạch. Như thể cuộc chiến tranh Lạnh, hay cuộc chiến tranh thực sự trước đó, chưa bao giờ xảy ra. Trong quận Mitte hiện đại, không có kỳ niệm đau thương, chỉ có sự phát triển thịnh vượng.
Tại Kronenstrasse, Gabriel rẽ phải thêm lần nữa và men theo con đường về phía đông cho đến khi tới chỗ một căn hộ hiện đại với các ô cửa sổ lớn sáng long lanh như phiến mã não. Cách đây rất lâu, trước cả chiến tranh, đây là khuôn viên của một tòa nhà tân cổ điển xinh xắn xây bằng đá xám. Trên tầng hai có một họa sĩ người Đức theo trường phái Biểu hiện tên là Viktor Frankel, sống cùng vợ, bà Sarah, và cô con gái của họ, Irene, mẹ của Gabriel. Gabriel chưa bao giờ nhìn thấy bức ảnh nào chụp căn hộ, nhưng một lần khi ông còn bé, mẹ ông đã cố gắng phác họa nó cho ông xem trước khi vỡ òa trong nước mắt. Đây là nơi mà gia đình bà đã trải qua cuộc sống trưởng giả quyến rũ tràn ngập không khí nghệ thuật, âm nhạc, và những buổi chiều trong công viên Tiergarten. Và đây cũng là nơi họ đã lưu lại khi cái thòng lọng thắt dần quanh cổ. Cuối cùng, vào mùa thu năm 1942, họ bị chính những người đồng hương của mình dồn lên một chiếc xe chở gia súc và trục xuất về phía đông tới Auschwitz. Ông bà của Gabriel bị giết bởi khí ngạt khi vừa đến nơi, còn mẹ ông bị tống vào trại lao động nữ tại Birkenau. Bà chưa từng kể cho Gabriel về những ngày tháng đó. Thay vì vậy, bà ghi thành giấy trắng mực đen và cất giữ chúng cẩn thận trong kho lưu trữ của trung tâm tưởng niệm Yad Ashe.
Tôi sẽ không kể lại tất cả những gì tôi đã chứng kiến. Tôi không thể. Tôi nợ những người đã khuất rất nhiều....
Gabriel nhắm mắt lại và hình dung đường phố trước khi sự cuồng loạn ập tới. Và sau đó ông như thấy mình là đứa trẻ tung tăng đến thăm ông bà, những người lẽ ra đã được sống đến tuổi già. Ông tưởng tượng cuộc sống của mình có lẽ sẽ khác hẳn nếu được nuôi dạy ở đây, tại Berlin thay vì trong thung lũng Jezreel. Và sau đó một đám khói cay sè thoảng qua mặt ông, tựa như khói của lò thiêu xa xăm, và ông nghe thấy một giọng nói quen thuộc ở sau lưng.
“Anh mong tìm thấy gì ở đây?” Ari Shamron hỏi.
“Sức mạnh,” Gabriel đáp.
“Mẹ anh đã cho anh sức mạnh khi bà đặt tên anh,” Shamron nói. “Và sau đó bà đã giao anh cho tôi.”