← Quay lại trang sách

Chương 33 THỦ ĐÔ VIENNA

CÓ MỘT CHUYẾN BAY khởi hành lúc sáu rưỡi sáng từ Copenhagen và đến Vienna vào giữa buổi sáng. Sau khi nhập cảnh vào Áo bằng hộ chiếu Mỹ mà ông đã thuận tiện quên trả cho Adrian Carter, Gabriel vào một quán cà phê ở sân bay và ngồi đọc báo một tiếng đồng hồ cho đến khi trông thấy hội Mikhail, Oded, Yaakov, và Eli Lavon băng qua sảnh đến. Ông theo chân họ ra ngoài và dõi theo khi họ lên bốn chiếc taxi khác nhau. Sau đó, ông mới bước tới một chiếc sedan màu đen mang biển số Vienna rồi chui vào phía sau. Ngồi ở phía đối diện là Ari Shamron. Ông Già đã trút bỏ bộ len lụa của Ngài Heller và một lần nữa vận quần kaki, áo sơ mi vải oxford và áo khoác da. Ông quẳng điếu thuốc ra ngoài cửa sổ khi chiếc xe vọt về phía trước.

“Trông như thể anh đã không chợp mắt cả tuần liền.” “Sự thật là vậy.”

“Chỉ thêm vài giờ nữa thôi, con trai. Sau đó, mọi chuyện sẽ kết thúc.”

Chiếc xe rẽ vào xa lộ A4 Ost Autobahn và hướng về phía trung tâm Vienna. Thời tiết thật kinh khủng, mưa đá kèm theo tuyết và gió lốc ầm ào.

“Chúng ta đã tiết lộ những gì với bên Áo rồi?” Gabriel hỏi.

“Sáng sớm nay, Uzi đã đánh thức Jonas Kessler, giám đốc cơ quan an ninh Áo, và báo rằng đất nước của anh ta sẽ là mục tiêu của một cuộc tấn công khủng bố, dù phía anh ta chưa từng có hành động khiêu khích gì.”

“Kessler phản ứng thế nào?”

“Sau khi lên giọng thuyết giảng về chuyện Israel đang đẩy thế giới vào nguy hiểm bằng những hành động của mình, anh ta gặng hỏi tin tình báo này đến từ đâu. Như anh biết đấy, Uzi trả lời khá mơ hồ, và điều này không làm Kessler vừa lòng.”

“Anh ta biết cụ thể thời gian chưa?”

“Kessler biết chúng ta đang nói về chuyện vài giờ tới chứ không phải ngày một ngày hai, nhưng Uzi khăng khăng sẽ nói phần còn lại với anh ta khi gặp trực tiếp. Thực ra,” Shamron nói thêm, “chúng tôi nghĩ có lẽ sẽ tốt hơn nếu để anh trình bày việc này.”

“Tôi ư?”

Shamron gật đầu. “Một số đồng minh hay đổi ý của chúng ta tại châu Âu có cảm tưởng rằng chúng ta xì tin tức về âm mưu này nọ cho họ chỉ để củng cố địa vị của chúng ta. Nhưng nếu cảnh báo đến từ anh thì nó sẽ gửi một thông điệp rõ ràng rằng chúng ta đang nghiêm túc. Vô cùng nghiêm túc.”

“Bởi vì họ biết tôi sẽ không đặt chân đến đây trừ khi mạng sống mọi người đang bị đe dọa?”

“Chính xác.”

“Và khi họ hỏi về nguồn gốc thông tin?”

“Anh cứ bảo một chú bồ câu đã mách với anh. Rồi anh chuyển sang chuyện khác.”

Gabriel im lặng một lúc. “Nếu Massoud nói thật,” cuối cùng ông lên tiếng, “tình hình có lẽ vượt quá khả năng của Áo. Vụ này cần được xử lý đúng cách, Ari. Nếu không thì sẽ có nhiều người chết. Rất nhiều người.”

“Vậy thì có lẽ chúng ta có thể đi đến một giải pháp công bằng.”

“Công bằng thế nào?”

“Chúng ta sẽ cứu mạng mọi người còn họ nhận lấy công trạng.”

Gabriel mỉm cười. Sau đó, ông nhắm mắt lại và lập tức chìm vào giấc ngủ.

Như thường lệ, đã nổ ra một trận tranh cãi nhỏ giữa hai cơ quan về địa điểm tổ chức cuộc họp. Uzi Navot muốn tổ chức trong một phòng an toàn tại Đại sứ quán Israel, nhưng Jonas Kessler lại chọn một tòa nhà chính phủ oai vệ giữa phố cổ Innere Stadt thanh lịch của Vienna, ngay góc phố gần Kịch viện Quốc gia. Một bảng hiệu dựng tạm ngay đại sảnh cho biết toàn bộ khu vực ngày hôm ấy được sử dụng cho một hội nghị gì đó về nông nghiệp bền vững, nhưng trên lối vào dẫn đến phòng họp chính đặt một thùng nhựa, và khách đến tham dự được hướng dẫn để điện thoại di động và các thiết bị điện tử khác của họ vào đấy. Căn phòng hội nghị trông như một thú quái vật Habsburg, treo đầy rèm cửa màu vàng và đèn chùm pha lê lơ lửng bên trên như những đám mây thắp nến lung linh. Khi Gabriel và Shamron bước vào, Navot đang lảng vảng bên bàn buffet chất đầy bánh ngọt và bánh tart phết kem xứ Vienna. Kessler, một người góc cạnh có mái tóc đen ép sát đầu, đang đứng phía bên kia phòng, được bao quanh bởi một hàng rào trợ lý bảo vệ. Ông ta sốt ruột nhìn đồng hồ đeo tay, như thể đang băn khoăn liệu có thể khép lại buổi họp kịp giờ tập thể dục giữa trưa hay không.

Theo đề nghị của Kessler, họ ngồi vào chỗ được xếp sẵn, quanh một chiếc bàn hình chữ nhật trang trọng trông hợp với hội nghị thượng đỉnh thời chiến tranh Lạnh hơn là buổi họp mặt điệp viên. Gabriel, Shamron, và Navot ngồi ở một bên, nhóm người Áo ngồi phía đối diện. Hầu hết mọi người đều đến từ bộ phận chống khủng bố của cơ quan an ninh, nhưng cũng có một số lãnh đạo cao cấp của Bundespolizei, lực lượng cảnh sát quốc gia Áo. Kessler không buồn giới thiệu dài dòng. Họ cũng không gặp bất kỳ trở ngại nào về mặt ngôn ngữ; cả Gabriel, Shamron, và Navot đều thông thạo tiếng Đức. Thật ra giọng Navot còn thoáng chút ngữ điệu Vienna. Tổ tiên của ông đã từng sống ở Vienna trước khi Đức sáp nhập vào Áo hồi năm 1938. Hồi người đào thoát đã bị cướp đi tất cả - tất cả trừ chất giọng Vienna của họ.

“Chúng tôi vinh dự tiếp đón nhiều nhân vật kiệt xuất từ quý cơ quan tới đây hôm nay,” Kessler nói, giọng không mấy nhiệt thành, tay gõ một chiếc thìa bạc vào vành tách cà phê bằng sứ hệt như gõ búa thẩm phán.

“Đặc biệt là anh, Ngài Allon. Cũng lâu rồi kể từ lần cuối anh đến Vienna.”

“Không lâu như anh nghĩ đâu,” Gabriel đáp.

Kessler nặn ra một nụ cười gượng gạo. “Tôi đang làm việc vào cái đêm bọn PLO cài bom dưới xe của anh,” ông này nói sau một lúc. “Tôi nhớ rõ như thể chuyện mới ngày hôm qua.”

“Tôi cũng vậy,” Gabriel trả lời, giọng đều đều.

“Tôi cho rằng,” Kessler nói. “Tôi cũng đang làm việc vào cái đêm anh bắt cóc Erich Radek từ nhà của hắn ở quận Nhất và đưa hắn nhập cảnh lậu vào Israel.”

“Radek đồng ý đến Israel một cách tự nguyện.”

“Chỉ sau khi anh đưa hắn đến hiện trường tội ác ở Treblinka. Nhưng mà như người ta thường nói, đó là chuyện xưa lơ xưa lắc.” Thêm một nụ cười gượng nữa. “Anh Navot đây nói với tôi rằng Hezbollah đang chĩa mục tiêu tấn công về phía Vienna ”

Gabriel gật đầu.

“Khi nào cuộc tấn công này diễn ra?”

“Ngay sau khi mặt trời lặn.”

“Mục tiêu là?”

“Trung tâm cộng đồng và hội đường Stadttempel. Nếu bọn khủng bố thành công thì có thể có hơn một trăm người chết đêm nay. Nhưng nếu chúng ta bắt tay nhau...” giọng Gabriel nhỏ dần, câu nói bị bỏ lửng.

“Thì?”

“Chỉ có bốn kẻ khủng bố mất mạng.”

“Chúng tôi chưa đồng ý hợp tác với anh, Ngài Allon.

Và chúng tôi chắc chắn sẽ không tham gia vào loại hoạt động giết người có mục tiêu.”

“Khi tôi nói hết cho anh nghe những gì anh đang phải đối mặt, anh sẽ nhận ra mình không còn lựa chọn nào khác.”

“Có lẽ anh đủ tử tế để cho chúng tôi biết nguồn gốc của thông tin này.”

“Quy tắc số một khi làm việc với Văn phòng chúng tôi,” Gabriel bảo. “Đừng hỏi quá nhiều.”

Nếu lời phát biểu mở đầu khác thường của Gabriel có một tác dụng, thì đó chính là làm cho khán thính giả của ông không nói nên lời. Thật thế, khi ông chuyển lại các thông tin moi được ở chỗ Massoud, phe Áo im phăng phắc, thỉnh thoảng có tiếng ai đó hít sâu khi cảm thấy không tin nổi. Gabriel khó có thể trách họ, vì vào thời điểm đó, một nhóm bốn gián điệp của Hezbollah đang ẩn nấp trong căn hộ tại số 34 đường Koppstrasse, chuẩn bị thực hiện cuộc tấn công khủng bố tồi tệ nhất trong lịch sử của Áo. Mỗi tên được trang bị một khẩu súng lục bán tự động và một chiếc áo đánh bom tự sát nhét hàng chục ký thuốc nổ và mảnh bom chết người. Chúng sẽ dùng súng ngắn để khống chế các nhân viên bảo vệ đang canh gác cho buổi lễ tại khu di tích lịch sử. Một khi đã vô hiệu hóa được tốp bảo vệ, bọn chúng sẽ chia làm hai hướng tấn công - hai tên đi vào hội đường, hai tên còn lại hướng đến khu trung tâm cộng đồng nằm bên kia con phố hẹp. Chúng dự định sẽ kích nổ bom cùng một lúc. Allahu Akbar (Thánh Allah vĩ đại).

“Tại sao chúng ta không xông thẳng vào và bắt giữ bọn chúng ngay bây giờ?” Kessler hỏi.

“Bởi vì chúng không phải là dân nghiệp dư đến từ khu ổ chuột của người Hồi giáo Tây Âu. Đây là những kẻ khủng bố đã qua huấn luyện của tổ chức Hezbollah, những kẻ đã vào nghề qua chiến đấu với quân đội Israel ở miền Nam Lebanon.”

“Có nghĩa là?”

“Chúng đã sẵn sàng hành động từ vài giờ trước. Nếu anh cố gắng xông vào căn hộ đó, chúng sẽ kích nổ hết số thuốc nổ mang theo bên người. Chúng cũng sẽ làm vậy nếu anh thử âm thầm cho sơ tán hội đường mục tiêu hoặc cố bắt giữ chúng ở bất kỳ chặng nào trên con đường đi đến Thiên Đàng của chúng.”

“Thế tại sao không hủy buổi lễ tối nay?”

“Quyết định đó sẽ khiến chúng tôi hạnh phúc xiết bao. Nhưng nếu những kẻ khủng bố đến và thấy hội đường Do Thái đóng cửa thì chúng sẽ đi tìm mục tiêu khác. Vào giờ đó, tôi chắc chắn chúng sẽ dễ dàng tìm được một mục tiêu mới. Thật ra nếu tôi phải đoán, chúng sẽ đi đến Karntnerstrasse và tàn sát càng nhiều càng tốt những người Áo vô tội.”

Karntnerstrasse là một phố đi bộ đông đúc trải dài từ Kịch viện Quốc gia đến nhà thờ Stephansdom. Là trung tâm kinh tế - xã hội của Vienna, dọc hai bên đường là một dãy quán cà phê, cửa hàng độc quyền, và trung tâm thương mại. Vào tối thứ sáu, vụ tấn công sẽ gây hậu quả rất thảm khốc. Tất nhiên Jonas Kessler nhận thức rõ chuyện đó, nét mặt ông trông như thể vừa nuốt phải chiếc khuy măng-sét. Đến khi ông lên tiếng lần nữa, trong giọng nói không còn sự mỉa mai trước đó. Thật ra Gabriel nghĩ mình còn thoáng nghe thấy sự biết ơn.

“Anh có ý kiến gì không, anh Allon?”

“Tôi e rằng chỉ có duy nhất một con đường hành động.”

“Và đó là?”

“Chúng ta chờ nhóm khủng bố tiếp cận hội đường và tuyên bố ý định tấn công của chúng. Sau đó chúng ta hạ chúng trước khi chúng có thể nhấn công tắc kích nổ.”

“Giết chúng ư?”

Gabriel không trả lời. Cả Shamron và Navot cũng không lên tiếng.

“Chúng tôi có một đơn vị cảnh sát chiến thuật tinh nhuệ, thừa khả năng đảm đương nhiệm vụ này.”

“Đội đặc nhiệm Einsatzkommando Cobra,” Shamron cắt ngang. “Còn được biết đến với tên gọi EKO Cobra.”

Kessler gật đầu. “Họ đã được đào tạo để xử lý loại tình huống này.”

“Bằng tất cả sự tôn trọng, thưa anh Kessler, lần cuối cùng một đặc vụ của EKO Cobra bắn lủng sọ một tên khủng bố đang sống sờ sờ, khiến hắn không thể kích nổ quả bom bằng những ngón tay đang co giật giãy chết là khi nào vậy?”

Kessler nín bặt.

“Tôi cũng nghĩ vậy,” Shamron nói. “Anh còn nhớ EKO Cobra được thành lập khi nào không, anh Kessler?”

“Ngay sau vụ thảm sát vào kỳ Thế vận hội Munich.”

“Chính vụ đó,” Shamron nói. “Và tôi có mặt tại hiện trường đêm đó, anh Kessler, chúng tôi cầu xin người Đức để cho chúng tôi thực hiện vụ giải cứu tại Căn cứ Không quân Furstenfeldbruck, nhưng họ từ chối. Tôi phải nghe tiếng gào thét của người dân mình khi họ bị tàn sát. Chuyện đó thật...” Giọng của Shamron nhỏ dần, như thể ông đang tìm từ thích hợp để diễn đạt. Cuối cùng, ông nói, “Thật không thể tin được.”

“Những người bước chân vào hội đường đêm nay đều là công dân Áo.”

“Đúng thế,” Shamron nói. “Nhưng họ cũng là người Do Thái, nghĩa là chúng tôi có trách nhiệm bảo vệ họ. Và chúng tôi sẽ đảm bảo họ lành lặn bước ra khỏi hội đường.”