← Quay lại trang sách

Chương 34 THỦ ĐÔ VIENNA

CUỘC TRANH LUẬN đến đó là kết thúc, cả hai bên cùng ngồi lại để vạch ra một hiệp ước hành động. Trong vòng vài phút, họ đã có phác thảo khái quát của bản thỏa thuận. Gabriel và Mikhail sẽ phụ trách việc hạ bọn khủng bố; còn Đội đặc nhiệm EKO Cobra chịu trách nhiệm giám sát. Kessler cứ khăng khăng giữ quyền hành động cho phe Áo, nếu cơ hội xuất hiện họ có thể tấn công những kẻ khủng bố bất kỳ lúc nào trước khi chúng đến được Khu Do Thái. Nếu không, họ sẽ phải giữ khoảng cách với nhóm Hezbollah - hay như cách Shamron diễn tả, họ phải âm thầm hộ tống chúng đến ngưỡng cửa tử thần. Gabriel chia sẻ với Kessler đường đi nước bước của nhóm khủng bố, bao gồm cả chuyến xe điện chúng sẽ sử dụng, khiến công việc của cánh Áo dễ dàng hơn. Kessler rõ ràng rất ấn tượng, ông ta giới thiệu một quán cà phê trên đường Rotenturmstrasse mà Gabriel có thể dùng làm trạm dừng. Gabriel mỉm cười và nói rằng ông sẽ dùng phòng kế bên.

“Sao vậy?”

“Quang cảnh đẹp hơn.”

“Lần cuối cùng anh đến Vienna chính xác là khi nào?” “Tôi quên mất rồi.”

Vấn đề còn lại chính là các quy tắc hành động, về điểm này thì không có chỗ cho tranh cãi nữa. Gabriel và Mikhail sẽ không được phép có hành động gây chết người cho đến khi mấy tên khủng bố rút súng ra - và nếu giết chết người không có vũ trang, họ sẽ bị truy tố theo pháp luật của Áo, và bất cứ luật nào khác mà Kessler có thể nghĩ đến. Gabriel đồng ý với điều khoản này và thậm chí còn ký tên lên biên bản vừa được soạn thảo vội vàng. Sau khi thêm chữ ký của mình vào bản thỏa thuận, Kessler giao cho họ một số radio cỡ nhỏ chỉnh sẵn về tần số mà các tổ EKO Cobra sẽ sử dụng tối đó.

“Vũ khí của anh đâu?” Kessler hỏi.

“Ngày còn sớm mà,” Gabriel đáp.

Kessler cau mày. “Tin tức tình báo của anh rất rõ ràng,” ông nói. “Chúng tôi hy vọng nó cũng chính xác.”

“Nó thường chính xác. Nhờ đó chúng tôi mới có thể tồn tại trong một khu vực rất nguy hiểm.”

“Anh có dự định lúc nào đó sẽ cho tôi biết nguồn tin của anh không?”

“Nó chỉ tổ làm phức tạp vấn đề thôi.”

“Tôi không cho rằng chuyện này có dính dáng gì với ngài chuyên viên ngoại giao người Iran đang mất tích, nhỉ?”

“Chuyên viên ngoại giao nào đang mất tích vậy?”

Lúc đó, trời đã gần trưa, Shamron đưa cho Gabriel một thẻ từ của một khách sạn trong khu phố cổ Innere Stadt và bảo ông nên nghỉ ngơi vài giờ. Gabriel muốn khảo sát trước hiện trường khi trời còn sáng. Thế là ông rảo bộ dọc theo Phố Karntnerstrasse, một cặp nhân viên của Kessler vụng về theo đuôi ông. Giữa quảng trường Stephansplatz có nhiều đám đông lớn đang lang thang giữa lễ hội đường phố mừng Mùa chay. Gabriel thoáng nghĩ đến chuyện bước vào nhà thờ để xem một bức trang trí bàn thờ ông từng phục chế. Thay vào đó, ông len lỏi qua các quầy hàng đầy màu sắc và tìm đường đến Khu Do Thái.

Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, những con đường và ngõ phố chật hẹp, giao nhau chằng chịt này từng là trung tâm của một trong những cộng đồng Do Thái sôi động và nổi bật nhất thế giới. Thời đỉnh cao, nơi đây từng có đến 192.000 người Do Thái sinh sống, nhưng đến tháng 11 năm 1942 chỉ còn 7.000 người ở lại, những người khác hoặc đã bỏ trốn hoặc bị giết chết trong các trại diệt chủng của Đức Quốc xã. Nhưng Holocaust không phải là vụ hủy diệt người Do Thái đầu tiên ở Vienna. Vào năm 1421, toàn bộ cư dân Do Thái đã bị thiêu chết, bị buộc phải rửa tội, hoặc bị trục xuất sau khi một đợt hiến tế tàn bạo quét qua thành phố. Có vẻ như đôi lúc người Áo cảm thấy họ buộc phải diệt bớt người Do Thái trên lãnh thổ của mình.

Trung tâm của Khu Do Thái chính là hội đường Stadttempel. Được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, khi Hoàng đế Joseph II ban sắc lệnh cấm xây dựng đền chùa ngoại giáo ở những nơi đông đúc người qua lại, hội đường nằm khuất sau một dãy nhà cổ trên con hẻm Seitenstettengasse lát đá. Vào Đêm Thủy tinh Vỡ Kristallnacht, làn sóng bạo động chống người Do Thái có tổ chức quét qua Đức và Áo vào tháng 11 năm 1938, mọi hội đường ở thành Vienna đều cháy bùng trong lửa trong khi lính cứu hỏa chỉ trơ mắt đứng nhìn mà không làm gì cả. Ngoại trừ Stadttempel. Châm lửa đốt nổ sẽ thiêu rụi các tòa nhà lân cận, vì vậy bọn bạo động phải tạm bằng lòng với việc chỉ đập nát kính cửa sổ và phá hoại gian điện thờ tôn nghiêm lộng lẫy của nó. Đây là hội đường hay phòng cầu nguyện duy nhất trong toàn thành phố thoát nạn đêm đó.

Gabriel đi đến hội đường theo đúng lộ trình mà bọn khủng bố sẽ đi vào tối hôm đó. Khi hoàng hôn buông xuống, hầu hết các giáo dân sẽ tập trung ở bên trong, nhưng chắc chắn vẫn có một số khác túm tụm quanh cửa ra vào. Bảo vệ họ khỏi bị liên lụy sẽ là thách thức lớn nhất của Gabriel. Điều đó có nghĩa là ông và Mikhail sẽ phải sử dụng hỏa lực cực kỳ nhanh chóng và chính xác. Gabriel tính toán họ sẽ chỉ có hai giây để hành động khi bọn khủng bố vừa rút vũ khí - hai giây để vô hiệu hóa bốn tên khủng bố dày dặn kinh nghiệm trận mạc. Đó không phải là cái có thể học trong lớp huấn luyện hoặc trên sân tập bắn, mà phải mất nhiều năm đào tạo và tích lũy kinh nghiệm. Và ngay cả vậy, chỉ một khắc do dự cũng có thể là khác biệt giữa sự sống và cái chết, không chỉ đối với các mục tiêu của cuộc tấn công mà còn đối với cả Gabriel và Mikhail.

Ông vẫn loanh quanh trên phố cho đến khi đã ghi hết mọi kẽ nứt và hòn đá vào bộ nhớ, rồi rảo bước đến một quảng trường cổ kính, bao quanh là các nhà hàng. Một trong số đó là nhà hàng Ý nơi ông đã ăn bữa tối cuối cùng với Leah và Dani, và ở con đường bên cạnh chính là chỗ chiếc xe của họ đã nổ tung. Gabriel đứng bất động một lúc lâu, chìm đắm trong ký ức. Ông cố gắng kiểm soát cảm xúc nhưng không được; như thể ông đã nhiễm phải căn bệnh tàn nhẫn của Leah. Cuối cùng, ông chợt nghe có ai đó vỗ nhẹ lên khuỷu tay mình. Quay ngoắt lại, ông nhìn thấy khuôn mặt đánh phấn của một phụ nữ lớn tuổi người Áo. Ông thử đoán tuổi của bà, đó là một cái bệnh khác của ông.

“Cậu bị lạc à?” bà hỏi bằng tiếng Đức.

“Vâng,” ông đáp gọn.

“Thế cậu đang muốn đi đâu?”

“Café Central,” ông trả lời không do dự.

Bà chỉ hướng tây nam, về phía Khu Hofburg. Gabriel đi theo hướng đó cho đến khi khuất khỏi tầm nhìn của bà. Sau đó, ông vòng lại và đi về phía nhà thờ. Khách sạn nơi Văn phòng đã đặt chỗ cho ông chỉ cách đấy một con đường. Khi Gabriel bước vào, ông thấy Yaakov và Eli Lavon đang uống cà phê dưới sảnh. Phớt lờ họ, ông bước tới quầy hướng dẫn để báo mình sẽ lên lầu về phòng.

“Vợ của ông vừa đến vài phút trước,” người ở quầy hướng dẫn thông báo.

Gabriel cảm thấy như thể có một tảng đá đè lên tim mình. “Vợ tôi?”

“Vâng,” người hướng dẫn cho biết. “Dong dỏng cao, tóc đen dài, mắt đen.”

“Người Ý?”

“Rất giống người Ý.”

Gabriel thở ra nhẹ nhõm. Quay lưng, ông đi lướt qua Yaakov và Lavon mà không nói một lời và đi thẳng về phòng mình trên lầu.

Một tấm bảng Xin Đừng Làm Phiến treo vắt vẻo trên chốt cửa. Gabriel đẩy thẻ từ vào khe và lặng lẽ lách người vào trong. Từ phòng tắm truyền đến tiếng nước chảy. Chiara đang hát khe khẽ. Giai điệu bài hát buồn buồn, giọng nàng trầm thấp và gợi cảm. Gabriel bước về phía chân giường, bên trên quần áo của ông đã được gấp gọn gàng. Bên cạnh đặt một khẩu súng, một ống giảm thanh, một hộp đựng đạn, và một bao súng đeo vai. Đó là khẩu Beretta dùng đạn 11 ly, lớn hơn khẩu 9 ly ông thường sử dụng nhưng thích hợp để hạ thủ nhanh và dứt khoát. Đạn là loại đầu rỗng, sẽ giúp giảm bớt nguy cơ sát thương nhiều người do xuyên thủng vật cản. Gabriel nạp vào hộp tiếp đạn mười viên đạn và nhét hộp vào chuôi. Sau đó, ông lắp ống giảm thanh vào đầu nòng và duỗi tay để kiểm tra độ thăng bằng.

“Anh nghĩ người bình thường làm gì khi đến Vienna?” Chiara hỏi.

“Họ nhâm nhi cà phê và thưởng thức nhạc.”

Gabriel hạ khẩu Beretta xuống và nhìn nàng. Nàng đứng tựa vào cửa phòng tắm, toàn thân quấn trong chiếc áo choàng, mặt nàng ửng hồng vì vừa tắm nước nóng.

“Anh nhớ đã dặn em ở lại Jerusalem mà.”

“Anh có dặn thế.”

“Vậy tại sao em lại đến đây?”

“Em không muốn anh phải trở lại đây một mình.” Gabriel đẩy hộp tiếp đạn ra khỏi khẩu Beretta và tháo ống giảm thanh.

“Tại sao anh phải làm chuyện này?” nàng hỏi.

“Bởi vì nước Áo chưa bao giờ xử lý một tình huống như thế này trước đây. Và dù họ có kinh nghiệm đi chăng nữa thì anh vẫn không sẵn sàng giao phó tính mạng người Do Thái vào tay họ.”

“Có phải đó là lý do duy nhất?”

“Chứ anh còn làm việc này vì lẽ gì nữa?”

Chiara ngồi lên mép giường và nhìn chồng thật kỹ. “Trông anh rất đáng sợ,” nàng nhận xét.

“Cảm ơn em, Chiara. Em trông vẫn kiều diễm như mọi khi.”

Nàng bỏ qua lời nhận xét của ông. “Em không biết chuyện đêm đó thực sự như thế nào,” nàng nói, “nhưng em hình dung được. Anh sống lại cái đêm đó trong những giấc mơ thường xuyên hơn anh tưởng. Em nghe hết mà. Em nghe anh nghẹn ngào khóc ôm bé Dani. Em nghe anh bảo chị Leah là xe cứu thương sắp đến.”

Nàng rơi vào im lặng và gạt đi một giọt nước mắt lăn dài trên má. “Nhưng thỉnh thoảng,” nàng nói tiếp, “câu chuyện diễn biến theo chiều hướng khác. Anh diệt gọn bọn khủng bố trước khi chúng có thể kích nổ quả bom. Leah và Dani không hề hấn gì. Cả nhà anh vẫn sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi. Không có vụ nổ. Không có đám tang của cậu bé.” Nàng dừng lại. “Không có Chiara.”

“Đó chỉ là một giấc mơ.”

“Nhưng đó là kết quả anh mong muốn.”

“Em nói đúng, Chiara. Anh ước gì Dani đã không bị giết vào đêm đó. Và anh ước gì Leah...”

“Em không trách anh, Gabriel,” nàng cắt lời ông. “Em đã biết từ khi mới yêu anh. Em luôn biết em chỉ chiếm một phần trái tim anh. Phần còn lại sẽ vĩnh viễn thuộc về Leah.”

Gabriel cúi xuống và chạm vào mặt nàng. “Những chuyện này thì có liên quan gì đến tối nay?”

“Bởi vì anh nói đúng về một chuyện, Gabriel. Đó chỉ là giấc mơ. Giết chết những kẻ khủng bố đêm nay sẽ không làm Dani sống lại. Và cũng sẽ không biến Leah trở lại giống như xưa. Trên thực tế, có thể điều duy nhất anh làm được sẽ là mang đến cái chết cho chính mình trong cùng một thành phố nơi con trai anh đã bị tước đi mạng sống.”

“Những kẻ duy nhất sẽ chết đêm nay chính là bọn khủng bố.”

“Có thể,” nàng nói. “Hoặc có thể anh sẽ phạm một sai lầm, và em sẽ thành góa phụ khi rời Vienna.” Nàng mỉm cười bất đắc dĩ. “Thế chẳng như thơ sao?”

“Anh không phải nhà thơ. Và anh sẽ không phạm sai lầm.”

Nàng thở hắt ra như đầu hàng và khép chặt chiếc áo choàng trước ngực. “Em không nghĩ đội anh còn chỗ cho một người tham gia đêm nay, anh nhỉ?”

Gabriel nhìn nàng, mặt không biểu lộ cảm xúc.

“Em đã biết đó sẽ là câu trả lời của anh.” Nàng nắm lấy tay ông. “Làm sao em biết được hở Gabriel? Làm sao em biết được là anh còn sống hay đã chết?”

“Nếu nghe thấy tiếng nổ thì em biết là anh xảy ra chuyện rồi. Nhưng nếu em nghe thấy tiếng còi báo động...” Ông nhún vai.

“Thì sao?”

“Thì mọi chuyện sẽ kết thúc.” ông hôn lên môi nàng và thì thầm, “Và sau đó chúng ta sẽ quay về nhà, sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.”

Gabriel đi tắm và cố gắng dỗ giấc ngủ, nhưng chẳng ích gì. Hết kỷ niệm này đến kỷ niệm khác trong quá khứ thiêu đốt tâm trí ông, nỗi lo lắng về chuyện sẽ xảy ra trong vài giờ tới khiến thần kinh của ông căng ra. Cứ như thế ông nằm lặng lẽ bên cạnh Chiara khi ráng chiều phủ trên giường dần nhạt, lắng nghe các cuộc trò chuyện trên chiếc radio mà Jonas Kessler đưa ông. EKO Cobra đã thiết lập một chốt quan sát bên ngoài căn hộ trên đường Koppstrasse và nhờ một máy ảnh nhiệt, đã xác nhận có ít nhất bốn người trong đó. Nhiều tổ EKO Cobra khác được bố trí ở các chốt nằm dọc theo lộ trình di chuyển từ đường Koppstrasse đến phố cổ Innere Stadt. Vậy là những kẻ khủng bố sẽ đi qua một con đường hiểm trở, bị kẹp giữa vòng vây của đặc vụ - con đường trực tiếp đưa chúng đến họng súng của Gabriel và Mikhail.

Hôm đó mặt trời lặn lúc 6:12 chiều. Đến khoảng bốn rưỡi, Gabriel uống hai tách cà phê - vừa đủ để giúp ông tỉnh táo mà không bị run tay - rồi đóng bộ quần áo chính tay Chiara mang từ Jerusalem đến. Quần jean xanh đã phai màu, áo len chui đầu màu đen, bao súng đeo vai: đồng phục một người lính của đêm. Ông lắp súng và nạp đầy đạn cho khẩu Beretta, rồi nhét nó vào trong bao da. Sau đó, trong lúc Chiara im lặng dõi theo, ông thực hành nhiều lần động tác rút súng và bắn hai phát liên tiếp, cả hai đường đạn đều hướng chếch lên trên.

Khi cảm thấy đã sẵn sàng, ông cất súng vào bao, tròng vào áo khoác. Sau đó, ông tháo nhẫn cưới trên tay ra và trao nó cho Chiara. Nàng không hỏi lý do; nàng không cần hỏi. Thay vào đó, nàng hôn ông lần cuối và cố kìm không khóc khi ông lẳng lặng bước ra cửa. Khi ông đã đi khuất, nàng đứng một mình bên cửa sổ, khuôn mặt ướt đẫm nước mắt, thầm cầu nguyện sẽ nghe thấy tiếng còi báo động.