← Quay lại trang sách

Chương 35 THỦ ĐÔ VIENNA

BỘ NỘI VỤ Liên bang Áo chiếm hẳn một cung điện Habsburg nguy nga, cổ kính tại số 7 đường Herrengasse. Nằm sâu bên trong tòa nhà đồ sộ này là phòng tình huống và trung tâm xử lý khủng hoảng, được xây dựng trong giai đoạn căng thẳng sau sự kiện ngày 11 tháng 9, khi cả châu Âu, bao gồm nước Áo, đều tin rằng họ là mục tiêu tấn công tiếp theo của al-Qaeda. May mắn thay, Jonas Kessler chỉ đặt chân vào trung tâm xử lý khủng hoảng mỗi một lần. Đó là đêm Erich Radek bị bắt bởi cái người lúc này đang nắm vận mệnh sự nghiệp của Kessler trong tay.

Trung tâm được bố trí như một nhà hát La Mã nhỏ. Ở dưới thấp, trong khoảng không gian được gọi là “cái hố”, nhân viên liên lạc từ các bộ phận khác nhau của Cảnh sát Liên bang Áo và cơ quan an ninh ngồi quanh ba chiếc bàn bày đầy điện thoại và máy tính lỉnh kỉnh. Các nhân viên cấp cao hơn ngồi ở những dãy trên, mà trên cùng là ghế dành cho cấp lãnh đạo, các bộ trưởng, và nếu cần thiết, là cả Thủ tướng liên bang.

Lúc 5:35 chiều, Jonas Kessler ngồi vào ghế dành cho ông, kẹp giữa Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Uzi Navot. Ngồi bên cạnh Navot là Ari Shamron. Ông đang xoay chiếc bật lửa Zippo cũ giữa các ngón tay và nhìn chằm chằm vào màn hình video lớn trên tường. Nó hiển thị mặt ngoài của căn hộ tại số 34 đường Koppstrasse. Vào 5:50 chiều, chính xác thời điểm Gabriel đã dự đoán, bốn thanh niên Lebanon bước ra khỏi cửa. Tên nào cũng mặc áo khoác len dày, cạo râu nhẵn nhụi, một dấu hiệu cho thấy chúng đã thực hiện nghi lễ chuẩn bị đón những thú vui trinh khiết đang chờ đợi ở Thiên Đàng.

Bốn tay Ả Rập đi bộ qua hai dãy nhà đến đường Thaliastrasse và leo xuống một trạm tàu điện ngầm U-Bahn. Lúc 5:55 chiều, chúng lên tàu - chia ra ở các toa khác nhau, như Gabriel đã nói. Nhìn bọn chúng trên màn hình giám sát, Kessler lẩm bẩm chửi thề. Sau đó, ông này nhìn sang Navot và Shamron.

“Tôi không biết phải cảm ơn các ông như thế nào,” ông nói.

“Vậy thì đừng nói gì,” Shamron nghiêm trọng trả lời. “Cho đến khi vụ này kết thúc.”

“Ông sợ nói gở à?” Kessler hỏi.

Shamron không đáp, bồn chồn xoay chiếc bật lửa. Ông không tin vào điềm gở. Ông tin vào Thiên Chúa, và ông tin vào thiên thần báo thù của mình, Gabriel Allon.

Đáng tiếc, đây không phải là lần đầu tiên những kẻ khủng bố Ả Rập hưởng mục tiêu vào hội đường Stadttempel lịch sử của Vienna. Vào năm 1981, hai người đã thiệt mạng và ba mươi người khác bị thương khi quân lính Palestine tấn công một buổi lễ trưởng thành Bar Mitzvah, sử dụng súng máy và lựu đạn. Hậu quả của cuộc tấn công là ngày nay, ai muốn bước vào hội đường phải đi qua một hàng nhân viên bảo vệ gốc Israel trẻ trung. Thành viên của cộng đồng Do Thái địa phương thường được cho qua cửa ngay, nhưng du khách phải chịu đựng một cuộc chất vấn gắt gao đến phát bực cũng như kiểm tra đồ đạc. Cả quá trình cũng dễ chịu như việc lên máy bay của hãng hàng không El Al vậy.

Hầu hết các nhân viên bảo vệ là cựu chiến binh trong lực lượng bảo vệ ngoại giao của Shabak, cơ quan an ninh nội bộ của Israel. Kết quả là, hai nhân viên trực đêm đó nhận ra Yaakov Rossman khi anh tiến đến hội đường, theo sau là Oded và Eli Lavon. Yaakov kéo hai anh lính gác sang một bên và với thái độ bình tĩnh nhất có thể, anh thông báo với họ rằng hội đường sắp bị tấn công. Sau đó, anh nhanh chóng đưa ra một loạt hướng dẫn. Hai nhân viên bảo vệ ngay lập tức trở vào khu văn phòng của trung tâm cộng đồng Do Thái, để lại Yaakov và Oded trông coi an ninh trên phố. Eli Lavon, vốn là một cựu thành viên của cộng đồng, đội mũ chỏm kippah che đầu và bước vào hội đường. Thói cũ khó sửa, ông thầm nghĩ, ngay cả trong thời chiến.

Như thường lệ, một đám đông giáo dân đang quanh quẩn trước tiền sảnh. Lavon lách người qua họ và bước vào gian điện thờ tráng lệ hình bầu dục. Ngước nhìn lên ban công dành cho phụ nữ, ông thấy những khuôn mặt rực sáng dưới ánh nến giữa các hàng cột Ionic. Những người họ hàng nam của họ giờ đã ổn định chỗ ngồi ở tầng thấp hơn. Khi Lavon đi ngang qua họ và trèo lên bục diễn thuyết bimah, một số người quay đầu nhìn, vẻ bối rối. Sau đó lác đác vài nụ cười xuất hiện. Cũng lâu lắm rồi họ mới gặp lại ông.

“Chào buổi tối, thưa các anh, các chị,” Lavon cất tiếng, giọng bình tĩnh và thân thiết. “Rất có thể một số anh chị còn nhớ đến tôi, nhưng chuyện đó bây giờ không quan trọng. Điều quan trọng là xin mọi người hãy rời khỏi điện thờ bằng cửa sau một cách nhanh chóng và im ắng nhất có thể.”

Lavon đã nghĩ sẽ nổ ra một cuộc tranh luận về lý do tại sao phải làm vậy, hoặc thậm chí là liệu họ có thể làm vậy hay không vào ngày lễ Sabbath. Thay vào đó, ông kinh ngạc nhìn các giáo dân đứng lên và răm rắp làm theo hướng dẫn của ông. Từ tai nghe, ông nghe thấy một giọng nói tiếng Đức thông báo bốn gã gián điệp Hezbollah vừa mới đổi sang tuyến U-Bahn số 3 đi về hướng Innere Stadt. Ông nhìn đồng hồ, đã 6:05 tối. Bọn chúng thực hiện đúng y kế hoạch.

Ở tít đầu kia của đường Rotenturmstrasse, cách bờ sông Donaukanal chỉ vài bước, có một quán cà phê gọi là Aida. Mái hiên che nắng mang màu hồng tươi, lớp sơn bên ngoài tòa nhà cũng vậy, khiến nó có thể được coi là quán cà phê xấu nhất ở Vienna. Trong một cuộc đời khác, dưới một cái tên khác, hầu như chiều nào Gabriel cũng dắt con trai đến Aida ăn kem chocolate. Bây giờ ông ngồi đây với Mikhail Abramov. Bốn thành viên của Đội Đặc nhiệm EKO Cobra tụ tập quanh một cái bàn gần đó, cũng ít thu hút sự chú ý như một bảng quảng cáo trên Quảng trường Thời đại. Gabriel ngồi quay lưng ra đường, sức nặng của khẩu Beretta đạn 11 ly đè trĩu trên vai ông. Mikhail lo lắng gõ ngón tay liên hồi trên mặt bàn.

“Anh định cứ gõ vậy bao lâu nữa?” Gabriel hỏi.

“Cho đến khi tôi nhìn thấy bốn chàng trai Hezbollah.” “Anh đang làm tôi thấy nhức đầu đấy.”

“Không chết được đâu.” Mấy ngón tay của Mikhail ngừng lại. “Tôi ước gì chúng ta không phải thả hắn đi.”

“Massoud ư?”

Mikhail gật đầu.

“Tôi đã hứa với hắn.”

“Hắn là một kẻ giết người.”

“Nhưng tôi không phải,” Gabriel nói. “Và anh cũng không.”

“Nếu hắn không nói với ông sự thật thì sao? Khi đó, ông hẳn sẽ không phải tuân thủ thỏa thuận này.”

“Nếu bốn gã đánh bom liều chết của Hezbollah đi lên đoạn đường đó trong vài phút nữa,” Gabriel nói, hất đầu về phía cửa sổ, “chúng ta sẽ biết hắn có nói thật hay không ngay.”

Mikhail bắt đầu gõ ngón tay lần nữa. “Có lẽ chúng ta không cần phải giết hắn ta,” anh bình tĩnh nói. “Có lẽ chúng ta chỉ cần... quên hắn đi.”

“Ý anh là gì?”

“Tức là nhóm của Yossi có thể lái xe rời ngôi nhà ở Đan Mạch trong khi Massoud vẫn bị xích vào tường. Cuối cùng cũng sẽ có người phát hiện bộ xương khô của hắn thôi.”

“Một sai lầm cố ý? Ý anh là vậy chứ gì?”

“Mấy chuyện tồi tệ xảy ra hằng ngày ấy mà.”

“Đó vẫn là giết người.”

“Không. Đó là vô ý làm chết người.”

“Tôi e rằng đó là sự phân biệt không có khác biệt.”

“Chính xác.” Mikhail há miệng định nói tiếp, nhưng anh thấy Gabriel đang lắng nghe radio.

“Chuyện gì vậy?”

“Chúng đang xuống tàu.”

“Ở đâu?”

“Quảng trường Stephansplatz.”

“Đúng phóc nơi Massoud tiết lộ.”

Gabriel gật đầu.

“Tôi vẫn nghĩ rằng chúng ta nên giết hắn.”

“Ý anh là quên hắn ta đi.”

“Cả việc đó nữa.”

“Chúng ta không phải kẻ giết người, Mikhail, chúng ta là người ngăn chặn bọn chúng.”

“Cứ hy vọng vậy đi. Không thì người ta sẽ phải lấy nhíp gắp từng mẩu xác vụn của chúng ta đấy.”

“Phải suy nghĩ theo hướng tích cực.”

“Tôi vẫn luôn thích tập trung vào tình huống xấu nhất.”

“Tại sao vậy?”

“Để tạo động lực,” Mikhail nói. “Nếu tôi tưởng tượng cảnh một giáo sĩ Do Thái phải lấy khăn thấm máu tôi để đem chôn vì xác chẳng còn nguyên vẹn, tôi sẽ có động lực làm tốt nhiệm vụ của mình.”

“Chỉ cần kiên nhẫn chờ đến khi chúng rút súng ra. Chúng ta không thể giết chúng cho đến khi thấy chúng rút súng.”

“Lỡ bọn chúng không rút súng thì sao? Lỡ bọn chúng kích nổ bom trên phố thì sao?”

“Suy nghĩ tích cực nào, Mikhail.”

“Tôi là một người Do Thái đến từ Nga. Suy nghĩ tích cực không phải bản chất của tôi.”

Cô phục vụ đặt một hóa đơn lên bàn. Gabriel đưa cho cô một tờ hai mươi euro và bảo cô không cần thối. Mikhail liếc nhìn bốn tay đặc nhiệm EKO Cobra.

“Họ trông còn hồi hộp hơn chúng ta nữa.”

“Chắc là thế thật.”

Mikhail đưa mắt nhìn ra đường, “Ông có từng nghĩ sẽ làm gì tiếp theo không?”

“Tôi sẽ ngủ đẫy giấc trong vài ngày.”

“Nhớ tắt điện thoại di động đó.”

“Đây là lần cuối cùng, Mikhail.”

“Cho đến khi một số kẻ khủng bố xuất hiện và quyết định rằng chúng muốn làm giảm dân số Do Thái xuống vài trăm. Khi đó chúng ta sẽ quay lại đây mà thôi.”

“Tôi e rằng lần tới anh sẽ phải hành động mà không có tôi.”

“Để rồi xem.” Mikhail nhìn Gabriel, “ông có chắc rằng mình đã sẵn sàng?”

“Nếu anh hỏi câu đó một lần nữa, tôi sẽ bắn lủng sọ anh.”

“Một ý kiến tệ hại.”

“Tại sao?”

“Hãy nhìn ra ngoài cửa sổ kìa.”

Tại trung tâm xử lý khủng hoảng của Bộ Nội vụ Áo, Ari Shamron nhìn chằm chằm vào màn hình video, chăm chú theo dõi bốn kẻ khủng bố Hezbollah đang rẽ vào con hẻm nhỏ trải sỏi dẫn đến hội đường, theo sau là Gabriel và Mikhail. Vào giây phút đó, ông chợt có một linh cảm mạnh mẽ đến ớn lạnh về thảm họa, cảm giác không giống bất cứ cái gì ông từng kinh qua trước đây. Sẽ không sao đâu, ông tự trấn an. Hội đường Stadttempel đã sống sót qua Đêm Thủy tinh Vỡ Kristallnacht; nó cũng sẽ vượt qua đêm nay. Ông bật chiếc Zippo và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa màu xanh ngọc. Hai giây, ông nghĩ, có thể ngắn hơn. Sau đó, mọi chuyện sẽ kết thúc.

Chúng di chuyển theo đội hình vuông, hai người ở phía trước và hai người còn lại theo sau một vài bước. Gabriel không ngăn được sự thán phục đối với kỹ thuật của chúng. Với áo khoác mùa đông và phong thái tự nhiên giả tạo, chúng trông giống như bốn chàng trai trẻ đang đi chơi đêm trong khu Tam giác Bermuda trứ danh của Vienna - chứ không phải bốn kẻ đánh bom liều chết của Hezbollah, đang cận kề cái chết. Gabriel biết khá nhiều về chúng. Ông biết tên từng người, ngôi làng nơi chúng sinh ra, và hoàn cảnh chúng được tuyển mộ. Thế nhưng lúc này, chúng chỉ đơn giản là Alef, Bet, Gimel, và Dalet -bốn chữ đầu tiên trong bảng chữ cái Do Thái. Alef và Bet do Gabriel phụ trách; Gimel và Dalet là phần của Mikhail. Alef, Bet, Gimel, Dalet... Sau đó, mọi chuyện sẽ kết thúc.

Mặt đường dốc đứng và hơi uốn cong về bên phải. Tiến thêm vài bước, Gabriel có thể thấy Yaakov và Oded đang đứng dưới quầng sáng bên ngoài lối vào hội đường. Oded đang chất vấn một cặp người Mỹ gốc Do Thái muốn tham dự lễ Shabbat tại chính thành phố tổ tiên của họ, còn Yaakov nhìn bốn gã thanh niên đang đi về phía mình. Anh nhìn chúng chằm chằm trong một lúc vừa phải trước khi ép mình dời mắt đi chỗ khác, Oded dường như không để ý đến bọn chúng. Sau khi cho hai người Mỹ qua cửa, anh tiếp tục giải quyết cho hàng giáo dân còn lại đang chờ được vào hội đường. Khoảng hơn chục người, trong đó có hai đứa trẻ, đang đứng xếp hàng trên phố, không hề hay biết về nỗi kinh hoàng đang đến gần.

Kể từ lúc rời khỏi quán cà phê, Gabriel và Mikhail đã dần dần rút ngắn khoảng cách giữa mình và bốn mục tiêu. Chừng hai mươi lăm bước ngăn cách bốn kẻ khủng bố và hai người lính bí mật, ai cũng sẵn sàng cống hiến cho sứ mệnh, ai cũng vững tin vào lý do hành động và Đức Chúa của riêng mình. Tối nay cuộc chiến muôn thuở giành quyền kiểm soát vùng đất Israel sẽ lần nữa diễn ra trên một con phố xinh đẹp của thành Vienna. Gabriel không khỏi cảm thấy sức nặng của lịch sử đè nặng trên vai khi ông trèo lên con dốc trải sỏi - lịch sử của chính ông, lịch sử của dân tộc ông, Shamron... Ông tưởng tượng Shamron thời trẻ cũng từng theo đuôi Adolf Eichmann trên một con đường hoang vắng phía bắc Buenos Aires. Đêm ấy, Shamron đã vấp phải sợi dây giày bị tuột và suýt ngã. Sau đó, ông luôn luôn thắt nút đôi dây giày của mình bất cứ khi nào đi do thám. Gabriel cũng làm vậy đêm nay để tỏ lòng kính trọng Shamron. Dây giày sẽ không bị tuột. Sẽ không có cơn ác mộng của máu và lửa tại hội đường cổ ở thành Vienna.

Gabriel và Mikhail bước nhanh lên và thu hẹp khoảng cách hơn một chút. Khi bọn khủng bố đi qua dưới một ngọn đèn, Gabriel trông thấy dây kích nổ chạy dọc mé trong cổ tay của Alef. Bốn tên khủng bố đều cài nút áo khoác thật chặt, và không phải tình cờ mà cả bốn đều giấu tay phải trong túi áo. Hẳn là bên trong giấu sẵn súng. Rút súng đi, Gabriel nghĩ thầm. Hai giây, có thể ngắn hơn. Alef, Bet, Gimel, Dalet... Sau đó, mọi chuyện sẽ kết thúc.

Gabriel thoáng liếc qua vai và thấy đội EKO Cobra âm thầm theo sau. Yaakov và Oded đã cố gắng giải quyết cho gần hết đám đông vào bên trong, nhưng một vài giáo dân vẫn quẩn quanh ngoài phố, trong đó có hai đứa trẻ. Mikhail nhiều lần hít sâu để giảm nhịp tim đang đập thình thịch, nhưng Gabriel chẳng buồn bận tâm. chuyện đó không thể xảy ra. Không phải tối hôm nay. Thế nên ông nhìn chằm chằm vào tay phải của Alef, mặc kệ tim đang đánh trống trong lồng ngực, và chờ đợi khẩu súng xuất hiện. Dù vậy, cuối cùng, một trong hai đứa trẻ, một cậu bé, là người đầu tiên nhìn thấy súng. Tiếng thét kinh hoàng của em khiến tóc gáy Gabriel dựng đứng.

Sẽ không có vụ nổ nào xảy ra.

Sẽ không có đám tang cho một đứa bé.

Chỉ có một cặp thiên thần sa ngã nhảy bổ về phía trước với cánh tay dang ra.

Hai giây, có thể ít hơn.

Alef Bet, Gimel, Dalet...

Và mọi chuyện đã kết thúc.

Chiara không bao giờ nghe thấy tiếng súng nổ, chỉ có tiếng còi báo động. Ngồi một mình trong phòng, nàng nghĩ đó là âm thanh hay nhất mà nàng từng nghe. Nàng lắng nghe trong vài phút, sau đó chộp lấy điện thoại di động và gọi cho Uzi Navot ở Bộ Nội vụ. Nàng khó có thể nghe thấy giọng ông giữa tiếng ồn ào xung quanh.

“Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Xong rồi,” ông nói.

“Có ai bị thương không?”

“Chỉ có bọn xấu.”

“Anh ấy đâu?”

“Phía Áo đang giữ anh ấy.”

“Tôi muốn anh ấy quay trở về.”

“Đừng lo,” Navot nói. “Bây giờ anh ấy là của cô.”