Chương 36 VIENNA - TELAVIV - THÀNH VATICAN
NHƯ HẦU HẾT mọi lời dối trá, nó không hoàn toàn thuyết phục, Shamron không thấy điều đó có gì bất ổn; trên thực tế, ông hết lòng tán thành. Theo lời ông, nói dối là một nỗ lực rất con người, ngay cả khi nó xuất phát từ miệng của dân chuyên nghiệp, và một lời nói dối quá hoàn hảo thường khiến kẻ khác sinh nghi.
Thoạt đầu, người ta không biết thật sự chuyện gì đã xảy ra trên con phố hẹp bên ngoài hội đường Stadttempel vào buổi hoàng hôn hôm ấy. Các bản tin đầu tiên trên đài phát thanh Áo tường thuật rằng hai tay súng đã giết chết bốn người Do Thái bên ngoài hội đường và cho đây có thể là một hành động bạo lực của bọn cánh hữu cực đoan. Tình hình càng mập mờ hơn khi xuất hiện một nhóm tân phát xít vô danh tiểu tốt tuyên bố nhận trách nhiệm về vụ việc này. Bản năng mách bảo Jonas Kessler phải nhanh chóng cải chính câu chuyện. Nhưng Shamron và Uzi Navot thuyết phục ông nấn ná đến tận chín giờ tối hôm đó, khi cuối cùng ông cũng xuất hiện trong phòng họp báo của Bộ Nội vụ nhằm tiết lộ sự thật - hoặc ít nhất là cái mà ông cho là sự thật. Đúng vậy, Kessler mở đầu, quả thật có vụ nổ súng trước cửa hội đường, nhưng nạn nhân là bốn kẻ đánh bom liều chết của tổ chức Hezbollah mò đến Vienna nhằm thực hiện một vụ tấn công khủng bố kinh hoàng, chính quyền Áo, ông cho biết, đã được một cơ quan tình báo nước ngoài cảnh báo về sự hiện diện của nhóm này ở thủ đô Vienna và vì những lý do hiển nhiên mà Kessler không thể tiết lộ danh tính của đơn vị tình báo đó. Còn về nhiệm vụ thành công tốt đẹp bên ngoài hội đường thì đó hoàn toàn là chiến công của nước Áo, được thực hiện bởi Đội Đặc nhiệm EKO Cobra của Cảnh sát Liên bang. Đó là “thời khắc huy hoàng nhất của EKO Cobra”, Kessler kết luận với sự chân thành đáng ngưỡng mộ.
Dĩ nhiên báo giới bị thu hút bởi một khía cạnh của câu chuyện mà Kessler đã hết sức lảng tránh - nguồn tin tình báo giúp cho chiến dịch thành công. Kessler và toàn thể cơ quan an ninh Áo quyết không hé nửa lời bình luận, nhưng trong vòng 48 tiếng, hàng loạt “nguồn tin tình báo” giấu tên đã ngầm quy công trạng này cho CIA. Một lần nữa, các chuyên gia phân tích khủng bố trên truyền hình đặt dấu hỏi về độ xác thực của các báo cáo, cho rằng khả năng cao hơn là thông tin đến từ phía Israel. Với truyền thông chính thức, Israel từ chối bình luận. Nhưng đằng sau, họ thể rằng đó không phải sự thật.
Vấn đề chưa dừng ở đó. Thực tế thì ngay sáng hôm sau, vụ việc càng trở nên hấp dẫn hơn khi Die Presse, một trong những tờ báo uy tín nhất nước Áo, đăng bài tường thuật về diễn biến cụ thể của chiến dịch, phần lớn dựa trên lời khai của nhân chứng. Phần thú vị nhất của câu chuyện là đoạn mô tả về người có dáng vóc nhỏ hơn trong hai tay súng, và lại còn cái nhân vật trông nhếch nhác, người đã giám sát việc di tản bên trong hội đường vài phút trước khi vụ tấn công xảy ra. Một số người cho rằng nhân vật này mang nhiều nét tương đồng đến kỳ lạ với người từng điều hành một văn phòng nhỏ ở Vienna có tên Điều tra và Bồi thường Thời chiến chuyên bồi thường cho nạn nhân HolocauSt. Một tờ báo của Israel ngay lập tức đưa tin rằng người được nhắc đến - Giáo sư Eli Lavon của Đại học Hebrew - đang thực hiện một cuộc khai quật gần Đường hầm phía Tây vào thời điểm đó và ông không có liên hệ gì với tình báo Israel, cả hai thông tin đều không đúng.
Không cần phải nói, chẳng mấy chốc, phần lớn thế giới Hồi giáo đã sục sôi một cơn thịnh nộ tôn giáo nhằm vào Israel, vào cơ quan tình báo của nước này, và rộng ra, vào người bạn mới của họ là nước Áo. Báo chí khắp Trung Đông tuyên bố vụ giết chóc là một hành động sát hại bừa bãi và thách thức phía Áo hãy trình bằng chứng là những chiếc áo cài bom được cho rằng thuộc về bốn “kẻ tử vì đạo”. Khi Kessler làm theo yêu cầu đó, báo chí Ả Rập lại tuyên bố mấy cái áo là giả mạo. Và khi Kessler công bố những tấm ảnh đã qua điều chỉnh cẩn thận cho thấy bốn gã khủng bố quấn đầy bom, thì phía Ả Rập cũng tuyên bố chúng là giả mạo nốt. Họ thấy có bàn tay vô hình của Israel dính vào vụ hạ thủ, và lần này họ thật sự hoàn toàn chính xác.
Giữa bối cảnh bất ổn này, Massoud Rahimi, nhà ngoại giao người Iran bị bắt cóc trước đó, đã được tìm thấy khi đang lang thang với còng tay và bịt mắt trên một đồng cỏ ở tít miền Bắc nước Đức. Ông ta thưa với cảnh sát Đức rằng mình đã trốn thoát khỏi bọn bắt cóc, nhưng trong một tuyên bố khác, Quân đội Giải phóng Iran cho biết họ đã phóng thích Massoud vì “những lý do nhân đạo”. Sáng hôm sau, dù trông sụt mất vài ký nhưng sức khỏe vẫn ổn, Massoud xuất hiện trước ống kính tại Tehran, kẹp giữa Tổng thống Iran và cục trưởng của ông ta. Massoud cung cấp rất ít thông tin về thời gian ông ta bị giam giữ, chỉ nói chung chung rằng mình được đối xử tử tế. Cục trưởng và ngài Tổng thống thoáng vẻ hoài nghi, ngài Tổng thống còn thể sẽ trừng phạt thích đáng những kẻ đứng sau vụ bắt cóc.
Nguy cơ Iran sẽ trả đũa không được coi thường, đặc biệt là trong mọi hành lang của tòa nhà ở Đại lộ King Saul. Tuy nhiên Văn phòng chủ yếu ăn mừng thành công của chiến dịch. Nhiều sinh mạng đã được cứu, kẻ thù cũ phải nghiêm túc thỏa hiệp, một mạng lưới gây quỹ sinh lợi cho Hezbollah đang lung lay sụp đổ. Nhưng nếu có một yếu tố phá hỏng tâm trạng của họ, thì đó là việc Đức Giáo hoàng Paul VII sẽ theo lịch đáp xuống Sân bay Ben Gurion trong chưa đầy một tuần nữa. Với những biến động chung trên toàn khu vực, Uzi Navot cho rằng sẽ khôn ngoan nếu Vatican cân nhắc đến việc tạm hoãn chuyến công du, ngài Thủ tướng và cả nội các bướng bỉnh của ông cũng đồng tình với quan điểm này. Nhưng ai sẽ là người đi thuyết phục Đức Giáo hoàng đừng tới Thánh Địa đây? Họ chỉ có một ứng viên duy nhất. Một thiên thần sa ngã khoác áo đen. Một kẻ tội đồ trong thành phố của các vị thánh.
Cha Mark đợi Gabriel ngay bên trong Cổng Đồng. Cha đưa ông đi lên cầu thang Scala Regia, băng qua nền đá cuội của sân Cortile di San Damaso, và cuối cùng, lên lầu vào khu căn hộ riêng của Đức Giáo hoàng. Donati đang ngồi sau bàn làm việc trong văn phòng của ông. Đó là một căn phòng mái cao đơn giản với những bức -tường quét vôi trắng toát và hàng kệ xếp đầy sách về giáo luật. Những bức ảnh đóng khung xếp thành hàng ngay ngắn trên đầu kệ sách. Hầu hết đều là hình chụp Donati đứng kín đáo bên cạnh đấng bề trên vào những khoảnh khắc lịch sử trong thời gian ngài tại vị. Tuy nhiên, có một bức ảnh có vẻ lạc lõng đến đáng tò mò -phiên bản Donati thời trai trẻ, mặt mày lem luốc và nụ cười vô tư lự, đang choàng vai một vị linh mục trẻ trông có vẻ mọt sách.
“Đó là Cha José Martinez,” Donati giải thích. “Lúc ấy chúng tôi vừa xây xong ngôi trường làng ở El Salvador. Ảnh này chụp một tuần trước khi ông ấy bị giết chết.” Donati dò xét gương mặt của Gabriel trong thoáng chốc rồi cau mày lại. “Nhìn anh y như tôi khi tôi vừa rời khỏi El Salvador, đi trước biệt đội tử thần một bước.”
“Từ khi rời khỏi Rome tôi bận suốt mấy tuần qua.”
“Tôi đã đọc tin trên báo,” Donati nói. “Một vụ trộm tác phẩm nghệ thuật ở Pháp, một vụ nổ phòng triển lãm ở St. Moritz, một vụ bắt cóc nhà ngoại giao Iran, và một chiến dịch chống khủng bố đầy kịch tính ngay trung tâm thủ đô Vienna. Đối với người không biết, những sự kiện này dường như chẳng dây mơ rễ má gì với nhau. Nhưng với một người như tôi, chúng đều có một điểm chung.”
“Hai điểm mới đúng,” Gabriel nói. “Một là Văn phòng. Và điểm còn lại là Carlo Marchese.”
Đã gần sáu giờ chiều, mặt trời lặn xuống sau những nóc nhà và mái vòm của trung tâm lịch sử thành Rome. Khi Gabriel kể lại mọi chuyện, ráng chiều đỏ quạch nhạt dần cho đến khi văn phòng chìm hẳn vào bóng tối như trong phòng xưng tội. Vận chiếc áo chùng đen, Donati như thể vô hình nếu không thấy đốm lửa hồng trên điếu thuốc cháy dở của ông. Khi Gabriel dứt lời, ông ngồi đó vài phút trong sự thinh lặng ăn năn trước khi rảo bước về phía cửa sổ. Ngay bên dưới là Pháo đài Nicolas V, một tòa tháp trung cổ mà ngày nay là trụ sở chính của Ngân hàng Vatican.
“Anh có bằng chứng gì cho câu chuyện này không?” “Có loại bằng chứng để đưa ra trước tòa án. Và một loại đủ để khiến vấn đề biến mất.”
“Đề xuất của anh là gì?”
“Một cuộc nói chuyện,” Gabriel đáp lời. “Tôi sẽ nói cho Carlo nghe tất cả những gì tôi biết, và sau đó tôi sẽ bảo hắn rằng Cha và Đức Giáo hoàng muốn hắn từ chức trong hội đồng giám sát của Ngân hàng Vatican, ngay lập tức. Tôi cũng sẽ khẳng định nếu còn bén mảng đến Cổng Đồng một lần nữa, hắn sẽ phải đối mặt với tôi.”
“Có vẻ như đó là cái giá rất rẻ để trả cho hai vụ giết người.”
“Nhưng đó là điều Cha muốn.” Gabriel nhìn vào cái bóng in trên cửa sổ của Donati. “Đó là điều Cha muốn, không phải sao, Luigi?”
“Điều đúng đắn nên làm là nói cho Tướng Ferrari nghe tất cả những gì anh biết.”
“Có lẽ thế. Nhưng nếu chính quyền Ý cáo buộc Carlo tội kinh doanh cổ vật ăn cắp, rửa tiền, và giết người, đó sẽ là một thảm họa quan hệ công chúng đối với Tòa Thánh. Và với Cha, Luigi. Mọi chuyện sẽ bị phơi bày. Cha sẽ bị hủy hoại.” Gabriel dừng lại, và bồi thêm, “Cả Veronica nữa.”
“Còn nếu Carlo từ chối ra đi trong lặng lẽ?”
“Tôi sẽ làm rõ rằng hắn không có quyền lựa chọn. Tin tôi đi,” Gabriel nói thêm, “hắn sẽ hiểu rõ thông điệp này.”
“Tôi không tán thành giết người. Đúng hơn là giết thêm một người nữa.”
“Không ai nói sẽ giết ai cả. Nhưng nếu có kẻ đáng phải bị như vậy...”
Donati giơ bàn tay thon dài lên ngắt lời Gabriel. “Chỉ nói chuyện với Carlo thôi.”
“Khi nào đây?”
“Tuần tới. Như vậy thì sẽ không có cơ hội rò rỉ bất cứ thông tin gì với báo chí trước chuyến công du tới Israel.” Ông liếc nhìn qua vai và vặn hỏi, “Tôi nghĩ anh chưa kịp xem qua việc bố trí an ninh phải không?”
“Thực ra tôi đã rà soát chúng một cách chi tiết.”
“Và?”
“Tôi chỉ có một đề nghị.”
“Đề nghị gì?”
“Hãy kiểm tra dự báo thời tiết xem trời có đổ mưa không, Luigi.”
Donati chậm rãi xoay người lại. “Anh đang bảo tôi hủy bỏ chuyến đi sao?”
“Không. Chúng tôi chỉ muốn cha hoãn nó cho đến khi mọi chuyện lắng dịu.”
“Chúng tôi ư?”
“Đây là lệnh từ cấp trên.”
“Thủ tướng?”
Gabriel gật đầu.
“Trừ phi ngài Thủ tướng của anh sẵn sàng chính thức yêu cầu người đứng đầu một tỉ tín hữu Công giáo La Mã đừng tới Israel, còn không sẽ không đời nào chúng tôi hủy bỏ chuyến đi.”
“Vậy cần có ai đó nói cho Đức Thánh Cha biết cảm nghĩ của chúng tôi.”
“Tôi tán thành,” Donati đáp, và mỉm cười. “Nhưng sẽ không phải là tôi.”
Những khu vườn thành Vatican chìm trong bóng tối khi Gabriel xuất hiện từ Cung điện Belvedere, ông rảo bước ngang qua Đài phun nước Bí Tích và trường Đại học Ethiopia, sau đó đi thẳng tới một chỗ nằm dọc tường thành Vatican, nơi một nhóm vệ binh Thụy Sĩ vận thường phục đang đứng bất động như tượng. Yên lặng lướt qua họ, ông leo lên bậc thang bằng đá và tiến dần về phía lan can. Pietro Lucchesi, hay còn gọi là Đức Giáo hoàng Paul VII, đang chờ ở đó một mình. Thành Rome sôi động dưới chân ngài - Rome vĩnh hằng, bụi bặm. Gabriel chưa bao giờ chán ngắm nhìn nó. Cả Đức Thánh Cha cũng vậy.
“Ta vẫn nhớ lần đầu tiên chúng ta đến chỗ này cùng nhau,” Đức Giáo hoàng nói. “Đó là sau vụ tổ chức Thập giá Đích thực. Anh đã cứu lấy ngôi vị giáo hoàng của ta, chưa kể đến tính mạng ta.”
“Đó là chuyện tối thiểu mà chúng tôi có thể làm, thưa Đức Cha,” Gabriel đáp. Ông nhìn qua sông Tiber về phía mái của Đại Hội đường Do Thái ở Rome, và trong thoáng chốc ông như thấy Pietro Lucchesi đứng trên bục bimah, thốt ra những lời mà chưa một vị Giáo hoàng nào từng nói trước đây.
“Vì những tội lỗi này, và nhiều tội khác sẽ sớm được phơi bày, chúng tôi xin thú tội, và cầu xin mọi người tha thứ...”
“Thưa Đức Cha, ngài thật dũng cảm khi làm những gì ngài đã làm vào hôm đó.”
“Việc ấy đã không thể xảy ra nếu không nhờ anh. Nhưng nói đến việc chữa lành vết thương giữa hai tôn giáo của chúng ta thì ta vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ, đó là lý do vì sao ta cần phải đến Jerusalem.”
“Không ai mong muốn Đức Cha đến đất Israel hơn tôi cả.”
“Nhưng mà?”
“Chúng tôi tin rằng đây không phải thời điểm an toàn.”
“Vậy hãy làm tất cả để giữ chuyến đi an toàn. Bởi với ta thì chuyện này không còn gì để bàn cãi nữa.”
“Vâng, thưa Đức Cha.”
Đức Giáo hoàng mỉm cười. “Vậy thôi sao, Gabriel? Ta cứ ngỡ anh sẽ tranh luận nhiều hơn.”
“Tôi cố gắng không tạo thói quen tranh cãi với Người Đại diện cho Đấng Kitô.”
“Tốt đấy. Bởi ta mong anh sẽ làm vệ sĩ riêng cho ta trong suốt cuộc hành trình.”
“Thật là vinh dự cho tôi, thưa Đức Cha. Xét cho cùng thì đó là vai trò tôi từng đảm nhiệm.”
“Và được đánh giá rất cao.”
Đức Giáo hoàng thoáng mỉm cười khi cơn gió luồn vào tấm áo chùng của ngài. Không khí đã mất sự se sắt của mùa đông; giờ nó đượm mùi gỗ thông và mùi đất ấm áp. Đức Thánh Cha dường như không mấy để ý. Ngài rõ ràng đang bận tâm về những vấn đề hệ trọng hơn sự thay đổi thời tiết.
“Có thật là Carlo Marchese đã can dự vào cái chết của cô gái tội nghiệp ở viện bảo tàng không?” cuối cùng ngài cất tiếng hỏi.
Gabriel do dự.
“Có gì không ổn sao, Gabriel?”
“Không, thưa Đức cha. Nhưng có lẽ sẽ tốt hơn nếu...”
“Nếu ta được che chở khỏi những chuyện rầy rà?” Đức Thánh Cha nở một nụ cười bí hiểm. “Ta sẽ cho anh biết một bí mật nhỏ, Gabriel. Người Đại diện cho Đấng Kitô không tổ chức họp báo. Và ông ta cũng không phải ra hầu tòa. Đó là một trong số ít những phúc lợi phụ của công việc này.”
“Thế còn căn hộ sang trọng ngay giữa thành Rome thì sao?”
“Thực ra, ta chưa bao giờ thích sống trên phố.” Đức Giáo hoàng nhìn ra những ngọn đồi của Rome. Thành phố trông như thể được thắp sáng bởi hàng triệu ngọn nến.
“Dọn dẹp mớ rắc rối ở Ngân hàng Vatican là một trong những ưu tiên hàng đầu của ta. Giờ đây có vẻ như một người có mối ràng buộc lâu đời với Vatican đã phủi sạch tất cả những việc tốt chúng ta từng làm.”
“Hắn sẽ ra đi trước khi Đức Cha kịp nhận ra.”
“Anh có yêu cầu ta chuyện gì không?”
“Cha hãy tránh vụ này càng xa càng tốt.”
Một sự im lặng thân thuộc bao trùm lấy họ. Đức Giáo hoàng thận trọng thăm dò ý tứ của Gabriel, như cách mà Donati đã làm trước đó.
“Anh có suy nghĩ gì về việc mình sẽ làm tiếp theo không?”
“Tôi có một bức Caravaggio cần phải hoàn thành.”
“Rồi sau đó?”
“Tôi sẽ cố hết sức để mang lại hạnh phúc cho vợ tôi.”
“Vậy mà anh suýt để vuột mất cô ấy nếu không phải vì ta,” Đức Giáo hoàng nói. “Có lẽ anh nên dành chút thời gian để có con.”
“Chuyện này phức tạp lắm.”
“Ta có thể giúp gì cho anh không?”
Lần này đến lượt Gabriel mỉm cười. “Đức Cha đang nghĩ gì vậy?”
“Là người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã, ta e rằng lựa chọn của ta chỉ giới hạn ở chuyện cầu nguyện.”
“Chúng tôi sẽ cảm kích sâu sắc những lời nguyện cầu của Đức Cha.”
“Vậy lời khuyên của ta thì sao?”
Gabriel lặng im. Đức Giáo hoàng nhìn ông dò xét trước khi tiếp lời.
“Anh đã lang bạt nhiều năm rồi, Gabriel. Có lẽ đã đến lúc anh trở về nhà.”
“Công việc của tôi ở đây, ngay tại châu Âu, thưa Đức Cha.”
“Phục chế tranh sao?”
Gabriel gật đầu.
“Trong cuộc sống có nhiều điều quan trọng hơn cả nghệ thuật,” Đức Giáo hoàng nói. “Ta e rằng quê hương anh sẽ phải đối mặt với những tháng ngày tăm tối phía trước. Gần đây giấc ngủ của ta thường bị mộng mị quấy rầy. Ta mơ thấy những... Viễn cảnh.”
“Viễn cảnh thế nào, thưa Đức Cha?”
“Có lẽ sẽ tốt hơn nếu ta không trả lời câu hỏi này,” Đức Giáo hoàng đáp, đặt tay ngài lên cánh tay của Gabriel. “Nhưng anh nghe kỹ đây. Hãy hoàn tất bức tranh Caravaggio, Gabriel. Và sau đó trở về nhà.”