← Quay lại trang sách

Chương 37 KHU ĐÔNG JERUSALEM

CÙNG THỜI ĐIỂM đó ở Khu Đông Jerusalem, vị imam Hồi giáo tên Hassan Darwish lái chiếc xe ô tô đuôi dài bị móp hướng lên đoạn dốc nối từ đường Jericho đến Cổng Sư Tử. Như thường lệ, viên cảnh sát Israel đang phiên trực chỉ kiểm tra qua loa chiếc xe trước khi cho phép vị imam tiến vào Khu Hồi giáo của Thành Cổ. Imam Darwish là hậu duệ của một dòng dõi quý tộc Palestine ở thành phố Hebron bên Bờ Tây. Quan trọng hơn, hắn là một thành viên của Hội đồng Tối cao trong tổ chức Hồi giáo Waqf, những người cai quản chính thức cao nguyên Núi Đền kể từ khi Saladin chiếm lại nó từ tay những chiến binh Thập Tự chinh năm 1187. Nắm giữ chức vụ này đồng nghĩa với việc Darwish gần như bất khả xâm phạm hết mức có thể đối với một người Ả Rập ở Khu Đông Jerusalem, khi hắn có thể biến Núi Đền thành một vạc dầu sôi sùng sục chỉ bằng vài lời xúi giục. Thật ra đã có nhiều lần hắn làm như vậy.

Hắn đỗ xe ở bãi đậu nhỏ của Waqf nằm bên Phố Cổng Sư Tử và bước vào văn phòng của mình ở rìa phía bắc Quảng trường Núi Đền. Một núi giấy ghi lời nhắn điện thoại đang chờ hắn trên chiếc bàn Ottoman. Là người phát ngôn không chính thức cho Waqf, hắn nhận được hàng tá cuộc gọi mỗi ngày, phỏng vấn về những vấn đề liên quan đến Núi Đền và các thánh địa khác ở Jerusalem. Hầu hết hắn đều lờ tịt, đặc biệt là những cuộc gọi của phóng viên Mỹ và Israel - không phải là không có lý do chính đáng. Ban đầu là làm việc cho Tổng thống Yasir Arafat, sau đó đến người kế nhiệm ông, Mahmoud Abbas, Darwish đã tiến hành một chiến dịch không ngừng nghỉ nhằm làm suy yếu khẳng định chủ quyền của người Do Thái đối với lãnh thổ Palestine, bằng cách phủ nhận sự tồn tại của Đền Thánh Jerusalem. Thế nhưng cuộc chiến phủ nhận sự thật của Darwish đã vượt xa khỏi chuyện đấu võ mồm đơn thuần. Ngụy trang dưới vỏ bọc của các dự án xây dựng, hắn đã xóa bỏ một cách có hệ thống tất cả dấu tích của ngôi đền cổ khỏi Núi Đền. cố vấn không chính thức của hắn trong nỗ lực này, một chuyên gia đồ cổ ở Thụy Sĩ, mới đây đã tử vì đạo trong một vụ nổ ngay tại phòng tranh của anh ta. Darwish hy vọng bản thân sẽ không phải chịu chung số phận như vậy. Mặc dù vẫn hay ra rả ca tụng sự cao đẹp của việc tử vì đạo, hắn thích để việc đó cho người khác hơn.

Như thường lệ, Darwish nhanh chóng xử lý các đề nghị phỏng vấn bằng cách quảng chúng một cách thô bạo vào thùng rác. Chỉ còn lại duy nhất một mẩu tin nhắn trông rất tầm thường của một ông Farouk nào đó nói rằng có đơn hàng kinh Koran đến từ bộ phận in ấn của Đại học al-Azhar ở Cairo. Darwish nhìn chằm chằm vào tin nhắn trong vài phút, tự hỏi liệu hắn có đủ can đảm, hay đức tin, để theo nó đến cùng không. Sau đó, hắn lấy một chùm chìa khóa từ ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc và bước ra ngoài, đi về hướng Núi Đền.

Gia tộc Darwish đã gắn bó với tổ chức Hồi giáo Waqf ở Jerusalem hàng thế kỷ nay. Từ khi còn là một đứa trẻ, Hassan Darwish đã ngày ngày học thuộc kinh Koran dưới bóng cây ở rìa phía bắc Đền thờ Cao quý*. Ngay cả bây giờ, khi đã trung niên, mỗi lần đi ngang qua Đền thờ Mái vòm của Đá, hắn lại cảm thấy như thể Thánh Allah và Nhà tiên tri Muhammad đang sóng bước bên mình. Tại trung tâm của kiến trúc hình bát giác đầy màu sắc này là Phiến đá Khởi thủy, vật có ý nghĩa thiêng liêng đối với cả ba tôn giáo khởi nguồn từ Abraham. Đối với người Do Thái và Kitô hữu, đó là nơi mà Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã ngăn tổ phụ Abraham giết con trai Isaac; đối với người Hồi giáo, nó đánh dấu nơi thiên thần Gabriel đã hộ tống Nhà tiên tri Muhammad trong chuyến Dạ Hành đến vườn địa đàng. Bên dưới tảng đá là một hang động tự nhiên có tên gọi là Giếng Linh Hồn, nơi người Hồi giáo tin rằng các linh hồn tội lỗi đang bị giam giữ tạm thời trước khi họ bị đưa vào hỏa ngục. Khi còn là một cậu bé, Darwish thường lẻn vào hang động một mình lúc đêm khuya, ở đó, cậu ngồi hàng giờ liền trên tấm thảm cầu nguyện mốc meo, vờ như mình có thể nghe thấy tiếng các linh hồn đang khóc than trong đau đớn. Trong trí tưởng tượng của cậu, những linh hồn đó không bao giờ là người Hồi giáo, mà là những người Do Thái bị Đức Chúa Trời trừng phạt vì tội tước đoạt đất của người Palestine.

Đền thờ Cao quý (BT): nguyên văn là Noble Sanctuary (Haram esh-sharif), là cách người theo đạo Hồi gọi Núi Đền.

Đã có lúc Darwish tin rằng người Do Thái và người Hồi giáo có thể phân chia mảnh đất và chung sống cạnh nhau trong hòa bình. Giờ đây, sau hàng thập kỷ bị sự chiếm đóng của Israel đè nặng và những lời hứa hão, hắn đã đi đến kết luận rằng người Palestine sẽ không bao giờ được tự do cho đến khi nhà nước Do Thái bị hủy diệt. Hắn tin chìa khóa giải phóng cho Palestine chính là Núi Đền. Chính quyền Israel đã ngu xuẩn cho phép Waqf giữ quyền kiểm soát Đền thờ sau cuộc chiến tranh sáu Ngày. Khi làm như vậy, họ đã vô tình định đoạt chính số phận của mình. Là một học giả chuyên về lịch sử Trung Đông cổ đại, Darwish hiểu rõ xung đột giữa người Ả Rập và người Do Thái không còn là cuộc tranh giành đất đai đơn thuần; đó là một cuộc chiến tôn giáo, và Đền thờ là trung tâm. Arafat đã lợi dụng Núi Đền để khơi mào cuộc Nổi loạn thứ hai đẫm máu vào năm 2000. Vào lúc này đây, imam Hassan Darwish cũng đang toan tính dùng Núi Đền để khơi mào một cuộc chiến khác. Nhưng cuộc nổi loạn này, cuộc nổi loạn thứ ba, sẽ vượt xa hai cuộc nổi loạn trước. Nó sẽ là cơn đại hồng thủy, là giải pháp cuối cùng. Và khi nó kết thúc, sẽ không còn bóng người Do Thái trên mảnh đất Palestine.

Với viễn cảnh về ngày khải huyền hiển hiện sống động trong suy nghĩ của hắn, gã imam đi qua cổng vòm Qanatir chơ vơ ở Tây Nam và băng ngang khoảng sân rộng hướng về phía Đền thờ al-Aqsa với mái vòm bằng bạc. Mé phía đông của khối kiến trúc khổng lồ này là lối vào mới xây dẫn đến Đền thờ Hồi giáo Marwani dưới lòng đất. Darwish bước xuống từng bậc cấp và dùng một trong những chiếc chìa của hắn để mở khóa cửa chính. Như mọi khi, hắn có chút lưỡng lự khi bước vào. Là giám đốc dự án của công trình xây dựng này, Darwish biết việc đào lên hàng tấn đất đá xà bần đã làm suy yếu khu Đền đến nhường nào. Một nửa cao nguyên phía nam có nguy cơ sụp đổ. Thật vậy, vào dịp lễ Ramadan và những ngày lễ quan trọng khác, Darwish gần như có thể nghe thấy tiếng Núi Đền rên rỉ dưới sức nặng của các tín hữu. Chỉ cần một cú đẩy nhẹ, phần lớn khu đất thánh thiêng liêng ở bên trên sẽ đổ nhào vào lòng thung lũng Kidron, kéo theo cả Đền thờ al-Aqsa, điện thờ thiêng liêng thứ ba của Hồi giáo. Và điều gì sẽ diễn ra tiếp sau đó? Quân đội Hồi giáo sẽ đổ đến biên giới của Israel trong vòng vài giờ, cùng hàng chục triệu tín đồ đạo Hồi đang phẫn nộ. Đây sẽ là cuộc thánh chiến kết thúc mọi cuộc thánh chiến, cuộc nổi dậy với một mục đích duy nhất - tiêu diệt hoàn toàn Nhà nước Israel và cư dân của nó.

Lúc này đây, đền thờ Hồi giáo kỳ vĩ dưới lòng đất, với mười hai lối đi chạy dưới những cột trụ và mái vòm thời Vua Herod, đang chìm trong sự im lặng chết chóc và ngời lên một thứ ánh sáng mềm mại, thần thánh. Một mình, Darwish lặng lẽ bước dọc trên đoạn đường che mái vòm và dừng lại trước một cánh cửa gỗ nặng trịch được khóa kín bởi một ổ khóa chắc chắn. Vị imam giữ chiếc chìa duy nhất. Hắn mở khóa và kẻo cửa ra, để lộ một cầu thang bằng đá. Ở chân cầu thang còn một cánh cửa bị khóa khác. Darwish cũng giữ chiếc chìa duy nhất để mở cánh cửa này, nhưng khi hắn mở nó ra thì phía sau chỉ có bóng tối đen đặc bao trùm. Hắn lấy ra chiếc đèn pin nhỏ hiệu Maglite từ túi áo choàng thobe, bật nó lên và rọi sáng mười lăm thước đầu tiên của một đường hầm cổ mà chiều rộng chỉ vừa đủ một người chui lọt. Đường hầm được hình thành từ khi có Đền Thánh đầu tiên của người Do Thái, và đây là một trong nhiều kỳ quan cổ đại được khai quật bởi những công nhân Palestine trong quá trình xây dựng đền thờ Hồi giáo. Darwish chẳng hé răng với cơ quan cổ vật Israel cũng như Liên Hiệp Quốc về sự tồn tại của đường hầm này. Không ai biết về nó - không một ai trừ imam Hassan Darwish và một vài công nhân đã thề giữ bí mật tuyệt đối.

Một số người có lẽ sẽ cảm thấy sợ hãi khi bước vào một đường hầm cổ xưa trong đêm tối, nhưng Darwish thì không. Khi còn nhỏ, hắn thường dành hàng giờ liền mải mê khám phá khắp hang cùng ngõ hẻm của Núi Đền. Đường hầm này dốc chúi xuống đến vài trăm mét trước khi bằng phẳng trở lại. Sau đó nó chạy khá thẳng thớm thêm khoảng bốn trăm mét rồi lại dốc lên lần nữa. Cuối con đường là một cái thang bằng thép mới được lắp đặt. Thở hổn hển sau quãng đường dốc, Hassan Darwish nắm lấy tay vịn và chậm rãi trèo về phía cánh cửa sập bằng gỗ ở đỉnh thang. Đẩy cánh cửa lên, hắn đã đến được gian phòng ngủ của một căn hộ ở Silwan, khu Đông Jerusalem tiếp giáp với Thành phố của Vua David. Trên một bức tường dán tấm áp-phích của một ngôi sao bóng đá Pháp; trên bức tường khác là một bức ảnh của Yahya Ayyash, bậc thầy chế tạo bom cho tổ chức Hamas, biệt hiệu là Kỹ sư. Darwish mở tủ quần áo. Bên trong là “những cuốn kinh Koran” mà ông Farouk đã đề cập trong tin nhắn -vài trăm ký chất nổ và kíp nổ mà các tổ chức Hezbollah và Hamas nhập lậu qua biên giới Ai Cập, sau đó được bộ lạc người Bedouin tuồn vào Israel. Còn nhiều lô hàng khác trên khắp Silwan. Rất nhiều.

Darwish đóng cửa tủ lại. Sau đó, hắn lẻn ra khỏi phòng ngủ và băng qua những căn phòng chật hẹp của căn hộ, đến một ban công bé xíu nhìn ra thung lũng Kidron, ở phía đối diện nổi bật hai mái vòm khổng lồ, một bằng bạc, một bằng vàng, lơ lửng trên những bức tường đá Herod cao vút màu mật ong. “Lạy thánh Allah vĩ đại,” gã imam thì thào. “Xin thương xót linh hồn con vì những gì con sắp làm nhân danh Người.”