← Quay lại trang sách

Chương 38 THÀNH VATICAN

TRONG TUẦN KẾ tiếp, cuộc sống vốn hỗn loạn của Gabriel chợt đi vào nề nếp, dễ chịu và ẩn dật. Căn hộ trên Phố Gregoriana nay đã không thể lui tới, ông đành tạm lánh trong một căn hộ nhỏ dành cho linh mục bên trong Điện Tông Tòa, ngay tầng dưới nơi ở của Đức ông Donati và Đức Giáo hoàng. Sáng nào ông cũng thức sớm, dùng bữa sáng với các sơ phục vụ cho Đức Thánh Cha, và sau đó đi đến phòng phục chế, dành một vài giờ bên bức tranh của Caravaggio. Antonio Calvesi, trưởng đội phục chế, hiếm khi ghé thăm nơi làm việc như thể một hang động của Gabriel. Sang ngày thứ hai, cuối cùng ông ta cũng lấy đủ can đảm để hỏi về lý do vắng mặt của Gabriel thời gian qua.

“Tôi đi thăm người dì bị ốm.”

“Ở đâu?”

“Bãi biển Palm.”

Calvesi cau mày hoài nghi. “Có tin đồn rằng anh sẽ hộ tống il Papa trong chuyến hành hương đến miền Đất Thánh.”

“Thực ra, chúng tôi thích gọi nơi đó là Israel hơn,”

Gabriel đáp, chấm nhẹ cây cọ vẽ lên đuôi áo choàng màu đỏ của Thánh John. “Và, đúng vậy, Antonio, tôi sẽ đi cùng với Đức Thánh Cha. Nhưng đừng lo, tôi sẽ hoàn thành bức Caravaggio này ngay khi trở về.”

“Khoảng bao lâu?”

“Có lẽ là một tuần, hoặc một tháng.”

“Anh làm vậy chỉ để chọc tức tôi phải không?”

“Phải đây.”

“Chúng ta hãy hy vọng là dì của anh vẫn khỏe.”

“Vâng,” Gabriel nói. “Chúng ta hãy cứ hy vọng thế.”

Đúng mười giờ, Gabriel rời khỏi phòng làm việc và đến chỗ Đội Cận vệ Thụy Sĩ để dự cuộc họp thường nhật về các vấn đề an ninh cho chuyến đi của Đức Giáo hoàng. Thoạt đầu, Alois Metzler có vẻ khó chịu trước sự hiện diện của Gabriel. Nhưng mối nghi ngại của ông nhanh chóng bốc hơi khi Gabriel chỉ ra những sơ hở rành rành trong kế hoạch bảo vệ mà dường như không ai nhận ra. Có một hôm, sau khi kết thúc một cuộc họp dài lê thê, ông mời Gabriel đến văn phòng riêng.

“Nếu anh phục vụ Đức Thánh Cha cùng với chúng tôi,” ông nói, đưa mắt liếc nhìn chiếc quần jean xanh và áo khoác da của Gabriel, “anh sẽ phải ăn vận như chúng tôi.”

“Quần ống túm khiến tôi trông béo lắm,” Gabriel nói. “Và tôi cũng chưa nghĩ ra cách nào để mang một cây kích qua máy dò kim loại ở sân bay.”

Metzler nhấn nút trên máy bộ đàm. Mười giây sau, phụ tá của ông bước vào, mang theo ba bộ com-lê tối màu, ba chiếc áo sơ mi trắng, ba chiếc cà vạt, và một đôi giày tây buộc dây.

“Anh lấy đâu ra số đo của tôi vậy?” Gabriel hỏi.

“Từ vợ của anh.” Metzler mở ngăn kéo trên cùng và lấy ra một khẩu súng lục 9 ly. “Anh cũng sẽ cần đến thứ này.”

“Tôi có một khẩu này rồi.”

“Nhưng nếu anh được coi là một vệ binh Thụy Sĩ, thì anh phải mang một khẩu súng theo chuẩn của Đội Cận vệ Thụy Sĩ.”

“Một khẩu SIG Sauer P226.”

“Ấn tượng đấy.”

“Tôi đã từng làm việc này một hai lần rồi.”

“Tôi có nghe nói.” Metzler mỉm cười. “Anh chỉ cần thông qua một cuộc sát hạch bắn súng trước khi tôi giao cho anh món vũ khí này.”

“Anh đang nói đùa sao?”

“Tôi là người Thụy Sĩ, nghĩa là tôi không bao giờ nói đùa.” Metzler đứng dậy. “Tôi tin là anh còn nhớ đường.”

“Rẽ phải ngay chỗ bộ áo giáp và đi dọc theo hành lang đến sân trong. Cánh cửa dẫn đến trường bắn nằm ở phía bên kia.”

“Đi thôi.”

Chỉ mất chưa đầy hai phút họ đã đến nơi. Khi họ bước vào, có bốn chàng trai Thụy Sĩ ở tuổi đôi mươi đang tập bắn, và không khí ngập ngụa mùi thuốc súng. Metzler lệnh cho họ rời khỏi đó trước khi giao cho Gabriel khẩu SIG Sauer với hộp tiếp đạn rỗng và một hộp đựng đạn. Gabriel nhanh chóng tra mười lăm viên đạn vào hộp tiếp đạn và nhét nó vào chuôi. Metzler mang đồ bảo hộ mắt và tai vào.

“Còn anh?” ông ta hỏi.

Gabriel lắc đầu.

“Tại sao vậy?”

“Bởi vì nếu có người đang cố ám sát Đức Thánh Cha, tôi sẽ không có thời gian đâu mà bảo vệ tai với mắt.”

Metzler treo mục tiêu lên đường dây và cho nó chạy ra xa gần hai mươi mét.

“Xa hơn nữa,” Gabriel bảo.

“Bao xa?”

“Xa hết cỡ.”

Metzler làm theo. Gabriel giương súng theo thế bắn tam giác cổ điển và nã một loạt mười lăm viên đạn xuyên mắt, mũi và trán của mục tiêu.

“Không tệ,” Metzler nhận xét. “Để xem anh có thể làm lại lần nữa không.”

Metzler cho chạy một mục tiêu khác đến cuối tầm bắn trong khi Gabriel nhanh chóng nạp đạn. Ông nhả sạch đạn trong vài giây. Lần này, thay vì mười lăm lỗ cắm quanh vùng mặt, chỉ có duy nhất một lỗ lớn ở giữa trán.

“Chúa ơi,” Metzler thốt lên.

“Súng tốt đấy,” Gabriel nói.

Vào giữa trưa, Gabriel lẻn ra khỏi bốn bức tường của Vatican bằng cách chui vào phía sau chiếc sedan của Donati và đi đến Đại sứ quán Israel để nghe ngóng tin tình báo từ Đại lộ King Saul. Nếu còn thời gian, ông sẽ trở lại phòng phục chế làm thêm vài giờ nữa. Sau đó, lúc bảy giờ, ông sẽ cùng Donati và Đức Giáo hoàng dùng bữa tối trong phòng ăn riêng của ngài. Gabriel biết rằng tốt hơn hết không nên nhắc đến vấn đề an ninh nữa, vì vậy ông nhân cơ hội đặc biệt này để giúp Đức Giáo hoàng chuẩn bị sẵn sàng cho một trong những chuyến công du nước ngoài quan trọng nhất trong thời gian tại vị của ngài. Phủ Quốc vụ khanh, được xem như Bộ Ngoại giao Vatican, đã soạn sẵn một loạt những bài diễn văn nội dung an toàn cho Đức Giáo hoàng phát biểu ở các điểm dừng khác nhau tại Israel và những vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền Palestine mà ngài dự định sẽ đến. Nhưng mỗi ngày trôi qua, người ta càng thấy rõ rằng Đức Giáo hoàng dự định sẽ thay đổi triệt để mối quan hệ căng thẳng cố hữu giữa Tòa Thánh và Nhà nước Do Thái. Chuyến đi này còn hơn một cuộc hành hương, đó sẽ là đỉnh cao của cả một công cuộc do chính Đức Giáo hoàng khởi xướng gần một thập kỷ trước, mở đầu bằng hành động ăn năn của ngài tại Đại Hội đường Do Thái thành Rome.

Vào đêm cuối, Gabriel lắng nghe Đức Thánh cha tập dượt những lời phát biểu ngài sẽ nói khi đến thăm Yad Ashe, viện bảo tàng và đài tưởng niệm nạn nhân Holocaust của Israel. Sau đấy, ngài Donati bồn chồn cứ một mực tiễn Gabriel về đến tận nhà. Vòng vèo một hồi Đức ông dẫn Gabriel đến trước cổng Nhà nguyện Sistine. Donati do dự trước khi vặn chốt cửa.

“Lần này chắc sẽ tốt hơn nếu anh vào trong đó một mình.”

“Ai ở trong đấy vậy, Luigi?”

“Người duy nhất trên thế giới có thể cho Carlo một sự trừng phạt thích đáng.”

Veronica Marchese đang đứng phía sau bàn thờ, hai tay khoanh lại vẻ phòng thủ, đôi mắt bà dán chặt vào bức tranh Sự phán xét cuối cùng. Đôi mắt ấy vẫn không dời đi ngay cả khi Gabriel lặng lẽ tiến đến bên cạnh bà.

“Anh có nghĩ nó sẽ trông giống thế này không?” bà hỏi.

“Cái kết à?”

Bà gật đầu.

“Tôi hy vọng là không. Nếu nó giống vậy thì tôi sẽ gặp rắc rối nghiêm trọng.”

Lúc này bà mới nhìn sang phía ông. Ông có thể nhận ra là bà đã khóc, “chuyện gì đã xảy ra vậy, anh Allon? Làm thế nào một người như anh lại trở thành một trong những nhà phục chế tác phẩm nghệ thuật Cơ Đốc giáo tài ba nhất thế giới?”

“Đó là một câu chuyện khá dài.”

“Tôi nghĩ mình cần một câu chuyện dài,” bà nói.

“Vì quê hương, tôi đã được yêu cầu làm vài nhiệm vụ khiến tôi không thể nào theo nghiệp vẽ tranh được nữa. Thế là tôi học tiếng Ý và đến Venice với một danh tính khác để học nghề phục chế.”

“Với Umberto Conti sao?”

“Còn ai được nữa?”

“Tôi nhớ Umberto.”

“Tôi cũng vậy. Ông ấy có một chùm chìa khóa có thể mở bất cứ cánh cửa nào ở Venice, ông ấy đã từng lôi tôi ra khỏi giường vào giữa khuya chỉ để ngắm tranh. ‘Một người hài lòng với bản thân mình chỉ có thể là một nhà phục chế tốt,’ ông từng nói thế với tôi, ‘nhưng chỉ người nào đã làm hỏng tranh của chính mình thì mới có thể trở thành một nhà phục chế thực sự vĩ đại.’”

“Anh đã sửa được nó chưa?”

“Phần nào,” Gabriel đáp sau phút im lặng trầm ngâm. “Nhưng tôi e nhiều phần không thể sửa chữa được nữa.”

Bà không nói gì.

“Carlo đang ở đâu?”

“Ở Milan. Ít nhất, tôi nghĩ anh ấy đang ở Milan. Cách đây không lâu, tôi phát hiện ra rằng Carlo không phải lúc nào cũng nói thật cho tôi biết anh ấy ở đâu hoặc gặp gỡ ai. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao.”

“Cha Donati đã nói cô nghe những gì?”

“Đủ để tôi biết rằng cuộc đời mà tôi vẫn biết đã chấm hết.”

Một khoảng lặng nặng nề bao trùm họ. Gabriel hồi tưởng lại lúc Veronica xuất hiện vào buổi chiều hôm ấy tại bảo tàng Villa Giulia, trông bà trẻ hơn tuổi thật rất nhiều. Giờ đây, đột nhiên trông bà cũng như bất cứ ai ở độ tuổi ngũ tuần. Tuy vậy, bà vẫn đẹp nổi bật.

“Cô hẳn đã nhận ra chồng cô không như những gì anh ta vẫn thể hiện,” cuối cùng ông cũng lên tiếng.

“Tôi biết rằng Carlo đã kiếm được rất nhiều tiền theo những cách mà không phải lúc nào tôi cũng hiểu được. Nhưng nếu anh đang hỏi liệu tôi có biết anh ấy là tên đầu sỏ đứng đầu một tổ chức tội phạm quốc tế đang điều khiển đường dây giao dịch cổ vật trái phép hay không...” Giọng bà nhỏ dần. “Không, anh Allon, tôi không hề biết.”

“Anh ta đã lợi dụng cô, Veronica. Cô chính là cánh cửa dẫn anh ta vào Ngân hàng Vatican.”

“Và danh tiếng của tôi trong giới cổ vật cũng đã cho anh ấy lớp vỏ một người đáng kính trọng.” Mái tóc bà xòa xuống khuôn mặt. chậm rãi một cách cố tình, bà vén nó sang bên, như thể bà muốn Gabriel, nhà phục chế đánh giá những thương tổn do chính sự bội bạc của Carlo gây ra.

“Tại sao cô kết hôn với anh ta?” ông hỏi.

“Anh đang phán xét tôi sao, anh Allon?”

“Tôi nào dám. Tôi chỉ tự hỏi làm sao mà cô có thể chọn một người như anh ta sau khi đã yêu Luigi.”

“Anh có vẻ không hiểu nhiều về phụ nữ nhỉ?”

“Tôi cũng từng nghe bảo thế.”

Bà nở một nụ cười chân thật. Nó nhanh chóng tan biến khi bà đưa ra lý do tại sao bà lại kết hôn với một kẻ như Carlo Marchese. Carlo điển trai. Carlo thú vị. Carlo giàu có.

“Nhưng Carlo không phải là Donati,” Gabriel nói.

“Không,” bà đáp, “chỉ có một Luigi duy nhất, và lẽ ra tôi đã có được anh ấy nếu không phải vì Pietro Lucchesi.”

Giọng bà bất giác trở nên cay đắng, phẫn uất, như thể Đức Thánh Cha là người phải chịu trách nhiệm về việc bà kết hôn với một kẻ sát nhân.

“Có lẽ như thế lại tốt hơn,” Gabriel thận trọng nói.

“Việc Luigi đã quay lại đường tu thay vì cưới tôi sao?” Ông gật đầu.

“Anh nói nghe mới dễ làm sao, anh Allon.” Sau đó bà nhẹ nhàng thêm, “Anh không phải người đã trót yêu anh ấy.”

“Ở đây ông ấy hạnh phúc, Veronica.”

“Và sẽ ra sao khi người ta gỡ chiếc Nhẫn Ngư Phủ khỏi tay Lucchesi và đặt xác ông ta vào hầm mộ dưới Vương cung thánh đường? Rồi Luigi sẽ làm gì sau đó?” Bà nhanh chóng tự trả lời câu hỏi của chính mình. “Tôi cho rằng anh ấy sẽ giảng dạy giáo luật trong vài năm ở một trường đại học giáo hoàng, và sau đó anh ấy sẽ trải qua những năm tháng cuối đời tại một viện dưỡng lão toàn những linh mục già cỗi. Quá cô độc,” một chốc sau bà nói thêm. “Buồn bã và cô đơn khủng khiếp.”

“Đó là cuộc sống mà ông ấy đã chọn.”

“Người khác chọn nó cho anh ấy, cũng giống như cuộc đời của anh vậy. Hai người khá giống nhau đấy, anh Allon. Tôi nghĩ vì thế nên hai người rất hợp nhau.”

Gabriel nhìn bà trong một lúc. “Cô vẫn còn yêu ông ấy, phải không?”

“Đó không phải là câu hỏi mà tôi cần phải trả lời - ít nhất là không phải ở đây.” Bà ngước mặt nhìn lên trần nhà. “Anh có biết rằng Claudia đã gọi tới văn phòng của tôi ở Villa Giulia vào đêm cô ấy bị sát hại không?”

“Lúc 8:47,” ông đáp.

“Vậy tôi cho rằng anh cũng biết cô ấy đã gọi đến một số điện thoại khác một phút trước đó.”

“Tôi biết. Nhưng chúng tôi vẫn chưa thể xác định chủ nhân số điện thoại đó.”

“Tôi đã có thể giúp anh.”

Bà trao cho ông một tấm danh thiếp của mình, số điện thoại mà Claudia đã gọi chính là số di động của Veronica.

“Cô ấy gọi tới văn phòng lúc tôi đã rời khỏi đó, và mãi đến ngày hôm sau tôi mới biết cô ấy có gọi vào chiếc Blackberry của tôi.”

“Tại sao cô không biết được?”

“Vì chiếc điện thoại đã biến mất cả ngày hôm đó. Tôi tìm thấy nó trên sàn ô tô vào sáng hôm sau. Tôi đã không nghĩ gì nhiều cho đến ngày anh tới gặp tôi tại viện bảo tàng. Sau đó tôi nhận ra chính Carlo đã làm chuyện đó.

Sau khi để mặc anh đứng dưới trời mưa như trút nước, tôi đã lái xe tới Villa Borghese và khóc suốt cả tiếng đồng hồ rồi mới về nhà. Carlo đã nhận ra có điều gì đó không ổn.” “Sao cô không cho tôi biết vào bữa tiệc tối hôm đó?” “Tôi sợ.”

“Sợ chuyện gì?”

“Rằng chồng tôi cũng sẽ giết tôi.” Bà nhìn Gabriel, và rồi nhìn vào bức Sự phán xét cuối cùng. “Tôi hy vọng nó cũng đẹp như bức tranh này.”

“Cái kết sao?”

“Ừ.”

“Không hiểu sao,” Gabriel nói, “tôi không mấy tin vào vận may của chúng ta.”

Ông kể cho Veronica những gì ông có thể chia sẻ và sau đó tiễn bà ra tận Cổng Đồng. Khi bóng bà khuất sau những hàng cột, ông hình dung cảnh Donati đi bên cạnh bà -không phải một Donati bị ràng buộc bởi lời khấn khiết tịnh, mà là một Donati như ông có thể trở thành nếu không có ơn gọi của Đức Chúa Trời đưa ông trở thành linh mục. Khi bà đã khuất xa, ông bắt đầu rảo bộ về phòng mình, nhưng có gì đó thôi thúc ông quay lại nhà nguyện. Một mình, ông đứng bất động trong vài phút, mắt lướt nhìn lên bức bích họa, một đoạn kinh thánh hiện lên trong suy nghĩ của ông. “Ngôi nhà mà Vua Solomon kiến thiết cho Thiên Chúa dài sáu mươi cubit, rộng hai mươi cubit, và cao ba mươi cubit...”