Chương 39 THÀNH VATICAN - JERUSALEM
LÀ NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU một quốc gia có chủ quyền, Đức Giáo hoàng sở hữu một bưu điện, một sở đúc tiền, một đội quân nhỏ, một viện bảo tàng tầm cỡ quốc tế, và các vị đại sứ làm việc tại các đại sứ quán trên khắp thế giới. Thế nhưng, ngài lại không có máy bay riêng. Vì lẽ đó, ngài buộc phải cậy nhờ vào lòng tốt của Alitalia, một hãng hàng không quốc gia đầy vấn đề của Ý. Để bay đến Israel, hãng đã cho Đức Thánh Cha mượn một chiếc Boeing 767 và đổi tên nó thành Zion để tôn vinh chuyến đi này. Khoang ngồi riêng của Đức Giáo hoàng có bốn ghế xoay, một bàn cà phê chất đầy những tờ báo buổi sáng, và một truyền hình vệ tinh để ngài có thể theo dõi chuyến khởi hành của mình từ Sân bay Fiumicino được phát trực tiếp trên RAI, một đài truyền hình Ý.
Đoàn hộ tống thuộc Tòa Thánh và bộ phận an ninh của Đức Giáo hoàng ngồi ngay phía sau ngài ở khu vực hạng ghế thương gia, trong khi người của các cơ quan báo chí Vatican ngồi ở hạng ghế phổ thông. Khi họ lên máy bay vác theo nào là camera nào là hành lý, một vài người còn đang quàng cổ những chiếc khăn kaffiyeh kẻ ô vuông trắng đen của Palestine. Điểm dừng thứ hai trong hành trình bận rộn của Đức Giáo hoàng là trại tị nạn Dheisheh. Hiển nhiên, phái đoàn Vatican cảm thấy việc gây ấn tượng tốt với người dân nước chủ nhà là điều quan trọng.
Mặc dù phải khởi hành từ sớm tinh mơ, hãng Alitalia vẫn phục vụ một suất ăn trưa xa hoa trên chuyến bay. Các vị linh mục và giám mục ngấu nghiến như thể đã mấy ngày họ không được nhìn thấy thức ăn, còn Gabriel lại bận rộn đến nỗi quên ăn. Ngồi bên cạnh Alois Metzler, ông xem lại các kế hoạch bảo vệ một lần cuối, lập ra trong đầu danh sách tất cả những rủi ro có thể xảy ra. Khi con số những viễn cảnh ác mộng ấy lên đến hai mươi, ông đóng tài liệu kế hoạch lại và nhìn ra ngoài cửa sổ khi máy bay lướt đi là là bên trên vùng biển Địa Trung Hải, hướng tới miền Đồng bằng Duyên hải mướt xanh của Israel. Năm phút sau, khi các bánh xe đập rầm rập xuống đường băng Sân bay Ben Gurion, một thành viên trong đoàn Vatican hét toáng lên, “Chào mừng đến với Palestine bị chiếm đóng!” Một tổng giám mục trong Phủ Quốc vụ khanh thì thầm đáp lời, “Cầu chúa phù hộ.” Rõ ràng, Gabriel thầm nghĩ, có vài người trong Tòa Thánh không hề vui vẻ gì với việc Đức Giáo hoàng quyết định dành mùa Phục Sinh này trên vùng Đất Thánh vốn bị kiểm soát bởi người Do Thái.
Theo chỉ thị của Đức ông Donati, Gabriel là một thành viên trong đội vệ sĩ chủ chốt của Đức Giáo hoàng, đồng nghĩa với việc ông sẽ không được phép rời ngài nửa bước. Và như vậy, Đức Giáo hoàng Paul VII, Giám mục thành Rome, Pontifex Maximus (Đại tư tế), và đấng kế vị Thánh Peter, bước xuống khỏi chiếc máy bay mượn được, theo sát bởi đứa con duy nhất của những người sống sót sau vụ thảm sát Holocaust tới từ thung lũng Jezreel. Tiếp nối truyền thống của người tiền nhiệm, Đức Giáo hoàng lập tức quỳ mọp xuống hôn đường băng. Khi đứng dậy, ngài rảo bước về phía Thủ tướng Israel đang chờ đợi và trao cho ông ta một cái bắt tay mạnh mẽ. Trong vài phút ngắn ngủi, giữa vòng vây an ninh kín đặc, hai người trao đổi vài câu xã giao. Sau đó ngài Thủ tướng hộ tống Đức Giáo hoàng lên máy bay trực thăng. Gabriel theo sau, ngồi giữa Donati và Alois Metzler.
“Đến lúc này thì mọi việc đều ổn,” Donati nói khi máy bay trực thăng nhanh chóng cất cánh.
“Đúng vậy,” Gabriel nói. “Nhưng bây giờ cuộc vui mới bắt đầu.”
Họ bay về phía đông, tiến vào dãy đồi Judean, lướt trên hẻm núi có hình dáng như cầu thang xoắn ốc chia cắt Jerusalem khỏi biển cả. Gabriel chỉ xuống một vài ngôi làng đã từng chứng kiến những cuộc giao tranh khốc liệt nhất trong cuộc chiến tranh giành Độc lập của Israel; sau đó Jerusalem hiện ra trước mắt họ, bồng bềnh, như thể được nâng đỡ bởi bàn tay của Chúa Trời. Đức Giáo hoàng chú tâm nhìn khung cảnh bên ngoài cửa sổ khi họ băng ngang thành phố từ tây sang đông, từ hiện đại tới cổ kính. Khi họ bay đến Núi Đền, ngôi đền Mái vòm của Đá lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa. Gabriel chỉ cho Đức Giáo hoàng Nhà thờ Mộ Thánh, Nhà thờ Dormition, và vườn Gethsamane.
“Con trai của anh ở đâu?” Đức Giáo hoàng hỏi.
“Thằng bé ở đó,” Gabriel đáp khi họ bay ngang qua núi Ô Liu.
Trực thăng lượn về phía nam và bay dọc theo đường Biên giới Xanh 1949, mà giờ đây thường được gọi là Biên giới trước năm 1967. Từ trên không trung, có thể thấy rõ rằng biên giới kia đã trở nên mờ nhạt sau hơn bốn mươi năm người Israel chiếm đóng. Trong vòng- vài giây, họ đã bay ngang khu Abu Tor pha trộn người Do Thái và Ả Rập, khu định cư Do Thái Har Homa nhỏ bé ở Bờ Tây, và ngôi làng Ả Rập Beit Jala. Nằm bên cạnh Beit Jala là Bethlehem. Có thể nhận ra ngay Quảng trường Máng Cỏ từ xa, vì nó đang chật ních khoảng vài ngàn người, mỗi người đều cầm cờ Palestine vẫy vẫy. Trên những con đường dẫn vào thành phố, không có bóng dáng một chiếc ô tô nào chạy qua, chỉ có xe tải và xe jeep của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDE).
“Đây là nơi mà mọi thứ sẽ bị chính trị hóa,” Gabriel nói với Donati. “Điều quan trọng là phải giữ cho mọi chuyện diễn ra theo đúng kế hoạch, đặc biệt là khi vị khách danh dự lại là người đàn ông duy nhất ăn vận trắng toát từ đầu đến chân.”
Khi trực thăng hạ cánh, Tổng thống Mahmoud Abbas và lãnh đạo của chính quyền Palestine đã chờ sẵn trên bậc thềm bên ngoài Nhà thờ Giáng Sinh. “Chào mừng Đức Thánh Cha đến với vùng đất cổ Palestine,” Abbas lên tiếng, đủ lớn để các phóng viên gần đó có thể nghe thấy. “Và chào mừng đến với Bethlehem và Jerusalem, thủ đô vĩnh hằng và bất khả phân chia của Palestine.” Đức Giáo hoàng đáp lại bằng một cái gật đầu không tỏ thái độ gì và quay sang chào hỏi những thành viên còn lại của phái đoàn. Hầu hết mọi người rõ ràng đều hân hoan vì sự hiện diện của Đức Thánh Cha, duy chỉ có Yasser Abed Rabbo, cựu lãnh đạo nhóm khủng bố Mặt trận Đại chúng của quân Giải phóng Palestine, có vẻ khá tò mò về tay vệ sĩ luôn theo bên cạnh Đức Giáo hoàng như hình với bóng.
Bước vào nhà thờ, Đức Giáo hoàng dành vài phút cầu nguyện trong thinh lặng tại bàn thờ. Sau đó ngài yêu cầu Abbas dẫn mình đi xem những thiệt hại mà nhà thờ phải hứng chịu vào năm 2002, khi một nhóm khủng bố người Palestine chiếm cứ lãnh địa cơ Đốc giáo thiêng liêng này để tránh bị bắt. Vào ngày cuối cùng sau 93 ngày bế tắc, quân đội Israel đã phát hiện bốn mươi thiết bị nổ được giấu trong nhà thờ. Theo lời các giáo sĩ dòng Francis bị giam giữ làm con tin kể lại, những kẻ khủng bố Palestine đã cướp phá các biểu tượng bằng vàng trong nhà thờ và báng bổ Kinh Thánh khi xé sách làm giấy vệ sinh. Tất cả những điều này có vẻ là tin tức mới lạ với Mahmoud Abbas. “Tất cả thiệt hại của nhà thờ,” ông này khẳng định, “đều là do quân đội Israel gây ra. Như chúng ta đều biết, họ quyết liệt bài Kitô giáo.”
“Nếu đúng như vậy,” Đức Giáo hoàng lạnh lùng đáp, “tại sao số người theo đạo Kitô ở Bethlehem lại giảm từ chín mươi lăm phần trăm xuống chỉ còn một phần ba? Và tại sao các Kitô hữu lại chạy trốn khỏi vùng lãnh thổ do Chính quyền Palestine kiểm soát ở mức đáng báo động vậy?”
Abbas cười gượng và nhìn vào đồng hồ đeo tay. “Có lẽ, thưa Đức Thánh Cha, bây giờ là lúc thích hợp để đến thăm Dheisheh.”
Khu trại tị nạn nằm cách một dặm về phía nam Bethlehem trên một khoảnh đất được chính phủ Jordan cho thuê sau khi kết thúc cuộc chiến tranh giành Độc lập. Ban đầu, chỉ có khoảng ba ngàn người Palestine, chủ yếu đến từ Jerusalem và Hebron, sống ở đó trong những lán trại. Giờ đây, sau hơn sáu mươi năm, khu trại đã được thay bằng những công trình bê tông, và dân số khu trại lên đến gần mười ba ngàn người tị nạn có đăng ký. Với tình trạng thất nghiệp lan tràn, hầu hết đều nhận bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, và khu trại cũng là điểm nóng tập trung các hoạt động quân sự. Dù thế, người dân ở đây vẫn hoan hô chào đón Đức Giáo hoàng khi ngài rảo bước trên những con đường chật hẹp cùng với Gabriel hộ tống bên cạnh.
Khi kết thúc chuyến thăm, tại quảng trường trung tâm đầy bụi bặm của khu trại, Đức Giáo hoàng bày tỏ nỗi xót xa cho cái mà ngài gọi là “nỗi thống khổ của người Palestine”.- Nhưng bất ngờ đi trệch khỏi những lời đã chuẩn bị trước đó, ngài thẳng thừng chỉ trích sự thất bại của ba thế hệ lãnh đạo Ả Rập trong việc đạt được giải pháp thỏa đáng cho cuộc khủng hoảng tị nạn. “Những ai kéo dài nỗi đau khổ của nhân loại để phục vụ chính trị,” Đức Giáo hoàng nghiêm trang nói, “sẽ phải bị lên án mạnh mẽ như những người đã gây ra nỗi đau đó.”
Sau đó, Đức Giáo hoàng làm dấu thánh ban phước lành cho đám đông rồi lên chiếc xe limousine bọc thép, đi một đoạn ngắn đến Jerusalem. Tiến vào Khu Do Thái qua Cổng Mughrabi, ngài nhét một mảnh giấy ghi lời khấn nguyện hòa bình vào giữa những phiến đá của Bức tường phía Tây rồi đi bộ qua những con đường của Khu Hồi giáo hướng về Cổng Xiềng Xích, một trong những lối vào phía đông của đền thờ Haram al-sharif. Một tấm biển được đặt bởi trưởng giáo sĩ Israel cảnh báo rằng, theo ý nó, người Do Thái bị cấm đặt chân đến Núi Đến vì sự thiêng liêng của nơi này.
“Ta chưa bao giờ nhận ra điều này,” Đức Giáo hoàng nói.
“Chuyện rất phức tạp, thưa Đức Thánh Cha,” Gabriel nói. “Nhưng ở Israel, hầu hết mọi thứ đều phức tạp.”
“Anh có chắc là muốn theo ta không?”
“Hồi trước tôi đã từng đến đây rồi.”
Đức Giáo hoàng mỉm cười. “Ta cứ rùng mình khi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra cho Isaac bé bỏng tội nghiệp nếu lúc ấy không có anh.”
“Chính Chúa đã cho cậu bé sống. Tổng lãnh Thiên thần Gabriel chỉ là sứ giả của Người.”
“Ta hy vọng Người cũng bằng lòng cho ta sống.”
“Người sẽ làm vậy nếu Đức Cha nghe theo lời tôi,” Gabriel nói. “Mọi chuyện ở đây có thể vượt khỏi tầm kiểm soát nhanh chóng. Nếu tôi thấy có điều gì đó không ổn...”
“Chúng ta rời khỏi đây,” Đức Giáo hoàng nói, ngắt lời ông.
“Thật nhanh,” Gabriel nói.
Dù tổ chức Waqf nắm quyền ở Núi Đền, nhưng nó không kiểm soát hết các cổng ra vào, đồng nghĩa với việc chính phủ Israel có thể thực hiện yêu cầu của Tòa Thánh mà đóng cửa đền trong chuyến thăm ngắn ngủi của Đức Giáo hoàng. Vì lẽ đó, chỉ có bốn mươi đại biểu Hồi giáo đang chờ đợi trên bậc thang dẫn tới Đền thờ Mái vòm của Đá. Đoàn gồm có vị đại mufti, các thành viên Hội đồng Tối cao của Waqf, và vài chục cảnh vệ an ninh có vũ trang, nhiều người trong số họ có quan hệ với những nhóm chiến binh Hồi giáo và Palestine. Khi Đức Giáo hoàng vừa đến nơi vài phút, vị mufti đã mời ngài vào cầu nguyện trong ngôi đền Mái vòm của Đá, dù trước đó Waqf đã cam đoan với Vatican rằng sẽ không có lời mời kiểu vậy. Giáo hoàng lịch thiệp khước từ và dành vài phút trầm trồ trước những ô cửa sổ và bức khảm rực rỡ của ngôi đền. Gabriel lặng lẽ chỉ ra những dòng chữ khắc bằng tiếng Ả Rập công khai chỉ trích niềm tin Kitô giáo và mời gọi tất cả các tín hữu cải đạo theo Hồi giáo, điều mà người Hồi giáo vốn tin là lời mặc khải sau cùng của Chúa.
“Anh biết đọc tiếng Ả Rập ư?” vị mufti hỏi.
“Không,” Gabriel đáp bằng tiếng Đức.
Chuyến thăm kết thúc, Đức Giáo hoàng và vị mufti dời bước đến vườn để dùng trà. Ở bên nhân vật tôn giáo quyền lực nhất thế giới, người canh giữ đền thờ linh thiêng thứ ba của Hồi giáo đã tận dụng cơ hội này để trình bày và dẫn giải cái lý thuyết gã thường lặp đi lặp lại, rằng cuộc thảm sát Holocaust chưa bao giờ xảy ra và chính người Do Thái đã ngấm ngầm mưu tính phá hủy Đền thờ Mái vòm của Đá với sự trợ giúp của các Kitô hữu theo chủ nghĩa cơ yếu trên đất Mỹ. Đức Giáo hoàng lắng nghe trong sự im lặng kiềm chế, nhưng trong bài phát biểu trước công chúng sau đó, ngài đã nhận xét đây là cuộc đối thoại “khai sáng nhất”, và sau khi theo kế hoạch nói lời xin lỗi vì việc giết chóc quá độ xảy ra trong cuộc Thập Tự chinh, ngài chỉ ra rằng chính người Israel là những người chinh phục đầu tiên trong lịch sử Jerusalem vẫn giữ Núi Đền ở nguyên trạng vốn có. Do đó, ngài tuyên bố, Hồi giáo có một trọng trách đặc biệt, không chỉ coi sóc các đền thờ sừng sững trên bề mặt Núi Đền, mà còn phải bảo tồn những thánh tích ẩn sâu dưới lòng núi.
“Nhìn chung,” Đức Giáo hoàng nói, trong lúc bước vào chiếc limousine đậu trên Phố Cổng Sư Tử, “ta nghĩ rằng mọi chuyện vẫn đang diễn ra khá tốt đẹp.”
“Tôi không cho rằng vị mufti đó cũng nghĩ như vậy,” Gabriel mỉm cười nói.
“May mắn cho ông ta vì ta còn giữ được bình tĩnh. Anh phải nghe những điều ông ta nói với ta kia.”
“Chúng tôi nghe mấy lời đó mỗi ngày, thưa Đức Cha.” “Nhưng ta thì không,” Đức Giáo hoàng đáp. “Ta chỉ có thể thầm nhủ rằng Chúa có lý do để muốn ta ngồi lại nghe hết mấy lời nói càn đó.”
Nhìn vào tờ lịch trình của Đức Thánh Cha, Gabriel không thể không tự hỏi liệu nó có phải sự thật không.
Điểm dừng tiếp theo chính là Yad Ashe.
Donati đã dự kiến dành một tiếng đồng hồ cho chuyến viếng thăm, nhưng chín mươi phút trôi qua rồi Đức Giáo hoàng mới kết thúc chuyến tham quan riêng xem triển lãm lịch sử Holocaust mới được thiết kế. Từ nơi đó, ngài đi đến Phòng Tên, căn phòng ảm đạm lưu trữ thông tin của những người đã khuất, và cứ thế men theo Đại lộ những Người dân ngoại Công chính*, băng qua Thung lũng những Cộng đồng. Trong khu Tưởng niệm Trẻ em, một nơi âm u, ám ảnh trong ánh nến bập bùng, thoáng chốc ngài chợt mất phương hướng. “Lối này,” Gabriel khẽ nói. Và khi Đức Giáo hoàng một lần nữa bước ra Jerusalem rực rỡ nắng vàng, những dòng nước mắt đã lăn dài trên má ngài. “Trẻ thơ,” ngài nói. “Vì cớ gì lại giết hại những đứa nhỏ này?”
Người dân ngoại Công chính (BT): the Righteous among Nations, là một tên gọi danh dự mà nước Israel đặt cho những người không phải dân Do Thái sẵn sàng hy sinh tính mạng để cứu người Do Thái trong nạn diệt chủng HolocauSt.
“Đức Cha có cần thời gian để trấn tĩnh lại không?”
“Không,” Đức Giáo Hoàng nói. “Đến giờ rồi.”
Họ đi ngang qua Đài tưởng niệm Anh hùng cao vút để đến Hội trường Tưởng niệm, ở quảng trường bên ngoài, vài trăm vị chức sắc Israel và những nạn nhân còn sống sót sau thảm sát Holocaust ngồi đối diện với chiếc bục phát biểu đơn giản, nơi Đức Giáo hoàng sẽ đọc bài diễn văn quan trọng nhất chuyến đi. Không gian ảm đạm ở nơi đây khiến cho bầu không khí có vẻ tang tóc. Không một ngọn cờ vẫy, và không một tiếng vỗ tay khi Đức Giáo hoàng bước vào hội trường. Nối gót ngài bước vào bóng râm mát rượi, lần đầu tiên Gabriel cảm thấy bình yên kể từ khi họ đặt chân lên đất Israel. Trong căn phòng tưởng niệm thiêng liêng này, Đức Thánh Cha được an toàn.
Ngọn lửa tưởng niệm đã được dập tắt tạm thời. Với sự trợ giúp của Donati, Đức Giáo hoàng thực hiện nghi lễ châm lửa, sau đó ngài quỳ gối cầu nguyện vài phút trong sự thinh lặng đớn đau. Cuối cùng, ngài đứng dậy và tiến ra quảng trường nơi đám đông đang xôn xao mong đợi. Khi Đức Giáo hoàng đến gần bục phát biểu, Donati lấy đi bìa hồ sơ đen kẹp bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn và để vào đó một tờ giấy trắng kẻ dòng. Trên đó là những dòng chữ Đức Thánh Cha đã viết trong cuộc nói chuyện cuối cùng với Gabriel tại Điện Tông Tòa. Đức Giáo hoàng sẽ đưa ra một trong những tuyên bố trọng đại nhất nhiệm kỳ giáo hoàng của mình mà không có văn bản soạn sẵn.
Ngài đứng tại bục phát biểu hồi lâu như thể sự pha trộn giữa cái đẹp và nỗi kinh hoàng ở Yad Ashe đã khiến ngài không nói nên lời. Vừa hộ tống Đức Thánh Cha ra khỏi khu Tưởng niệm Trẻ em, Gabriel hiểu rằng cảm xúc này là chân thật. Nhưng ông cũng biết rằng Đức Thánh Cha sắp sửa bắt đầu bài thuyết giảng bằng một luận điểm về lời nói và hành động. Vì vậy, sự im lặng của ngài là có chủ đích.
“Tại nơi nỗi đau là khôn cùng này,” cuối cùng ngài bắt đầu, “lời nói không thể nào diễn tả được sâu thẳm nỗi buồn và sự hổ thẹn của chúng tôi. Khu vườn tưởng niệm xinh đẹp này không chỉ là một bia mộ trọng thể dành cho sáu triệu đứa con của Thiên Chúa và của tổ phụ Abraham đã bỏ mình trong ngọn lửa cuộc diệt chủng Holocaust. Nó là lời nhắc nhở rằng cái ác, cái ác thật sự, vẫn hiện hữu trên thế giới. Nó còn là lời nhắc nhở rằng chính những Kitô hữu như chúng tôi phải gánh lấy một phần trách nhiệm cho những gì đã xảy ra trong suốt cuộc diệt chủng Holocaust, và chúng tôi phải cầu xin tha thứ. Một thập kỷ trước, ngay trong Đại hội đường Do Thái ở Rome, chúng tôi nói về sự đồng lõa của mình trong tội ác mà Yad Ashe hằng tưởng niệm. Và hôm nay, chúng tôi một lần nữa xác nhận lại nỗi đau buồn đó, và một lần nữa cầu xin sự thứ tha. Nhưng giờ đây, ngay trong thời điểm mà tình hình ở khu vực Trung Đông đang ngày một căng thẳng, nỗi đau còn xen lẫn cả sợ hãi. Sợ rằng lịch sử có thể lặp lại lần nữa.”
Những tiếng rì rầm lan khắp đám đông. Một số phóng viên từ đoàn báo chí Vatican giờ đây đang hoang mang nhìn chăm chăm vào bản sao bài diễn thuyết của họ. Đức Giáo hoàng nhấp một ngụm nước và chờ mọi người im lặng. Ngài thoáng nhìn Gabriel và Donati trước khi tiếp tục bài diễn thuyết.
“Kể từ khi chúng tôi đến Đại hội đường Do Thái ở Rome, Tòa Thánh đã có những hành động mạnh mẽ nhằm xóa bỏ sự thù hằn với người Do Thái trong giáo lý và văn bản. Chúng tôi đã yêu cầu các đạo hữu Hồi giáo cũng tự vấn lương tâm như vậy, nhưng, buồn thay, chuyện đó vẫn chưa xảy ra. Trên khắp thế giới Hồi giáo, các giáo sĩ vẫn hằng ngày rao giảng rằng cuộc thảm sát Holocaust chưa từng xảy ra, trong khi song song đó, các phần tử thánh chiến cực đoan thể sẽ gây ra một cuộc diệt chủng khác. Sự mâu thuẫn này mua vui cho nhiều người, nhưng không phải tôi - không phải khi một quốc gia từng thề sẽ quét sạch người Israel khỏi mặt đất vẫn đang ngày đêm phát triển khả năng thực hiện lời thề đó.”
Một lần nữa, khán giả lại xôn xao trong sự chờ đợi. Đôi mắt của Gabriel lướt nhìn những thành viên thuộc phái đoàn Tòa Thánh đang lúng túng trước khi dừng lại trên hình hài nhỏ bé trong màu áo trắng sắp làm nên lịch sử.
“Một số lãnh đạo đã đảm bảo với tôi rằng Israel có thể chung sống với một nước Iran trang bị đầy vũ khí hạt nhân,” Đức Giáo hoàng tiếp lời. “Nhưng đối với những người đã sống sót qua cái điên rồ của chiến tranh Thế giới thứ hai, nói vậy chẳng khác gì bảo người Do Thái không cần sợ hãi một nước Đức cầm đầu bởi Hitler và quân đội phát xít của ông ta. Ngay đây, trên chính thành phố Jerusalem linh thiêng, mỗi ngày chúng ta đều được nhắc nhở rằng những đế quốc và nền văn minh vĩ đại có thể biến mất trong chớp mắt. Cổ vật của họ lấp đầy viện bảo tàng của chúng ta, nhưng quá thường xuyên, chúng ta quên mất bài học từ lỗi lầm của họ. Chúng ta bị cám dỗ, muốn nghĩ rằng chúng ta đã đi đến chương cuối của lịch sử, và chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra lần nữa. Nhưng lịch sử được tạo nên mỗi ngày, thỉnh thoảng bởi kẻ ác. Và rất thường xuyên, lịch sử vẫn tái diễn.”
Một số phóng viên giờ đây đang thầm thì vào điện thoại di động. Gabriel ngờ rằng họ đang báo tin cho các biên tập viên biết Đức Thánh Cha vừa có những lời phát biểu hết sức giật gân, khác xa so với bài diễn văn tưởng nhớ theo thông lệ tại Yad Ashe.
“Do vậy,” Đức Giáo hoàng tiếp lời, “nhân sự kiện trọng thể này, ở tại nơi thánh địa này, chúng tôi không chỉ tưởng nhớ sáu triệu nạn nhân đã chịu khổ đau và mất mạng trong cuộc diệt chủng Holocaust, chúng tôi tái lập mối quan hệ với con cháu họ, và chúng tôi cam đoan rằng chúng tôi sẽ làm tất cả trong khả năng mình để bảo đảm rằng chuyện đó sẽ không xảy ra lần nữa.”
Đức Giáo hoàng ngừng một lần cuối, như thể ra tín hiệu cho các phóng viên biết đoạn quan trọng nhất trong bài phát biểu của ngài vẫn còn ở phía trước. Khi Đức Thánh cha cất tiếng lần nữa, giọng ngài không còn đượm nỗi đau buồn, chỉ có quyết tâm.
“Cuối cùng,” ngài nói, đôi cánh tay dang rộng, lời nói vang vọng qua các đài tưởng niệm của Yad Ashe, “chúng tôi thề với dân tộc Israel, những người anh của chúng tôi, rằng lần này, khi các anh đối mặt với thách thức nhằm vào sự sinh tồn của các anh, Tòa Thánh Công giáo La Mã sẽ đứng về phía các anh. Chúng tôi sẽ trao đến các anh lời cầu nguyện, và cả những lời khuyên, nếu các anh sẵn lòng tiếp nhận. Chúng tôi chỉ xin các anh hãy thận trọng tối đa, bởi quyết định của các anh sẽ ảnh hưởng đến toàn thế giới. Mảnh đất của thành phố thiêng liêng này chứa đầy di tích của những đế chế lầm lỗi. Jerusalem là đô thành của Chúa. Nhưng nó cũng chính là bia mộ cho sự điên rồ của nhân loại.”
Cùng với lời kết đó, khán giả bùng nổ trong tiếng vỗ tay rền vang như sấm. Gabriel và các thành viên còn lại của đội an ninh nhanh chóng đến bên Đức Giáo hoàng và hộ tống ngài ra chiếc xe limousine chờ sẵn. Khi đoàn xe đi xuống sườn núi Herzl hướng về Thành cổ, Đức Giáo hoàng trao cho Gabriel những tờ giấy ghi bài phát biểu.
“Hãy thêm nó vào bộ sưu tập của anh đi.”
“Cảm ơn Đức Cha.”
“Vẫn còn nghĩ rằng ta nên hủy bỏ chuyến đi ư?”
“Không, thưa Đức Cha. Nhưng Đức Cha có thể chắc chắn rằng người Iran đang treo giải thưởng cho cái đầu của Đức Cha trong khi chúng ta trò chuyện đây.”
“Ta biết họ sẽ làm như thế,” Đức Giáo hoàng nói. “Chỉ cần đảm bảo rằng sẽ không ai đạt được mục đích trước khi ta rời khỏi Jerusalem.”