Chương 41 THÀNH CỔ JERUSALEM
ĐÓ LÀ NGÀY Thứ sáu Tốt lành, nghĩa là Jerusalem, thành lũy đổ nát ngự trên đồi của Chúa, đang rơi vào tình trạng gần như kích động thái quá. Trong Thành phố Mới mà phần lớn dân cư là người Do Thái, buổi sáng tất bật những bước chuẩn bị phút chót cho ngày lễ Shabbat sắp tới. Nhưng ở Đông Jerusalem, hàng ngàn tín đồ Hồi giáo đang lũ lượt đổ về Đền thờ Haram al-Sharif cho lễ nguyện ngày thứ sáu, cùng lúc đó, vô số người theo đạo Công giáo khắp nơi trên thế giới cũng chuẩn bị tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Jesus với người mà họ tin là đại diện cho Chúa trên mặt đất này. Không mấy ngạc nhiên khi cảnh sát và nhân viên y tế báo cáo về sự gia tăng đột ngột của các ca mắc Hội chứng Jerusalem, chứng rối loạn tâm thần tôn giáo đột ngột xuất hiện khi tiếp xúc với vô số các địa điểm linh thiêng trong thành phố. Trong một ca như vậy, một khách trọ của Khách sạn Vua David đã xuất hiện ở hành lang khi chỉ quấn độc nhất chiếc khăn trải giường trên mình, tuyên bố rằng sắp đến ngày tận thế.
“Ông ta giờ đang ở đâu?” Donati hỏi.
“Vẫn đang nghỉ ngơi thoải mái dưới tác dụng của thuốc ngủ liều mạnh,” Gabriel đáp lời. “Mọi người tin rằng ông ta sẽ hồi phục hoàn toàn.”
“Ông ta là tín đồ đạo của chúng tôi hay của các anh?”
“Của Cha, tôi e là thế.”
“Ông ta từ đâu đến?”
“Từ San Francisco.”
“Và ông ta phải lặn lội cả quãng đường dài đến Jerusalem để phát bệnh rối loạn tâm thần sao?”
Donati mỉm cười và châm một điếu thuốc. Họ đang ngồi trong phòng khách tại nơi ở dành cho Thượng phụ. Trên chiếc bàn ở giữa họ là một tấm bản đồ tỉ lệ lớn của Thành Cổ, trên đó Phố Dolorosa, Con đường Thương khó, được đánh dấu màu đỏ. Đây là một con đường La Mã hẹp, vắt ngang Thành Cổ, đây đó có những bậc thang ghép từ nhiều phiến đá nhỏ, chạy dài hơn sáu trăm mét từ Pháo đài Antonia xưa đến Nhà thờ Mộ Thánh, vốn được các Kitô hữu xem là nơi đóng đinh và an táng Chúa Jesus. Như hầu hết người Israel, Gabriel tránh xa con đường này bởi những chủ tiệm người Palestine ưa nài ép luôn cố tóm lấy tất cả những ai đi ngang qua, bất kể đức tin của họ. Thông thường, các cửa tiệm vẫn mở vào ngày Thứ sáu Tốt lành, nhưng không phải hôm nay. Gabriel đã lệnh cho các tiệm phải đóng cửa.
“Tôi phải thừa nhận đây là ngày mà tôi lo lắng nhất,” ông nói, nhìn chăm chú vào bản đồ. “Đức Giáo hoàng phải đi bộ men theo con đường chật hẹp này và dừng chân tại mười bốn đàng thánh giá nổi tiếng trong lịch sử tôn giáo.”
“Tôi e rằng chúng ta không thể làm gì về lộ trình - hoặc kịch bản. Đức Thánh Cha phải đi trên cùng đoạn đường như Chúa Jesus đã đi để đến nơi Người bị đóng đinh vào thập giá. Và ngài quyết tâm làm vậy một cách trang nghiêm, đường hoàng nhất có thể.”
“Nhưng ngài ấy chí ít phải cân nhắc lại việc dùng áo chống đạn Kevlar chứ?”
“Không.”
“Tại sao không?”
“Bởi Đức Chúa đã không dùng áo chống đạn trên đoạn đường đến với cái chết của Người, và bề trên của tôi cũng sẽ làm như vậy.”
“Nhưng đây chỉ là một cuộc tái hiện thôi, Luigi.”
“Với Đức Giáo hoàng thì khác. Ngay khi Đức Thánh cha đặt chân lên Con đường Thương khó, ngài sẽ là hiện thân của Chúa Jesus trong mắt những con chiên của ngài.”
“Với một điểm khác biệt quan trọng.”
“Là gì vậy?”
“Đức Thánh Cha phải sống sót qua ngày hôm nay.”
Mười phút sau, trong chiếc áo thụng trắng ngời, bên ngoài khoác áo choàng vai màu đỏ tươi, Đức Giáo hoàng đi xuống nhà và bước vào phía sau xe limousine. Chiếc xe mang ngài đi vòng quanh rìa phía bắc của Thành Cổ, vượt qua một hàng dài vô tận những người hành hương Kitô giáo cuồng nhiệt, và cuối cùng đi đến Cổng Sư Tử. Phái đoàn Vatican đã chờ ở đó, cùng với một phái đoàn lớn gồm các vị giáo sĩ và chức sắc Công giáo, những người sẽ theo chân Đức Giáo hoàng khi ngài dẫn đầu cuộc đi đàng thánh giá. Lúc Gabriel và Donati dìu Đức Thánh Cha ra khỏi xe, đám đông vỗ tay nhiệt liệt. Thế nhưng, tràng pháo tay mau chóng bị át đi bởi tiếng giảng kinh giữa trưa phát ra từ tòa tháp cao chót vót của Đền thờ Hồi giáo al-Aqsa.
“Ông ta đang thuyết giảng gì vậy?” Donati tò mò hỏi.
“Không dịch lại được đâu,” Gabriel trả lời.
“Tệ lắm sao?”
“Tôi e là vậy.”
Chặng đàng thánh giá đầu tiên nằm trên đoạn cầu thang ngắn tại trường tiểu học Umariya, trường Hồi giáo (madrassa) mà tên khủng bố khét tiếng người Palestine, Abu Nidal đã từng theo học. Chính nơi này, theo các Phúc Âm và truyện Kitô giáo, là nơi mà quan tổng trấn vùng Judea dưới thời La Mã, Pontius Pilate đã đưa ra bản án đóng đinh Chúa Jesus trên thập tự giá. Giờ đây, sau gần hai thiên niên kỷ, Đức Thánh Cha, Đức Giáo hoàng Paul VII lại đứng đúng nơi này, kính cẩn nhắm mắt và thưa rằng, “Chúng con tôn thờ Chúa, Chúa Jesus, chúng con chúc tụng Chúa.” Donati và phái đoàn vây quanh Đức Giáo hoàng lập tức quỳ gối mà đáp rằng, “Vì cuộc khổ nạn của Người đã cứu chuộc thế gian.” Gabriel nhìn đồng hồ đeo tay. 12:05. Qua một chặng, còn mười ba đàng phải đi.
Văn phòng của imam Hassan Darwish có hai cửa sổ. Một nhìn ra phía nam hướng về Đền thờ Mái vòm của Đá và Đền thờ Hồi giáo al-Aqsa; một quay mặt sang phía tây hướng về Phố Dolorosa và những mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh. Thông thường, Darwish luôn kéo rèm che kín ô cửa thứ hai để không phải nhìn thấy thứ mà hắn cho là đền thờ đa thần đáng ghê tởm. Nhưng giờ đây, trong cái ngày bi thảm nhất trên lịch phụng vụ Kitô giáo, hắn đứng đó một mình sau ô cửa mở, ngắm nhìn người đàn ông nhỏ bé ngu ngốc trong bộ đồ màu đỏ và trắng dẫn đầu đám lợn và khỉ* diễu hành dọc Con đường Thương khó. Một lát sau, khi Đức Giáo hoàng bước vào Nhà thờ Đánh Đập (nơi Chúa Jesus bị đánh đòn), Darwish kéo rèm sập lại “xoẹt” một tiếng đầy thỏa mãn và bước đến ô cửa sổ bên kia. Ngôi đền Mái vòm của Đá, biểu tượng cho sự vươn lên của thế lực Hồi giáo trong đô thành của Thiên Chúa, choán hết chân trời. Darwish liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Hắn lần chuỗi hạt cầu nguyện và đợi chờ sự rúng động của mặt đất.
Trong kinh Koran có tích Thánh Allah biến một số người Do Thái thành lợn và khỉ, sau này đây trở thành cách nói miệt thị người Do Thái (ND).
Tại Đại lộ King Saul, Dina Sarid đang chìm vào một sự im lặng kiểu khác. Căn phòng nơi cô làm việc không có cửa sổ và không trông thấy gì trừ bốn bức tường. Vào lúc này, trên tường dán đầy những hình ảnh của chiến dịch vừa mới thành công mỹ mãn ở Vienna. Tất cả đều ở đó, từ đầu chí cuối, từng bước một, từng chặng một - Claudia Andreatti dẫn đến Carlo Marchese, Carlo Marchese dẫn đến David Girard, David Girard dẫn đến Massoud Rahimi, Massoud Rahimi dẫn đến bốn tên khủng bố Hezbollah đã chết bên ngoài hội đường Stadttempel. Nhưng có phải chiến dịch chống khủng bố Hezbollah-Iran đã thực sự kết thúc? Và hội đường Stadttempel ở Vienna có phải mục tiêu thực sự của chúng không? Sau nhiều giờ điên cuồng nghiên cứu và phân tích, Dina sợ rằng lời đáp cho hai câu hỏi kia là một tiếng “không” như đinh đóng cột.
Cuộc điều tra của cô bắt đầu không lâu sau bảy giờ đêm hôm trước, khi Đơn vị 8200 của Israel chặn và giải mã một thông điệp ưu tiên được truyền từ tổng hành dinh VEVAK đến các cơ sở và căn cứ của Iran trên toàn thế giới. Thông điệp chỉ vỏn vẹn sáu từ: MÁU KHÔNG BAO GIỜ NGỦ YÊN. Những từ ngữ này không có ý nghĩa gì với các nhà toán học hay thiên tài tin học trong Đơn vị, nhưng Dina, một học giả về lịch sử Hồi giáo, lập tức nhận ra rằng cánh Iran đã mượn câu nói của Saladin, vị vua nổi tiếng của các xứ sở Hồi giáo. Là lời khuyên bảo vị này dành cho con trai Zahir, nó có dụng ý là một lời cảnh báo chống lại việc lạm dụng bạo lực không cần thiết. “Ta căn dặn chớ làm đổ máu, chớ dấn sâu và biến nó thành thói quen giết chóc,” Saladin nói, “bởi máu không bao giờ ngủ yên.”
Thế nhưng, như hầu hết những người cha, Saladin không phải lúc nào cũng làm theo lời khuyên của chính mình. Sau khi đánh bại quân Thập Tự chinh trong Trận chiến Hattin gần bờ biển Galilee, ông đã ban cho hai trăm kỵ sĩ bại trận cơ hội sống nếu họ đồng ý cải đạo theo Hồi giáo - và khi họ từ chối, ông vui sướng ngắm nhìn các giáo sĩ và học giả trong đoàn tùy tùng của mình vụng về dùng kiếm giết chết họ. Ba tháng sau đó, khi tiến vào Jerusalem, ông lập tức phá bỏ cây thập giá Kitô đặt trên Đền thờ Mái vòm của Đá và kéo lê nó vòng quanh thành phố. Bản năng đầu tiên của ông là muốn phá hủy hoàn toàn Nhà thờ Mộ Thánh - mà ông thường gọi là “Đống Phân” - nhưng cuối cùng ông vẫn cho phép nhà thờ mở cửa, miễn đừng gióng chuông. Thực tế, mãi đến thế kỷ XIX, sắc lệnh Hồi giáo vẫn cấm đánh chuông nhà thờ ở Jerusalem, sự ra đời của Nhà nước Israel - và việc họ chiếm được Thành Cổ trong chiến tranh Sáu ngày năm 1967 - đã lật đổ sự thống trị của Hồi giáo ở Jerusalem mà cuộc chinh phục của Saladin trước đó đã mang lại. Phải, Núi Đền vẫn nằm dưới tầm kiểm soát của Waqf. Nhưng về cơ bản đó là một pháo đài của Hồi giáo giữa lòng một thành phố phần đông là dân Do Thái.
Máu không bao giờ ngủ yên....
Nhưng tại sao cánh Iran lại dùng cụm từ này trong thông điệp mã hóa? Và nó có ý nghĩa gì? Nó có phải là một lời đe dọa úp mở dành cho Đức Giáo hoàng không? Có lẽ, nhưng Dina băn khoăn về chuyện khác. Vì sao tổ chức Waqf Hồi giáo tại Jerusalem, những kẻ canh giữ đền thánh linh thiêng thứ ba trong Hồi giáo Sunni, lại chọn một tín đồ Hồi giáo Shiite đến từ miền Nam Lebanon làm cố vấn về những vấn đề liên quan đến khảo cổ học tại Núi Đền? Có thể Waqf không biết David Girard thật ra chính là Daoud Ghandour. Cũng có thể mối liên hệ giữa Girard và Waqf là một sự ngẫu nhiên - có thể, Dina nghĩ, nhưng khó có khả năng này. Giống như những chuyên gia phân tích giỏi của Văn phòng, cô luôn nghĩ đến khả năng tồi tệ nhất. Và lời lý giải xấu nhất cho những chuyến thăm Núi Đền thường xuyên của Girard là vì hắn được cử đi bởi vị sếp Iran của hắn, Massoud, cái gã may mắn.
Cậu ta có thể đến những nơi tôi không thể đi và nói chuyện với những người không thể tiếp cận tôi trong vòng một dặm... Cậu ta là dịch vụ chuyển phát nhanh của riêng tôi...
Mối bận tâm đó cứ giày vò tâm trí của cô, khiến Dina cuối cùng phải yêu cầu Đơn vị 8200 khẩn trương đem tất cả thông tin tình báo điện tử có liên quan đến David Girard đi phân tích mật thư steganography - kỹ thuật giấu những thông điệp quan trọng được mã hóa bên trong một vỏ bọc vô hại. Nó được sử dụng thậm chí trước thời Saladin. Thuật ngữ “steganography” là từ gốc Hy Lạp, và lần đầu tiên con người sử dụng “văn bản ẩn giấu” là vào thế kỷ V trước Công nguyên, khi Demaratus, vua của Sparta, giấu thư từ bí mật bên dưới lớp sáp ong. Trong thời đại kỹ thuật số, thông điệp bí mật có thể ngay lập tức được truyền đi qua mạng Internet dưới lớp ngụy trang hoàn toàn vô hại. Hình chụp vị trí một cuộc tấn công khủng bố có thể được ẩn giấu dưới những bức ảnh các cô gái diện áo tắm; một thông điệp được gửi đến đơn vị khủng bố đang hoạt động dưới dạng công thức nấu món bò hầm boeuf bourguignon. Giải mã là một quy trình đơn giản bóc tách một số lượng bit dữ liệu thích hợp ra khỏi thành phần màu sắc của bức ảnh vỏ bọc. Chỉ cần nhấn một vài nút trên bàn phím là những cô gái xinh đẹp trở thành hình ảnh các tòa nhà chính phủ hay ga tàu điện ngầm ở Thành phố New York.
Sau ngày 11 tháng 9, các công ty công nghệ cao của Israel đã đi đầu trong việc phát triển những phần mềm tinh vi có khả năng nhanh chóng tìm kiếm một lượng lớn dữ liệu dùng làm chất liệu steganographic. Kết quả là, Đơn vị 8200 chỉ mất vài giờ đã tìm ra hai hình ảnh đáng chú ý được gửi đến cùng một địa chỉ Gmail vào cùng một ngày. Bức ảnh đầu tiên, ẩn bên trong một bức ảnh dường như vô hại của một con mèo bằng đồng Ai Cập, chụp David Girard đang đứng trước một cặp cột trụ cổ xưa trong một buồng tối, bên cạnh hắn là một imam Hồi giáo. Tấm thứ hai, ẩn bên trong hình chụp vợ hắn, là bức ảnh của một hình thang vẽ bằng tay trên tập giấy ghi chú màu vàng có dòng kẻ. Hình thang trống rỗng ngoại trừ một hình tròn nhỏ nằm khoảng một phần ba bên dưới. Cạnh hình tròn có ba con số: 689.
Hình thang hao hao giống với ranh giới bên ngoài của cao nguyên Núi Đền, khiến ba chữ số trở nên thú vị hơn bao giờ hết; 689 là năm ‘Abd al-Malik, khalip Umayyad đệ ngũ, đã bắt đầu cho xây dựng Đền thờ Mái vòm của Đá. Dina điểm qua một số khả năng có thể liên quan đến con số này, nhưng không cái nào hợp lý. Sau đó, cô xếp hai hình ảnh bên cạnh nhau và đặt một câu hỏi đơn giản. Nếu như con số này chẳng liên quan gì đến lịch sử mà ám chỉ địa điểm thì sao - cụ thể là độ cao so với mực nước biển của căn buồng nơi Girard đang đứng? Cao nguyên Núi Đền cách mực nước biển 2.428 feet, hay 740 mét. Do đó 689 mét sẽ là 51 mét, hay 167 feet, bên dưới Núi Đền.
Giờ đây, ngồi một mình trong căn cứ ngầm của đội, cô nhìn chằm chằm vào bức ảnh bí mật chụp David Girard đang đứng trong căn buồng ngầm của hắn. Rồi nhìn vào mặt của bốn kẻ khủng bố Hezbollah bị giết chết ở Vienna. Rồi nhìn vào Massoud Rahimi đang ngồi xe điện tại Zurich. Rồi nhìn vào dòng thông điệp ưu tiên đã được gửi đến tất cả các trạm tình báo và căn cứ của Iran vào tối hôm qua. Sau đó, cuối cùng, cô đưa mắt về phía chiếc tivi cũ kỹ của nhóm, trên màn hình là một người đàn ông nhỏ bé vận đồ trắng đang chậm rãi đi trên Phố Dolorosa hướng về phía nhà thờ mà Saladin đã từng gọi là “Đống Phân”.
Máu không bao giờ ngủ yên....
Và rồi cô hiểu ra. Cô không thể chứng minh bất cứ điều gì, cũng như cô không thể chứng minh rằng gã ngồi trên xe điện đó chính là Massoud, nhưng cô biết. Vì thế cô vồ lấy chiếc điện thoại và bấm số gọi đến văn phòng của Uzi Navot. Orit, cô thư ký vô dụng của ông, trả lời máy sau hồi chuông đầu tiên. Bên trong Đại lộ King Saul, cô nàng được mệnh danh là “Mái vòm sắt” bởi khả năng không ai sánh được trong việc bác đi mọi yêu cầu gặp cấp trên của cô một lúc.
“Không được rồi,” cô nàng nói. “Ông ấy đang bận ngập đầu.”
“Orit, đây là việc khẩn cấp. Tôi sẽ không gọi nếu không gấp đến thế.”
Thư ký của Navot biết tốt hơn hết không nên hỏi cụ thể là việc gì. “Tôi có thể cho cô hai phút.”
“Tôi chỉ cần có thế.”
“Đến văn phòng đi. Tôi sẽ sắp xếp cho cô cuộc hẹn sớm nhất có thể.”
“Thực ra, tôi cần ông ấy đến chỗ tôi.”
“Cô đang ép tôi quá đấy, Dina.”
“Hãy bảo nếu ông ấy muốn đất nước Israel vẫn còn tồn tại trong tuần tới, ông ấy sẽ bỏ hết mọi thứ và chạy xuống đây ngay.”
Dina gác máy và lại dán mắt vào tivi. Đức Giáo hoàng vừa đến đàng thánh giá thứ sáu, nơi mà bà Veronica đã lau mặt Chúa Jesus.
“Chúng con tôn thờ Người, Chúa Jesus, chúng con chúc tụng Người.”
Máu không bao giờ ngủ yên....