Chương 43 THÀNH CỔ JERUSALEM
GABRIEL KHÔNG ĐI bộ lâu. Trên thực tế, khi đến được Nhà thờ Đấng Cứu Thế, ông đã chạy hết tốc lực. Trên những con hẻm chật hẹp của Khu Kitô giáo, những người hành hương cản bước ông ở mọi ngã rẽ; khi ông vào đến Khu Do Thái thì đám đông mới bắt đầu thưa dần. Ông luồn lách về phía đông - lên xuống những bậc thang đá, đi dưới cổng đá vòm, và băng qua những quảng trường yên ả - cho đến khi ông đến được một trong những cổng vào Bức tường phía Tây. Vì hôm nay là Thứ sáu Tuần Thánh, quảng trường đông hơn thường lệ. Vài trăm người, cả đàn ông lẫn phụ nữ, đang áp mặt vào Bức tường cầu nguyện, và Gabriel đoán ít nhất có hơn vài trăm người nữa bên trong các hội đường sau Vòm Wilson. Dừng lại, ông cố hình dung xem việc gì sẽ xảy ra khi chỉ một trong số những khối đá vuông Herod khổng lồ sụp đổ. Rồi ông tiến bước về phía viên cảnh sát cấp cao nhất mà ông có thể tìm thấy.
“Tôi muốn anh đóng cửa Bức tường và quảng trường lại.”
“Ông là cái thá gì?” viên cảnh sát hoạnh họe.
Gabriel nâng kính lên. Viên cảnh sát gần như lập tức đứng nghiêm mình.
“Tôi không thể đóng cửa mà không có chỉ thị trực tiếp từ cấp trên,” anh ta nói với vẻ lo lắng.
“Kể từ lúc này, tôi là sếp của anh.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Hãy đóng cửa quảng trường và Vòm Wilson, và tiến hành yên lặng nhất có thể.”
“Nhưng nếu tôi bảo các tín đồ Do Thái rời khỏi đây, e là sẽ khó mà yên lặng được.”
“Chỉ cần đưa họ ra khỏi đây thôi.”
Gabriel quay đi không nói một lời nào nữa và tiến về phía lối ra vào Đường hầm phía Tây. Vẫn là người phụ nữ Do Thái giáo chính thống ở đó chào đón ông.
“Anh ấy có ở dưới đó không?” Gabriel hỏi.
“Nguyên chỗ cũ,” người phụ nữ gật đầu nói.
“Có bao nhiêu người nữa ở dưới đường hầm?”
“Sáu mươi du khách và khoảng hai mươi nhân viên.”
“Hãy đưa tất cả ra ngoài.”
“Nhưng...”
“Ngay bây giờ.”
Gabriel dừng một chút để tải e-mail của Dina về chiếc BlackBerry. Sau đó ông men theo con đường đi xuống lòng đất và ngược dòng thời gian, cho đến lúc ông đứng ngay rìa hố khai quật của Eli Lavon. Lavon đang lúi húi trên bộ xương của Rivka trong vùng ánh sáng trắng chói lòa. Nghe tiếng Gabriel, ông nhìn lên và mỉm cười.
“Bộ đồ đẹp đấy. Sao anh không đi cùng Đức Thánh Cha?”
Gabriel thả chiếc BlackBerry xuống, Lavon nhanh nhẹn bắt lấy nó và nhìn vào màn hình.
“Chuyện gì vậy?”
“Ra khỏi cái hố đi, Eli, và tôi sẽ kể anh nghe mọi chuyện.”
Cách một dặm về phía tây, tại một căn hộ tọa lạc trên Phố Narkiss, Chiara đang theo dõi truyền hình trực tiếp lễ rước Thứ sáu Tuần Thánh trên đài Israel. Vài phút trước đó, khi Đức Giáo hoàng dẫn đầu phái đoàn cầu nguyện đến chặng đàng thánh giá thứ tám, nàng đã nhìn thấy Gabriel áp chiếc điện thoại lên tai mình. Giờ đây, khi Đức Thánh Cha nghiêm trang đi từ đàng thánh giá thứ tám đến đàng thứ chín, Gabriel đã không còn ở bên cạnh ngài. Chiara chăm chú nhìn vào màn hình thêm vài giây trước khi chộp lấy điện thoại và bấm số văn phòng của Uzi Navot ở Đại lộ King Saul. Orit trả lời máy.
“Ông ấy vừa định gọi cô đấy, Chiara."
“Xảy ra chuyện gì?”
“Ông ấy đang trên đường đến Jerusalem. Giữ máy nhé”
Chiara có cảm giác nôn nao trong bụng khi Orit để nàng đợi. Vài giây sau Navot nghe máy.
“Anh ấy đang ở đâu, Uzi?”
“Tình hình rất phức tạp?
“Chết tiệt, Uzi! Anh ấy đang ở đâu?”
Mặc dù Navot không biết rõ, lúc này Gabriel đang ngồi trên rìa hố khai quật bên cạnh Eli Lavon. Bên dưới họ là bộ xương trắng hếu của Rivka, một nhân chứng trong sự kiện quân La Mã bao vây thành Jerusalem và vụ tàn phá Đền Thánh thứ hai của Vua Herod. Lúc này, Lavon quên bẵng bộ xương, mắt ông dán chặt vào bức ảnh nhỏ xíu trên màn hình chiếc BlackBerry của Gabriel. Trong hình là David Girard, còn gọi là Daoud Ghandour, đang đứng trong căn phòng dưới lòng đất bên cạnh Hassan Darwish, vị giáo sĩ Hồi giáo trong Hội đồng Tối cao của tổ chức Waqf tại Jerusalem.
“Phía sau có phải là những cột trụ không?”
“Cột trụ không phải mối quan tâm lúc này, Giáo sư à.”
“Xin lỗi.”
Lavon kiểm tra bức ảnh thứ hai - hình thang đánh dấu và con số 689 ở khoảng một phần ba bên dưới.
“Hợp lý đấy,” một lúc sau ông nói.
“Hợp lý thế nào?”
“Rằng căn phòng nơi bọn chúng đang đứng thuộc phần đó của khu Núi Đền. Mặt đất bên dưới Đền thờ Mái vòm của Đá và cổng ra vào Đền thờ al-Aqsa đầy những ống nước, đường thông hơi và bể chứa nước.”
“Làm sao ta biết được?”
“Bởi vì Charles Warren đã nói thế.”
Ngài Charles Warren là một nhân viên xuất sắc trong đội Kỹ sư Hoàng gia Anh, là người đã tiến hành cuộc khảo sát đầu tiên và duy nhất ở Núi Đền vào giữa năm 1867 và 1870. Những bản đồ và bản vẽ chi tiết tỉ mỉ của ông vẫn là nguồn tài liệu chuẩn mực cho các nhà khảo cổ học đương đại.
“Warren đã tìm thấy ba mươi bảy kiến trúc và bể nước ngầm dưới lòng Núi Đền,” Lavon giải thích, “chưa kể đến vô số cống dẫn nước và các lối đi khác. Những lối lớn nhất nằm xung quanh vị trí được biểu thị trên bản đồ này. Trên thực tế, có một hố nước khổng lồ nằm ở khu vực này gọi là Biển Lớn, vốn được đục sâu xuống tầng đá vôi. Đương thời có một họa sĩ tên William Simpson từng vẽ minh họa khu vực này.” Lavon ngước nhìn lên. “Có thể David Girard và tên imam đã đứng ngay đó.”
“Liệu chúng ta có thể đi đến đó không?”
“Bản vẽ của Simpson cho thấy rõ ràng có sự hiện diện của ít nhất ba cống nước lớn dẫn đến những hồ nước và các kiến trúc khác trong công trình phức tạp này. Nhưng cũng có thể Waqf đã cho đào những đường hầm và lối đi mới dưới vỏ bọc dự án xây dựng của họ.”
“Tóm lại là được hay không hả Eli?”
“Anh đang đặt cho tôi những câu hỏi mà tôi không thể trả lời nổi,” Lavon đáp. “Sự thật là, chúng ta không biết cái gì thật sự nằm dưới lòng Núi Đền bởi chúng ta bị cấm bước chân xuống đó.”
“Không còn nữa.”
“Anh có biết sẽ ra sao nếu Waqf phát hiện chúng ta ở dưới đó không?”
“Thực ra, tôi quan tâm hơn đến việc sẽ xảy nếu có một quả bom nổ tung trong một hang động ngay dưới Đền thờ Mái vòm của Đá và al-Aqsa.”
“Tôi hiểu ý anh rồi.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra, Eli?”
“Tôi cho là còn tùy thuộc vào sức công phá của quả bom. Nếu nó chỉ cỡ một chiếc áo đánh bom tự sát bình thường, thì Núi Đền chẳng suy suyển gì. Nhưng nếu nó lớn...”
“Massoud từng phá hủy các doanh trại Hải quân tại Beirut bằng vụ nổ phi hạt nhân lớn nhất mà thế giới từng chứng kiến trong thế hệ này. Hắn biết cách khiến mọi mục tiêu đổ sụp.”
Lavon đứng dậy và rảo bước về phía những khối đá khổng lồ của Bức tường phía Tây. Du khách đã được sơ tán; giáo đường nhỏ bé tên gọi Hang Động trở nên trống trải. Họ hoàn toàn đơn độc.
“Tôi luôn hy vọng sẽ có cơ hội được ngắm nhìn phía bên kia,” ông nói, ánh mắt lướt trên bức tường đá. “Nhưng tôi không ngờ rằng cơ hội lại đến vì cớ sự thế này.”
“Chắc chắn anh sẽ tìm thấy thứ gì đó bên dưới nơi này, hơn là mấy bộ xương khô, Giáo sư à.”
“Chắc rồi.” Lavon hờ hững đáp.
“Anh có thể đưa hai ta vào trong không, Eli?”
“Bên trong Núi Đền sao?” Lavon mỉm cười. “Đi theo tôi.”
Họ băng ngang Hang Động và đi xuống dãy bậc thang tiến về cổng đá vòm cổ bị xây bít bằng gạch và vữa xám. Cạnh cổng treo một biển hiệu phát sáng hiện đại ghi CỔNG WARREN.
“Đương nhiên, nó được đặt theo tên của Charles Warren,” Lavon giải thích. “Trong suốt thời đại của Đền Thánh thứ hai, đường này bắt đầu từ chỗ ta đang đứng dẫn xuống lối đi dưới lòng đất. Lối đi ngầm đó dẫn đến dãy cầu thang, và những bậc thang đó...”
“Dẫn đến Đền Thánh.”
Lavon gật đầu. “Vào năm 1981, Trưởng giáo sĩ Do Thái chăm nom Bức tường phía Tây đã ngu ngốc hạ lệnh cho cánh nhân công mở cổng này lần nữa. Nhưng ngay khi họ bắt đầu đục đẽo, tiếng búa đã truyền qua những con đường tới các bể nước trên Núi Đền. Người Ả Rập có thể nghe thấy rõ mồn một. Họ lập tức xông vào đường hầm và một cuộc xung đột nhỏ đã nổ ra. Cảnh sát Israel đã phải đến Núi Đền để lập lại trật tự. Sau đó, Cổng Warren bị niêm phong, và cứ phong kín như thế cho đến tận hôm nay.”
“Nhưng hiển nhiên, đây không phải con đường ngầm duy nhất lên Núi Đền.”
“Không,” Lavon vừa lắc đầu vừa đáp. “Có ít nhất một đường hầm khác mà chúng tôi biết. Cách đây vài năm chúng tôi đã phát hiện ra nó. Nó cách lối đi này 45 mét,” ông nói, chỉ về phía bắc của bức tường. “Và nó có thiết kế giống hệt Cổng Warren.”
“Tại sao nó chưa bao giờ được công bố?”
“Vì chúng tôi không muốn châm ngòi cho một cuộc nổi loạn khác, vài nhà khảo cổ Israel đã được phép vào trong đó ít phút trước khi nó bị niêm phong.”
“Trong đó có anh không?”
“Đáng lẽ ra tôi đã có dịp tham quan nó, nhưng tôi bận việc khác.”
“Ở đâu?”
“Ở Moscow.”
“Ivan sao?”
Lavon gật đầu.
“Lớp niêm phong đường hầm mới đó dày bao nhiêu?”
“Không như cái này,” Lavon nói, vỗ nhẹ lên bức tường gạch thô. “Ngay cả một nhà khảo cổ với cái dạ dày hay trở chứng cũng có thể đi qua nó mà không gặp trở ngại gì. Còn với một gã rắn như anh thì không mất đến vài lần vung búa đâu.”
“Thế tiếng ồn thì sao?”
“Tiếng rao giảng sẽ át đi hết,” Lavon nói. “Nhưng có một vấn đề khác.”
“Là gì vậy?”
“Nếu như quả bom nổ tung khi chúng ta vẫn còn quanh quẩn trong Núi Đền, chúng ta sẽ rước lấy kết cục như Rivka.”
“Có những chỗ khác tệ hơn để chôn thân mà Eli.”
“Tôi cứ tưởng anh đã nói chỗ này chẳng có gì ngoài một đống đá.”
“Tôi đã nói thế,” Gabriel đáp. “Nhưng đó là đá của tôi.”
Lavon chợt lặng thinh.
“Anh đang nghĩ gì vậy?”
“Những cột trụ.”
“Đưa tôi cây búa và đèn pin nào, Eli, và tôi sẽ dắt anh đi xem những cột trụ.”