← Quay lại trang sách

Chương 44 JERUSALEM

QUÃNG ĐƯỜNG TỪ Đại lộ King Saul đến Văn phòng Thủ tưởng ở Jerusalem thường phải mất đến nửa tiếng, nhưng buổi chiều hôm ấy, đoàn xe hộ tống của Uzi Navot đã đến ngay trước cửa chỉ trong vòng hai mươi hai phút. Khi Navot bước vào tòa nhà, radio của Gabriel đã được ngắt khỏi mạng lưới bảo vệ Đức Giáo hoàng và chuyển qua băng tầng an ninh dành riêng cho nhân viên của Văn phòng. Nhờ vậy, Navot có thể nghe ngóng khi Gabriel và Eli Lavon lùng sục một nhà kho của Đường hầm phía Tây để tìm đồ nghề đột nhập vào Núi Đền.

Thủ tướng đang chờ đợi tại phòng nội các cùng với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và người đồng chức của Navot đến từ Shabak. Những hình ảnh trực tiếp về Thành Cổ ghi lại từ camera quan sát đang chập chờn trên màn hình video. Trong một màn hình, Đức Giáo hoàng đang tiến đến gần Nhà thờ Mộ Thánh. Một màn hình khác cho thấy vài ngàn tín đồ Hồi giáo đang tụ tập trên đỉnh Núi Đền. Và màn hình thứ ba quay cảnh hàng tá cảnh sát Israel đang đứng canh tại Quảng trường Bức tường phía Tây vắng vẻ. Đây đúng là, Navot nghĩ, một ngày Thứ sáu Tốt lành đáng nguyền rủa.

“Thế nào rồi?” Thủ tướng hỏi khi Navot đã yên vị trong chỗ ngồi thường lệ của mình.

“Họ đang đợi lệnh của ngài.”

“Vậy là một nhà phân tích nói rằng có một quả bom bên trong Núi Đền có thể phá sập toàn bộ cao nguyên này, và anh bảo tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc tin cô ta.”

“Vâng, thưa Thủ tướng.”

“Anh có biết sự việc sẽ ra sao nếu phía Palestine phát hiện ra Gabriel và Eli đang ở trong đó không?”

“Có thể có người bị tổn thương,” Navot nói. “Và Mùa xuân Ả Rập sẽ về trên đất Jerusalem.”

Thủ tướng chăm chú nhìn vào màn hình video trong chốc lát rồi gật đầu chấp thuận. Navot nhanh chóng truyền lệnh đến Gabriel. Vài giây sau, ông nghe thấy âm thanh bốn cú nện thật mạnh vào tường.

Alef, Bet, Gimel, Dalet....

Và thế là xong.

Từ kho chứa đồ, Gabriel và Lavon đã lấy một cây búa tạ, một cái cuốc chim, hai cuộn dây nylon, hai chiếc mũ bảo hộ gắn đèn halogen, và bất cứ công cụ cầm tay nào nhỏ nhỏ mà họ có thể tìm thấy để tháo gỡ bom. Trước khi đội chiếc mũ bảo hộ, Lavon đội mũ chỏm kippah lên trước. Gabriel cởi áo vest, cà vạt, và bao súng đeo vai. Khẩu SIG Sauer 9 ly mà Alois Metzler đã giao cho ông giờ đây được giắt sau thắt lưng, ông bật micro của máy radio nhỏ lên để Navot có thể nghe thấy mọi hơi thở và bước đi của ông.

Sau khi đập vỡ lớp phong tỏa bằng xi măng, họ bước vào một lối đi có mái vòm chạy qua phần móng của Bức tường phía Tây và dẫn vào Núi Đền. Những viên đá lát trên con đường cổ xưa trơn nhẵn tựa thủy tinh. Mỗi năm ba lần - vào ngày lễ Pesach, Shavuot, và Sukkot - các tín đồ Do Thái từ những vương quốc xa xưa của Israel đã từng rảo bước trên những phiến đá này hướng về Đền thờ. Ngay cả Gabriel, người đang bận trí về nhiều chuyện khác ngoài lịch sử, cũng mơ hồ cảm nhận được sự hiện diện của các bậc tiền nhân, còn Eli Lavon thì vội vàng lao vào màn đêm, hơi thở dồn dập vì nỗi phấn khích.

“Hãy nhìn lớp phủ trên đá này,” ông nói, lướt bàn tay men theo bức tường lạnh lẽo dọc lối đi. “Những thứ này chỉ có thể thuộc thời Vua Herod.”

“Chúng ta không có thời gian ngắm nghía mấy phiến đá đâu,” Gabriel nói, chọc chọc cán cuốc vào lưng giục Lavon đi tiếp.

“Rất có thể anh và tôi sẽ là những người Do Thái cuối cùng từng đặt chân đến đây.”

“Nếu quả bom phát nổ thì chắc chắn sẽ là như thế.”

Lavon bước nhanh hơn.

“Chính xác thì chúng ta đang ở đâu vậy?” Gabriel hỏi.

“Nếu ở trên mặt đất, thì chúng ta đang đi qua Cổng Bóng Đêm hướng thẳng về mặt phía đông của ngôi đền Mái vòm của Đá.” Lavon dừng lại rồi xoay chiếc đèn pha trên mũ về phía hai cột trụ bằng đá. “Đó là kiến trúc kiểu Doric,” ông nói. “Chúng thuộc thời Vua Herod, chắc chắn luôn.”

“Đi tiếp đi, Eli,” vừa nói Gabriel vừa thúc nhẹ cán cuốc lần nữa.

Lavon nghe theo. “Khi đến cuối lối đi này,” ông nói, “sẽ có một hồ nước được phát hiện bởi Charles Wilson, nhà thám hiểm Thành Cổ Jerusalem vĩ đại người Anh.”

“Chính là cái tên trong Vòm Wilson.”

Đèn pha của Lavon gật gật thay cho câu trả lời khẳng định. “Theo Wilson, hồ nước dài hai mươi tám mét rưỡi, rộng năm mét rưỡi, và sâu mười mét. Sau đó, chúng ta sẽ thấy được một dãy cầu thang.”

“Và nếu thực sự có dãy cầu thang ở đó thì sao?”

“Thì chúng sẽ đưa chúng ta tới gần mặt đất hơn. Từ đó, ta có thể tìm lối vào hệ thống ống dẫn nước và hồ nước. Chúng ta biết được rằng chúng thông với nhau nhờ sự kiện Cổng Warren năm 1981. chúng ta chỉ cần tìm đúng đường dẫn.”

“Trước khi bom nổ,” Gabriel u ám thêm vào.

Họ tiến tới vài bước. Sau đó Lavon đứng sững lại.

“Gì vậy?”

Lavon bước sang một bên, để lộ một bức tường xám thô nằm chặn cuối lối đi.

“Điều gì đó mách bảo tôi rằng nó không thuộc thời Herod.”

“Không,” Lavon nói. “Theo ý kiến chuyên môn của tôi, nó là tác phẩm của người Palestine, xây dựng vào khoảng năm hai ngàn mười.

“Nó dày bao nhiêu?” Thủ tướng hỏi.

“Họ sẽ không biết được cho đến khi dùng búa đập nó,” Navot nói. “và khi họ bắt đầu nện búa...”

“Người Palestine có thể nghe thấy họ từ trên Núi Đền.”

Navot gật đầu.

Ngài Thủ tướng chỉ mất vài giây để đưa ra quyết định. “Bảo họ phá bỏ bức tường đó đi. Nhưng nếu đến hai giờ rưỡi họ vẫn chưa tìm thấy quả bom, tôi sẽ ra lệnh bắt giam imam Hassan Darwish và đánh mạnh từ trên.”

“Quân đội và cảnh sát Israel tới Núi Đền?”

Thủ tướng gật đầu đầy kiên quyết.

“Nếu làm như vậy,” Navot nói, “ngài sẽ gây ra cuộc bạo loạn thứ ba trong lúc mọi cặp mắt đều đang đổ dồn về chúng ta vì Đức Giáo hoàng.”

“Tôi nhận thức được điều đó, Uzi, nhưng thế còn tốt hơn khả năng kia.”

Navot lệnh cho Gabriel bắt đầu giáng búa.

Alef Bet, Gimel, Dalet....

Và họ chỉ làm cho bức tường hơi lõm vào một chút.

Cùng lúc đó, imam Hassan Darwish đang đứng trên phần tường phía tây chưa bị phá hủy của Núi Đền, nhìn chằm chặp xuống quảng trường không một bóng người bên dưới. Chuyện cảnh báo an ninh rất phổ biến ở Jerusalem, nhưng người Israel chỉ chặn lối vào thánh địa linh thiêng nhất của Do Thái giáo khi họ tin rằng sắp có cuộc tấn công nào đó. Có thể việc đóng cửa là kết quả của một mối đe dọa nào khác, nhưng Darwish nghi rằng không phải, ở đâu đó, bằng cách nào đó, âm mưu đã bị bại lộ.

Darwish quay người đi về phía Đền thờ Mái vòm của Đá. Như thường lệ, chỉ có phụ nữ và người già được phép vào khu Đền trong những buổi cầu nguyện ngày thứ sáu; Darwish chúc vài người trong số họ một buổi chiều tốt lành bằng lời chào bình an theo đúng phong tục trước khi hắn leo xuống Giếng Linh Hồn. Ở đó, hắn vượt qua cánh cửa bị khóa và men theo những bậc thang cổ xưa dẫn xuống trung tâm của Núi Đền. Một lát sau, hắn đã đứng ngay tại một trong những hồ nước lớn nhất ở Núi Đền, lắng nghe tiếng đập ầm ầm vọng lại từ xa.

Chỉ có một lời giải thích duy nhất cho âm thanh này.

Bọn người Do Thái đang đến.

Trong vòng năm phút, họ nện không ngừng vào bức tường, Lavon dùng búa tạ, Gabriel dùng cuốc chim. Gabriel phá thủng bức tường trước, tạo nên một lỗ hổng trên tường gạch có kích thước bằng một nắm tay. Ông lấy đèn ra khỏi chiếc mũ bảo hộ và rọi vào khoảng không phía trước.

“Anh nhìn thấy gì vậy?” Lavon hỏi.

“Một hồ nước.”

“Lớn cỡ nào?”

“Khó nói lắm, nhưng nó có vẻ dài khoảng hai mươi tám mét rưỡi và rộng khoảng năm mét rưỡi.”

“Còn gì nữa không?”

“Những bậc thang, Eli. Tôi có thể nhìn thấy những bậc thang.”

Chỉ huy an ninh của tổ chức Waqf Hồi giáo tại Jerusalem là một cựu chiến binh bốn mươi lăm tuổi thuộc cả hai lữ đoàn Fatah và quân Tử vì đạo al-Aqsa, tên là Abdullah Ramadan. Imam Darwish gọi di động cho gã và bảo gã đi đến hồ nước bên dưới Đền thờ Mái vòm của Đá. Hắn ta không phải giải thích về tiếng đập phá dưới đó.

“Ở Cổng Warren à?”

“Có thể,” Darwish đáp lời. “Hoặc có thể là một trong những cánh cổng mới mà chúng vừa tìm thấy trong cuộc khai quật bất hợp pháp của chúng.”

“Vậy ngài muốn tôi làm gì?”

“Hãy đem ba người lính tinh nhuệ nhất của anh xuống đây và tìm hiểu xem có phải bọn chúng đang cố tiếp cận Đền không.”

“Và nếu quả thực vậy?”

“Thì hãy trừng phạt chúng,” vị imam nói.

Ngài Thủ tướng nhìn chằm chặp vào đồng hồ treo tường trong phòng nội các. Bây giờ đã là 2:10. ông nhìn Navot và hỏi, “Cái lỗ chết tiệt đó bao lớn vậy?”

Navot hỏi Gabriel rồi lặp lại câu trả lời của ông cho Thủ tướng và các thành viên còn lại trong phòng nghe.

“Vẫn chưa đủ lớn.”

“Còn phải mất bao lâu nữa?”

Navot một lần nữa hỏi Gabriel.

“Họ không chắc lắm.”

“Bảo họ cần phải nhanh lên.”

“Họ đang cố gắng làm nhanh nhất có thể rồi, thưa Thủ tướng.”

“Bảo với họ đi, Uzi.”

Navot truyền đến họ lệnh thúc giục của Thủ tướng. Và rồi, sau khi nghe Gabriel trả lời, ông mỉm cười.

“Anh ta nói gì vậy?” Thủ tướng hỏi.

“Anh ta bảo mình đang cố gắng làm nhanh nhất có thể, thưa Thủ tướng.”

“Anh có đang nói thật với tôi không đấy, Uzi?”

“Không, thưa Thủ tướng.”

Thủ tướng không muốn mà vẫn mỉm cười và liếc nhìn đồng hồ.

Đã 2:12.

Đến 2:15, lỗ hổng được nới rộng với đường kính dài khoảng ba mươi phân, và đến 2:20 thì lỗ hổng vừa đủ lớn cho vai và hông một người mảnh khảnh. Gabriel lách mình qua trước, làm cánh tay bị trầy xước đôi chút, Lavon cũng nhanh chóng leo qua. Sau khi đội lại chiếc mũ chỏm kippah và mũ bảo hộ lên đầu, trong phút chốc ông bỗng đứng đờ ra như tượng, kinh ngạc không nói nên lời. Trước mặt họ là hồ nước, và bên trên nó là dãy cầu thang đầu tiên thời Vua Herod, dẫn vào bóng đêm vô tận.

“Chỉ có một lý do để hồ nước này tồn tại ở nơi đây,” Lavon nói, nhúng tay mình xuống làn nước của hồ chứa dài hình chữ nhật. “Đây là nghi thức thanh tẩy mikvah. Họ sẽ làm lễ gột rửa trước khi tiến đến Đền Thánh.”

“Những thông tin này rất thú vị, Giáo sư, nhưng chúng ta cần đi tiếp.”

“Ít nhất cho tôi chụp vài bức ảnh đã.”

“Chúng ta sẽ dừng lại trên đường quay ra.”

Lavon đi men theo rìa hồ nước và phóng lên những bậc thang đầu tiên, tia sáng từ chiếc đèn trên mũ ông chiếu loang loáng lên tường, lên mái vòm của lối đi. Lên đến đỉnh cầu thang, ông lại một phen sững sờ. “Nhìn này!” ông nói, tay chỉ vào mấy dòng chữ Hebrew khắc trên tường. “Nó nói rằng những người không phải dân Do Thái bị cấm ra vào Đền Thánh. Nhưng tại sao lại có bảng cấm nếu như ban đầu Đền Thánh không tồn tại kia chứ?”

Đó là một câu hỏi hợp lý, nhưng ngay lúc này, tâm trí của Gabriel đang ở một nơi khác. Ông đang tự hỏi tại sao bốn gã Ả Rập lớn xác tay cầm đèn pin lại đang bước xuống phía họ từ dãy thang kế trên. Thế rồi viên đạn đầu tiên sượt ngang qua lỗ tai ông bỏng rát, và ông đã có câu trả lời. Có vẻ người anh em láng giềng đã nghe thấy tiếng đập thình thình lúc nãy. Thật không có gì đáng ngạc nhiên, Gabriel thầm nghĩ. Máu không bao giờ ngủ yên.