← Quay lại trang sách

Chương 46 NÚI ĐỀN, JERUSALEM

HANG ĐỘNG LỚN cỡ một phòng tập thể dục học đường. Nghiêng đèn pha chĩa lên trời, Gabriel thấy các chùm đèn thô sơ giăng mắc trên mái hang và một sợi dây điện trườn như rắn trên vách hang xuống đến công tắc điện công nghiệp, ông bật công tắc, và ánh đèn sáng choang soi tỏ cả khoảng không gian rộng lớn.

“Lạy Chúa tôi,” Eli Lavon hít mạnh. “Anh có thấy chúng đã làm gì không?”

Có, Gabriel thầm nghĩ, lướt bàn tay lên bề mặt trơn nhẵn như gương của bức tường vừa mới cắt xong, ông quả thực có thể thấy những việc chúng đã làm. Chúng đã khoét một lỗ lớn trong trái tim ngọn núi của Chúa và biến nó thành viện bảo tàng riêng chất đầy mọi hiện vật khảo cổ từng khai quật được trong suốt những năm tháng xây dựng khinh suất và khai quật bí mật - các phiến đá lớn, cột và đầu cột, đầu mũi tên, mũ áo giáp, những mảnh gốm, và các đồng tiền xu. Giờ đây, vì những động cơ mà ngay cả Gabriel cũng không thể hiểu nổi, imam Hassan Darwish dự định cho nổ tung mọi thứ - và chôn vùi Núi Đền theo nó.

Trong thoáng chốc, Eli Lavon dường như đã quên bẵng quả bom. Mê mẩn, ông chậm rãi đi qua các hiện vật, hướng về phía hai dãy cột song song vỡ nứt là trung tâm khu vực triển lãm. Dừng lại, ông nhìn vào la bàn.

“Chúng được đặt theo hướng đông - tây,” ông nói.

“Cũng giống như Đền Thánh?”

“Đúng,” ông nói. “Cũng giống như Đền Thánh.”

Lavon rảo bước về cuối phía đông dãy cột, chạm vào thân cột một cách thành kính, và rồi bước thêm vài bước. “Hẳn đây là chỗ đặt bàn thờ,” ông nói, chỉ tay về khoảng không gian trống ở rìa hang động. “Bên cạnh bàn thờ hẳn là yam, một bồn nước lớn bằng đồng thau để các linh mục gột rửa trước và sau mỗi buổi tế lễ. Sách Các Vua chương bảy đã mô tả rất chi tiết. Theo đó, bồn nước được đúc rộng mười cubit tính từ mép này đến mép kia và cao năm cubit. Bồn kê trên mười hai con bò.”

“Ba con hướng về phía bắc,” Gabriel nói, trích dẫn Thánh Kinh, “ba con hướng về phía tây, ba con hướng về phía nam, ba con hướng về phía đông, và bồn đặt trên lưng chúng.”

“Phía thân sau của chúng xoay vào nhau,” Lavon tiếp lời, đọc nốt đoạn Kinh Thánh. “Có mười bể nước nhỏ khác dùng để gột rửa tế vật, nhưng yam được dành riêng cho các linh mục. Người Babylon đã nung chảy nó khi họ đốt Đền Thánh thứ nhất. Và hai trụ đồng lớn đứng sừng sững ngay tại lối ra vào của ulam, khoảng sân hiên, cũng chịu cùng số phận.”

“Một nằm ở bên phải và một nằm ở bên trái,” Gabriel nói.

“Cột bên phải được gọi là Jachin.”

“Và cột bên trái là Boaz.”

Gabriel nghe thấy tiếng rè rè trong tai nghe, sau đó là giọng của Uzi Navot.

“Chúng tôi đang cố gắng đến chỗ các anh nhanh nhất có thể,” Navot nói. “Cảnh sát và IDF đã tiến vào khu Núi Đền thông qua các cổng phía đông. Họ sẽ đối mặt với sự kháng cự từ phía lực lượng an ninh của Waqf và những người Ả Rập đổ ra từ Đền thờ al-Aqsa. Tình hình trên này đang trở nên khá xấu.”

“Mọi chuyện sẽ còn tệ hơn nhiều nếu quả bom phát nổ.”

“Đội gỡ bom sẽ đến trong đợt thứ hai.”

“Mất bao lâu nữa, Uzi?”

“Một vài phút.”

“Hãy tìm cho ra Darwish.”

“Chúng tôi đang tìm hắn rồi.”

Khi Navot im lặng, Gabriel nhìn Lavon, ông này đang chăm chú nhìn lên mái hang.

“Jachin và Boaz đều có phần đầu cột trang trí họa tiết hoa huệ và quả lựu,” Lavon nói. “Đã có một cuộc tranh cãi nổ ra giữa các học giả về vấn đề liệu rằng hai cột trụ này đứng riêng rẽ hay chúng giúp nâng đỡ phần rầm và mái đền. Tôi luôn tán đồng giả thuyết thứ hai. Suy cho cùng, tại sao Vua Solomon lại xây một sân hiên trong ngôi nhà của Chúa và không cho nó mái che?”

“Anh cần ra khỏi đây ngay, Eli. Tôi sẽ ở đây với quả bom cho tới khi đội gỡ mìn tới.”

Lavon làm như thể mình không nghe thấy điều đó. Ông trang nghiêm tiến về trước hai bước, như thể đang đi vào Đền Thánh.

“Cánh cổng dẫn từ khoảng sân ulam đi vào heikhal, hay sảnh chính của Đền Thánh, được làm từ gỗ cây linh sam, nhưng các cột cổng lại làm từ gỗ cây ô liu. Cột cổng đã bị thiêu cháy khi Nebuchadnezzar châm đuốc đốt Đền Thánh thứ nhất.” Lavon ngừng lại và nhẹ nhàng đặt tay lên tàn tích còn sót lại của một cột trụ như vậy. “Nhưng ông ta không thể nào thiêu hủy những cột trụ này.”

Gabriel rảo bước ngang qua chiếc bàn chân rời chất đầy tiền xu cùng các vật dụng cổ xưa rồi lướt nhanh đến giữa hai cột trụ. Ông đặt tay lên một trụ và hỏi Lavon rằng chuyện gì đã xảy ra với chúng sau khi Nebuchadnezzar phá hủy Đền Thánh.

“Kinh Thánh không ghi chép rõ, nhưng chúng tôi luôn cho rằng người Babylon đã ném chúng ra khỏi tường thành của Núi Đền, xuống thung lũng Kidron.” ông nhìn Gabriel và nở nụ cười ảo não. “Nghe quen không?”

“Rất quen,” Gabriel đáp.

Lavon bước đến cột trụ tiếp theo. Nó cao khoảng hai mét rưỡi, và một bên đã sạm đen vì ngọn lửa. “Chúng lấy lửa mà thiêu hủy Đền Thánh của Người,” ông xướng lên, trích dẫn Thánh Thi chương 74, “chúng khiến nơi Người ngự trở nên ô uế.”

“Anh cần rời khỏi đây, Eli.”

“Rồi tôi sẽ đi đâu? Lên trên để đối mặt với bạo loạn sao?”

“Hãy quay lại những đường ống dẫn nước và trở về Đường hầm phía Tây.”

“Nhưng tôi biết phải làm gì nếu lỡ chạm mặt với một toán chiến binh của Saladin? Đánh trả chúng bằng cái cuốc của tôi như một chiến binh Thập Tự sao?”

“Cầm lấy súng của tôi này.”

“Tôi còn không biết làm gì với nó.”

“Anh từng ở trong quân đội, Eli.”

“Tôi chỉ là lính cứu thương thôi.”

“Eli,” Gabriel bực tức kêu lên, nhưng Lavon đã không còn lắng nghe nữa. Ông bước chầm chậm từ cột trụ này sang cột trụ khác, vẻ mặt pha trộn giữa sự kinh ngạc và tức giận. “Ắt hẳn họ đã lôi chúng ra khỏi thung lũng vào năm 538 trước Công nguyên, khi Đế quốc Ba Tư lệnh cho xây Đền Thánh thứ hai. Năm thế kỷ sau, khi Vua Herod cho tu sửa lại nơi này, có thể ông đã dùng chúng để hỗ trợ nâng đỡ khối kiến trúc, điều đó giải thích vì sao Waqf tìm thấy chúng khi khai quật quanh đây. Chúng to đến nỗi không thể mang vứt bừa vào bãi rác hoặc ném vào thung lũng Kidron lần nữa, vì vậy bọn chúng giấu hai cột trụ tại đây, cùng với tất cả mọi thứ vơ vét được từ ngọn núi.” Ông đảo mắt nhìn quanh hang động to lớn. “Dù chúng ta có thể mang những vật này ra ngoài, thì chúng cũng không còn đúng bối cảnh nữa. Cứ như thể chúng bị...”

“Đánh cắp,” Gabriel nói.

“Đúng rồi. Đánh cắp.”

“Chúng ta sẽ đem chúng ra ngoài, Eli, nhưng anh thực sự phải đi ngay bây giờ.”

“Tôi không thể bỏ mặc những cổ vật này ở đây được,” Lavon đáp. Ông cứ đi qua đi lại giữa các cột trụ, mặt hướng lên trời. “Các mô hình và tranh vẽ hiện đại mô tả Đền Thánh thứ nhất thường cho sảnh chính heikhal có mái che, nhưng thực tế không phải vậy. Sảnh chính là một khoảng sân lộ thiên, ba mặt đều có các gian phòng hai tầng. Và ở tận cùng phía tây của khối kiến trúc này chính là debir, nơi Cực Thánh, nơi cất giữ Hòm bia Giao ước.”

Lavon từ từ bước đến vị trí nọ vì Darwish đã chọn nó để đặt bom. Đây không phải một quả bom thông thường, Gabriel thầm nghĩ. Đây là cả Bức tường phía Tây đầy chất nổ, với dây kíp sẵn sàng và chực chờ phát nổ. Nếu nó chỉ là một quả bom nhỏ, Gabriel hẳn có thể tự tháo gỡ dưới sự chỉ dẫn của một công binh. Nhưng thế này thì không thể.

“Anh nghĩ sao bọn chúng có thể bố trí như vậy?”

“Tôi chắc rằng imam Darwish sẽ vui lòng nói chúng ta biết.”

Lavon chậm rãi lắc đầu. “Chúng ta quả là ngu ngốc khi để chúng nắm quyền kiểm soát cả khu vực này. Ai mà ngờ? Lẽ ra chúng ta nên cư xử như bất cứ đội quân nào khác từng chinh phục Jerusalem.”

“Phá bỏ Đền thờ Mái vòm của Đá và al-Aqsa sao? Rồi cho xây lại Đền Thánh? Anh thật sự đâu có tin đó là điều đúng đắn nên làm, Eli.”

“Không,” Lavon thừa nhận, “Nhưng những lúc thế này, tôi được phép tưởng tượng sự tình sẽ diễn biến thế nào khi đó.”

Gabriel nhìn đồng hồ đeo tay.

“Còn bao nhiêu phút nữa?”

“Nếu như Dina đúng...”

“Dina luôn luôn đúng,” Lavon nói xen vào.

“Chỉ còn hai mươi lăm phút nữa,” Gabriel nói. “Và đó là lý do vì sao anh cần phải ra khỏi đây ngay.”

Lavon quay lưng lại với quả bom và giơ đôi tay về phía dãy cột. “Trước đây không có bất kỳ một hiện vật nào được chứng thực là của Đền Thánh thứ nhất và thứ hai. Không hề. Đó là lý do vì sao các nhà cầm quyền Palestine có thể thuyết phục dân chúng tin rằng Đền Thánh chỉ là huyền thoại hoang đường. Và đó cũng là lý do chúng giấu nhẹm những cột trụ này trong một cái hang sâu năm mươi mốt mét dưới lòng đất.” Lavon nhìn sang Gabriel và mỉm cười. “Và đó là nguyên nhân vì sao tôi quyết không rời khỏi ngọn núi này cho đến khi chắc rằng những cột trụ được an toàn.”

“Mấy thứ này chỉ là đá thôi, Eli.”

“Tôi biết,” Lavon đáp. “Nhưng chúng là đá của tôi."

“Anh thật sự sẵn sàng chết vì chúng ư?”

Lavon im lặng trong chốc lát. Rồi ông quay sang Gabriel. “Anh có một cô vợ xinh đẹp. Có lẽ một ngày nào đó anh sẽ có một đứa con kháu khỉnh. Rồi một đứa con kháu khỉnh nữa” ông nói tiếp. “Còn tôi... những cột đá này là tất cả những gì tôi có.”

“Anh là người anh trai thân thiết nhất của tôi trên đời này, Eli. Tôi sẽ không bỏ anh lại đây.”

“Vậy chúng ta sẽ cùng chết chung,” Lavon nói, “ở ngay đây, trong ngôi nhà của Chúa.”

“Tôi cho là còn những nơi tồi tệ hơn để chết.”

“Ừ,” Lavon đáp. “Tôi cũng cho là vậy.”

Vào thời điểm đó, tại lối ra của khối kiến trúc ẩn sâu trong lòng đất được xây dựng theo lệnh của hắn, imam Hassan Darwish đang đứng nghe tiếng hai tên Do Thái trò chuyện bằng ngôn ngữ cổ của chúng. Darwish nhận ra cả hai. Một là nhà khảo cổ học Kinh Thánh trứ danh Eli Lavon, người chuyên chỉ trích tổ chức Waqf và những dự án xây dựng của nó. Tên còn lại, với đôi mắt màu xanh lục cùng thái dương điểm bạc, chính là Gabriel Allon, kẻ sát nhân chuyên giết hại các anh hùng Palestine. Darwish gần như không tin được vận may của hắn. Sự xuất hiện của hai gã này khiến nhiệm vụ của hắn chông gai hơn. Nhưng nhờ đó mà hành trình về Thiên Đường của hắn sẽ ngọt ngào hơn nhiều.

Vị imam dời mắt khỏi hai người đàn ông và liếc nhìn thiết bị nổ được đặt trong đống đổ nát của Đền Thánh thứ nhất của người Do Thái. Cái gã có biệt hiệu ông Farouk đã cài bộ phận điều khiển bằng tay vào kíp nổ để phòng tình huống như thế này và đã hướng dẫn Darwish cách kích hoạt nó. Chỉ cần gạt nhẹ công tắc.

Đúng lúc đó, Darwish chợt nghe tiếng giày huỳnh huỵch trong các đường ống. Có vẻ bọn Do Thái đã phá được vòng phòng ngự của Waqf. Lịch sử đang cố gắng tự tái diễn lần nữa. Nhưng lần này sẽ khác, Darwish nghĩ. Lần này, những ngôi đền linh thiêng của Hồi giáo sẽ không rơi vào tay của bọn ngoại đạo, như khi quân Thập Tự Chinh bao vây Jerusalem năm 1099. Lần này sẽ khác. Chỉ cần gạt nhẹ công tắc.

Tên imam khép mắt lại và, trong tâm tưởng, đọc thầm đoạn Đao Binh trong kinh Koran: “Hãy chiến đấu và giết chết những kẻ vô thần bất cứ nơi nào ta bắt gặp chúng, hãy giam cầm chúng, công kích chúng, hãy nằm chờ thời cơ phục kích chúng, bằng mọi mưu lược của chiến tranh.” Sau đó hắn xông vào bảo tàng Do Thái cổ và nổ súng.

Phát đạn đầu tiên trúng cột trụ cổ, làm vụn đá vôi nóng rẫy bắn vào má Gabriel. Khi ngẩng nhìn lên, ông thấy Hassan Darwish đang chạy ngang hang động, gương mặt hắn méo mó đi vì nỗi thù hằn tích tụ từ đức tin và lịch sử cùng hàng ngàn những nỗi ô nhục lớn nhỏ khác. Lập tức, Gabriel giương súng và lao về phía tên imam trong khi đạn sượt ngang tai ông. Ông nổ súng như hồi tập bắn dưới Tòa Thánh Vatican, nã đạn liên hồi không ngừng nghỉ, cho đến gương mặt của tên imam không còn gì nữa. Và rồi khi quay sang bên, ông thấy Eli Lavon ngã gục trên mặt đất, cánh tay đang ôm choàng lấy chân của một cột trụ. Gabriel ấn lòng bàn tay mình lên vết thương trên ngực Lavon và ôm chặt lấy người bạn khi sự sống dần rời khỏi đôi mắt ông. “Đừng chết, Eli,” ông thì thầm. “Chết tiệt, Eli, xin anh đừng chết.”