PHẦN BỐN CHA THA TỘI CHO CON Chương 47 JERUSALEM
TRONG VÒNG MỘT giờ đồng hồ kể từ khi quân Israel xông vào cao nguyên Núi Đền, cuộc bạo loạn thứ ba đã nổ ra trên khắp các vùng lãnh thổ Palestine thuộc Bờ Tây và dải Gaza. Thoạt đầu, lực lượng an ninh vũ trang hạng nặng của chính quyền Palestine đã cố kiểm soát bạo động. Nhưng khi hình ảnh các toán quân Israel ở Núi Đền lan nhanh như lửa cháy khắp thế giới Ả Rập, cánh dân quân đã gia nhập bọn nổi loạn và đấu súng với quân đội Israel. Ramallah, Jericho, Nablus, Jenin, và Hebron cùng chứng kiến thế trận nảy lửa, nhưng cuộc đụng độ tệ hại nhất lại diễn ra ở Đông Jerusalem, nơi mà vài ngàn người Ả Rập đang cố gắng chiếm lại Núi Đền nhưng thất bại. Lúc hoàng hôn, khi tiếng còi báo hiệu lễ Sabbath Do Thái vang lên, ngôi đền linh thiêng thứ ba của Hồi giáo đã nằm dưới sự kiểm soát của Israel, và Trung Đông dường như chông chênh bên bờ vực chiến tranh.
Vua nước Jordan, hậu duệ trực tiếp của Đấng tiên tri Muhammad, yêu cầu quân đội Israel ngay lập tức rút khỏi Núi Đền, nhưng ngài không đi đến nước kêu gọi dùng bạo lực hòng đánh đuổi người Israel. Tuy vậy, ở Cairo, sự việc lại diễn biến trái ngược. Tại đó, tổ chức Huynh đệ Hồi giáo, lãnh đạo mới của đất nước đông dân nhất vùng Ả Rập này, đã kêu gọi mở một cuộc thánh chiến Hồi giáo để trả thù rửa nhục. Hamas, một nhánh trực thuộc Huynh đệ Hồi giáo, đã lập tức dội một loạt tên lửa lên Beersheba và một số thành phố khác của Israel khiến mười người Israel phải thiệt mạng. Thế nhưng, kỳ lạ thay, tổ chức Hezbollah lại không hề có động tĩnh gì, cả những lãnh đạo Hồi giáo Shiite ở Tehran cũng vậy.
Một trong những thách thức mà các viên chức Israel phải đối mặt trong suốt những giờ giao chiến đầu tiên chính là sự hiện diện của Đức Thánh Cha, Giáo hoàng Paul VII. Bởi giờ đây Thành Cổ Jerusalem đã trở thành khu vực chiến sự, ngài buộc lòng phải trú ẩn trong một tu viện ở Ein Kerem, trước đây là ngôi làng Ả Rập nằm chếch về phía tây của khu trung tâm Jerusalem, và theo truyện Kitô giáo, đây cũng là nơi sinh ra Thánh John Tẩy Giả. Theo yêu cầu của Thủ tướng Israel, Đức Giáo hoàng đã miễn cưỡng đồng ý hủy bỏ đại lễ Thứ bảy Tuần Thánh ở núi Bát Phúc, cùng với các thánh lễ Chủ Nhật Phục Sinh tại Nhà thờ Mộ Thánh. Tiếc thay, Đức Thánh Cha không có lựa chọn trong vấn đề này. Mộ Thánh, nhà thờ Kitô giáo thiêng liêng mà Saladin từng muốn san bằng, là một trong những mục tiêu chính của cơn thịnh nộ Hồi giáo.
Rất nhiều người trong đoàn hộ tống Tòa Thánh van nài Đức Thánh Cha quay trở về mái nhà an toàn của Vatican, nhưng ngài vẫn cương quyết ở lại với niềm hy vọng sai lầm rằng sự có mặt của ngài có thể giúp xoa dịu tình hình. Ngài dành nhiều thời gian ở Trung tâm Y tế Hadassah, nằm cách tu viện không xa. Không cần phải nói, sự xuất hiện thường xuyên của Đức Giáo hoàng tại bệnh viện đã làm dấy lên suy đoán rằng ngài đã đổ bệnh hoặc bị thương vì bạo loạn. Nhưng đó không phải sự thật; ngài chỉ đơn giản là đang chăm sóc cho một linh hồn cần đến ngài.
Bệnh nhân được nói tới ở đây đã đến bệnh viện ngay từ những phút đầu tiên của cuộc chiến, thập tử nhất sinh với một viên đạn ghim thẳng vào ngực. Nhân viên được báo rằng tên ông là Weiss, không có thêm bất cứ thông tin gì ngoại trừ tuổi tác và tiền sử bệnh của ông, bao gồm nhiều chứng rối loạn vì căng thẳng. Mành che cửa sổ nơi ông nằm, nhìn ra phía đông hướng về những bức tường của Thành Cổ, vẫn luôn khép kín. Hai người lính vũ trang đứng gác bên ngoài căn phòng, một bên trái và một bên phải.
Đức Giáo hoàng không phải là nhà chức sắc duy nhất đến thăm người đàn ông bị thương này. Thủ tướng đến thăm ông, cả chỉ huy lực lượng IDF, quan chức cấp cao từ các cơ quan tình báo Israel, và vì một số lý do mà nhân viên bệnh viện sẽ không bao giờ được biết rõ, cả một phái đoàn lớn các nhà khảo cổ học từ trường Đại học Hebrew cùng Cơ quan cổ vật Israel cũng đến. Thế nhưng, có một người không bao giờ rời khỏi giường bệnh nhân, ông này không cố giấu đi danh tính của mình, vì đó là điều không thể - nhất là với hai bên thái dương lốm đốm bạc và màu mắt khó quên của mình.
Ông bỏ bê ăn uống và không chợp mắt chút nào. Khi một bác sĩ đề nghị ông ngả lưng và dùng ít thuốc an thần, người nọ đã bị ông ném cho một ánh mắt khó chịu. Sau đó, không một ai dám yêu cầu ông rời đi - kể cả vào đêm thứ hai, khi tim bệnh nhân ngừng đập trong hai phút kinh hoàng. Suốt hai mươi bốn giờ sau đó, người đi thăm bệnh này vẫn ngồi bất động cuối chân giường, gương mặt được thắp sáng bởi ánh đèn hắt ra từ máy thở, như thể ông là một nhân vật trong tranh Caravaggio. Thỉnh thoảng, các y tá vẫn nghe thấy ông khẽ thì thầm. Cứ lặp đi lặp lại. “Đừng chết, Eli. Chết tiệt, Eli, xin anh đừng chết.”
Vào buổi sáng ngày lễ Phục Sinh, tiếng chuông ngân từ các nhà thờ ở Jerusalem gần như không thể nghe được trên nền tiếng súng. Vào giữa trưa, một tên lửa Palestine thô sơ rơi xuống vườn Gethsemane, và lúc đầu giờ chiều, đạn xối lên bên ngoài Nhà thờ Dormition. Buổi tối hôm đó, Đức Thánh Cha buồn phiền đến thăm lấn cuối người bệnh vẫn đang hôn mê trước khi ngài lên máy bay về nước. Khi ngài ra về, một người đàn ông cao tuổi khác thế chỗ ngài, ông cũng là gương mặt mà các nhân viên trung tâm điều trị chấn thương đã biết, ông là người mà họ chỉ dám thì thầm nhắc tới sau lưng. Là người đã đánh cắp những bí mật giúp Israel chiến thắng thần tốc trong Chiến tranh Sáu Ngày. Là người đã tóm được Adolf Eichmann, kẻ cầm đầu gây ra nạn diệt chủng Holocaust, tại một góc phố của Argentina. Shamron...
“Anh cần về nhà nghỉ ngơi một chút đấy, con trai.” “Tôi sẽ nghỉ.”
“Khi nào?”
“Khi anh ấy mở mắt ra.”
Shamron xoay bật lửa Zippo giữa những ngón tay. Hai lần sang trái, hai lần sang phải.
“Ông phải làm vậy à, Ari?”
Những ngón tay của Shamron khựng lại. “Anh phải chuẩn bị cho khả năng bạn anh không tỉnh lại nữa.”
“Tại sao tôi phải làm thế?”
“Bởi vì khả năng đó rất cao. Anh ấy gần như đã mất cạn máu khi được chuyển lên bàn mổ. Tim anh ấy...”
Vẫn ổn.
“Nhưng nó không còn dẻo dai như trước,” Shamron nói. “Và tim anh cũng vậy, con trai à. Tôi sợ chuyện sẽ xảy ra nếu nó lại vỡ tan lần nữa.”
“Tôi đáng bị thế.”
“Sao anh lại nói vậy?”
“Lẽ ra tôi phải nghe thấy tiếng Darwish đang đến gần.”
“Cả hai người đều đang xao nhãng, mà chuyện này cũng dễ hiểu thôi. Không phải ngày nào người ta cũng có cơ hội đi qua sảnh chính heikhal của Đền Thánh thứ nhất tại Jerusalem.”
“Ông có nghĩ những cột trụ đó là của Đền Thánh thứ nhất không?”
“Chúng ta biết thế,” Shamron nói. “Chúng ta chỉ đang chờ thời điểm thích hợp để cho toàn thế giới nhìn thấy chúng.”
“Tại sao phải chờ đợi?”
“Bởi vì chúng ta không muốn có bất kỳ động thái nào khiến tình hình tồi tệ hơn.”
“Có thể tệ hơn bao nhiêu nữa?”
“Có chín mươi triệu người Ai Cập. Thử tưởng tượng xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu bọn Huynh đệ Hồi giáo thuyết phục chỉ mười phần trăm trong số đó tham gia và giày xéo biên giới của chúng ta. Nếu quả bom đó thực sự phát nổ...” Giọng Shamron nhỏ dần. “Thật đáng sợ khi nghĩ tới việc chúng ta đã mấp mé bên bờ sinh tử đến nhường nào - hoặc sự tồn tại của chúng ta trên mảnh đất này mong manh ra sao.”
“Chúng ta định ở trên Núi Đền bao lâu?”
“Nếu tôi được quyền quyết định, thì chúng ta sẽ không bao giờ rời đi. Nhưng Thủ tướng dự định sẽ trao trả nó về tay Waqf ngay khi tất cả các tư liệu khảo cổ được chuyển đi an toàn.”
“Vậy chúng ta sẽ trở về vạch xuất phát?”
“Trừ phi thế giới Hồi giáo sẵn sàng chấp nhận quyền tồn tại của chúng ta, nếu không thì tôi e rằng cứ phân chia như cũ là điều tốt nhất mà ta có thể mong đợi.”
“Tôi muốn thay đổi một thứ, nếu như ông đồng ý với tôi.”
“Là gì vậy?”
“Massoud.”
Shamron mỉm cười. “Lần tới khi bom phát nổ dưới gầm xe của hắn, thì đó sẽ không phải một quả bom nhỏ đâu.”
Gabriel nắm lấy tay Lavon.
“Nếu anh ấy chết, Ari, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình.”
“Đó không phải lỗi tại anh.”
“Lẽ ra tôi nên ép anh ấy rời khỏi đó.”
“Không đời nào Eli chịu đi khi không biết chắc rằng những cột trụ được an toàn.”
“Chúng chỉ là đá thôi, Ari.”
“Chúng là đá của Eli,” Shamron nói. “Giờ đây chúng đã nhuốm máu của anh ấy.”