Chương 48 JERUSALEM
PHẢI BẢY MƯƠI HAI giờ sau, trật tự mới được lập lại đủ để Chính phủ Israel có thể trình bày đầy đủ trước toàn thế giới lý do vì sao họ lại xâm nhập Núi Đền, và những điều họ đã phát hiện ở đó. Để làm được chuyện này, họ tập hợp một nhóm các nhà báo và ê-kíp ghi hình từ những hãng tin quyền lực nhất thế giới và đưa họ đi xuyên qua hệ thống đường dẫn và hồ nước ngoằn ngoèo, xuống đến căn phòng vừa mới đào cách mặt đất năm mươi mốt mét. Ở đó chỉ huy lực lượng IDF sẽ chỉ cho báo giới thấy quả bom khổng lồ, trong khi người đứng đầu Cơ quan cổ vật Israel dẫn họ đi tham quan bộ sưu tập cổ vật hoành tráng đã được Waqf khai quật trong nhiều năm đào bới vô tội vạ. Điểm nhấn của chuyến tham quan chính là hai dãy cột trụ đá vôi, cả thảy hai mươi hai cột, vốn là một phần của sảnh chính trong Đền Thánh thứ nhất của Vua Solomon trên đất Jerusalem.
Quả đúng như dự đoán, thế giới phản ứng lẫn lộn trước tin tức này. Đoạn video ghi hình các cột trụ cổ xưa làm rúng động công chúng Israel và gây nên cơn địa chấn trong khắp cộng đồng khảo cổ học và sử học cổ đại. Hầu hết các học giả đều lập tức chấp nhận các cột trụ là thật, duy ở Đức có một vị đứng đầu ngành khảo cổ không tin Kinh Thánh (biblical minimalism) lên tiếng bác bỏ, cho rằng những cột trụ này chỉ là “hai mươi hai cột đá của hy vọng hão huyền”. Không lấy làm ngạc nhiên khi chính quyền Palestine vin vào câu phát biểu trên khi đưa ra phản hồi đáp lại các tin tức vừa qua. Họ phát biểu rằng những cột trụ là trò bịp bợm của Israel, và “cái gọi là bom” cũng là bịp nốt.
Nhưng điều gì đã đưa quân Israel đi vào Núi Đền? Và ai mới là kẻ chủ mưu cho kế hoạch đánh sập ngọn núi thiêng liêng này? Chính phủ Israel, dẫn lại chính sách luôn từ chối bình luận về những vấn đề liên quan đến việc thu thập thông tin tình báo, từ chối đi sâu vào chi tiết vụ việc. Nhưng khi những cột trụ lần lượt nổi lên từ lòng đất, thì các mặt báo cũng đăng hàng loạt câu chuyện nhằm rọi một thứ ánh sáng khuếch tán mờ nhạt lên chuỗi sự kiện bí ẩn đã dẫn tới khám phá bất ngờ của Israel.
Tờ nhật báo Le Monde có bài điều tra về một cử nhân Sorbonne tên David Girard, hay còn gọi là Daoud Ghandour, người đã cố vấn cho tổ chức Waqf về những vấn đề liên quan đến khảo cổ học và, theo lời các quan chức thực thi luật pháp giấu tên, là thành viên trong mạng lưới buôn lậu cổ vật trái phép có dây mơ rễ má với Hezbollah. Một câu chuyện trên nhật báo Neue Zurcher Zeitung kể về liên hệ giữa Iran với vụ đánh bom phòng tranh Galleria Naxos ở thị trấn st. Moritz. Và bài điều tra trên tuần san Der Spiegel đã liên hệ David Girard với Massoud Rahimi, kẻ cầm đầu khủng bố Iran, người từng bị bắt cóc một thời gian ngắn ở Đức. Điều khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết là chỉ mười hai ngày sau, Massoud Rahimi đã bị giết chết ở Tehran bằng mìn dính limpet được gài dưới gầm xe của hắn. Các nhà phân tích khủng bố trên truyền hình khá chắc chắn về người đứng đằng sau vụ ám sát và ý nghĩa của nó. Massoud chính là kẻ chủ mưu ở Núi Đền, họ tuyên bố, và phía Israel vừa đáp lại ân huệ đó.
Song báo chí không bao giờ biết đến nhiều tình tiết khác của câu chuyện, bao gồm chi tiết rằng vụ việc này mở đầu từ khi Gabriel Allon, đứa con bướng bỉnh của cục tình báo Israel, được triệu đến Vương cung thánh đường Thánh Peter để xem xét thi thể của một thiên thần bị ngã. Hay việc Gabriel đã ngồi lì hai tuần ròng cạnh giường bệnh của nhà khảo cổ học mà máu đã nhuộm thắm những cột trụ thuộc về Đền Thánh của Vua Solomon. Kết quả là, ông đã có mặt ở đó khi nhà khảo cổ học cuối cùng cũng mở mắt. “Rivka,” Eli Lavon thì thào. “Hãy đảm bảo rằng sẽ có người trông nom Rivka.”
Tối hôm đó, Jerusalem lần đầu chìm trong sự tĩnh lặng căng thẳng kể từ khi cuộc bạo loạn Núi Đền nổ ra. Gabriel đi đến Bệnh viện Tâm thần núi Herzl thăm Leah vài phút trước khi dùng bữa tối cùng Chiara tại một nhà hàng nằm bên trong khuôn viên Học viện Thiết kế và Nghệ thuật Bezalel. Sau đó, ông đưa nàng đi mua kem và cả hai cùng dạo mát trên đường Ben Yehuda.
“Donati đã gọi cho anh vào chiều nay,” đột nhiên nàng lên tiếng, như thể ý nghĩ đó vừa bật ra từ tâm trí nàng. “Ông ấy hỏi chừng nào anh quay về Rome để hoàn tất bức tranh Caravaggio và đối phó với Carlo.”
“Anh gần như quên khuấy cả hai.”
“Cũng dễ hiểu mà, anh yêu. Xét đến cùng thì anh đã cứu lấy Israel và cả thế giới khỏi cuộc quyết chiến Armageddon và còn tìm thấy hai mươi hai cột trụ trong Đền Thánh thứ nhất của Jerusalem.”
Gabriel mỉm cười. “Anh sẽ rời khỏi đây vào ngày mốt.”
“Em sẽ đi với anh.”
“Không được. Ngoài ra,” ông vội vàng nói thêm, “anh cần nhờ em một chuyện. Thực ra là hai.”
“Việc gì vậy?”
“Anh cần một ai đó chăm nom Eli cho đến khi anh quay lại.”
“Còn việc kia?”
“Chính phủ đã quyết định đặt các cột trụ vào một khu đặc biệt trong Bảo tàng Israel. Em sẽ là một thành viên trong đội phụ trách thiết kế nội thất của tòa nhà và cả khu triển lãm.”
“Gabriel!” Nàng thốt lên, dang tay ôm chầm lấy ông. “Làm thế nào mà anh sắp xếp được vậy?”
“Là một trong hai người có công tìm ra cột trụ, anh có một số ảnh hưởng nhất định. Thực ra, họ muốn lấy tên anh đặt cho khu triển lãm để vinh danh anh.”
“Thế anh đã trả lời họ sao?”
“Rằng khu triển lãm nên được đặt tên là Khu Eli Lavon,” ông nói. “Anh mừng là nó sẽ không mang tên Khu Tưởng niệm Eli Lavon.”
“Họ có thay đổi gì không?”
“Ý em là mấy cây cột sao?”
Chiara gật đầu.
“Em có nghe người Palestine nói gì về chúng chưa?”
“Mấy lời dối trá của bọn chủ nghĩa Phục quốc Do Thái.”
“Chối bỏ Đền Thánh,” Gabriel nói. “Họ không thừa nhận rằng chúng ta đã sống ở đây trước họ, vì thế nghĩa là chúng ta có quyền tiếp tục sống ở đây. Trong mắt họ, chúng ta vẫn là những kẻ xâm lược ngoại quốc, cần phải đánh đuổi, giống như quân Thập Tự Chinh.”
“Máu không bao giờ ngủ yên,” Chiara khẽ nói.
“Máu cũng không bao giờ thiếu,” Gabrriel đế thêm. “Những người bạn phương Tây của chúng ta luôn cho rằng mâu thuẫn giữa Ả Rập - Israel có thể giải quyết đơn giản bằng cách vẽ thêm một đường ranh giới trên bản đồ. Nhưng họ không hiểu gì về lịch sử. Thành phố này đã tồn tại trong tình trạng chinh chiến liên miên trong suốt ba ngàn năm. Và người Palestine sẽ tiếp tục gây chiến đến chừng nào chúng ta rời khỏi đây.”
“Vậy chúng ta phải làm gì?”
“Phải giữ chặt lấy,” Gabriel nói. “Vì lần tới nếu ta đánh mất Jerusalem, đó sẽ là mãi mãi. Và rồi chúng ta sẽ đi đâu về đâu?”
“Em cũng đang tự hỏi mình như thế.”
Trời đột nhiên trở lạnh. Chiara kéo áo khoác quấn mình chặt hơn và chăm chú nhìn nhóm thanh thiếu niên Israel đang cười đùa ở phía bên kia đường. Bọn họ chỉ mới mười sáu hoặc mười bảy. Trong một hay hai năm nữa, tất cả sẽ tham gia quân đội, trở thành chiến sĩ trong một cuộc chiến không hồi kết.
“Thật không dễ, phải không anh Gabriel?”
“Gì vậy?”
“Nghĩ đến việc rời khỏi đây vào một thời điểm như lúc này.”
“Đó là một dạng khác của Hội chứng Jerusalem. Nơi này càng tệ, em lại càng yêu nó hơn.”
“Anh yêu chốn này, đúng không?”
“Anh thật sự yêu nó hết lòng,” ông đáp. “Anh yêu màu sắc của đá vôi và bầu trời. Anh yêu mùi gỗ thông và cây bạch đàn. Anh yêu nó mỗi khi trời trở lạnh vào đêm. Anh thậm chí yêu cả tín đồ Do Thái mắng té tát vào mặt anh khi anh lái xe vào ngày lễ Shabbat.”
“Nhưng anh có yêu nó nhiều đến mức muốn ở lại?”
“Đức Thánh Cha nghĩ anh không có lựa chọn nào.”
“Anh đang nói về việc gì vậy?”
Gabriel kể nàng nghe về cuộc nói chuyện giữa ông và Đức Giáo hoàng bên lan can tường thành Vatican, khi người dẫn dắt một tỉ Kitô hữu thú nhận với ông rằng ngài đã thấy viễn cảnh Ngày Tận Thế. “Ngài cho rằng chúng ta đã đi lang bạt quá lâu rồi,” ông nói. “Ngài nghĩ rằng đất nước cần đến anh.”
“Đức Giáo hoàng đâu phải đợi chờ nơi phòng khách sạn, tự hỏi xem liệu anh có còn sống sót sau nhiệm vụ hay không.”
“Nhưng ngài ấy không sai.”
“Không, cho đến khi ta nói tới những chuyện của trái tim.” Chiara nhìn Gabriel một chốc. “Anh có biết sẽ ra sao nếu chúng ta sống ở đây không? Mỗi khi về đến nhà, Ari sẽ ngồi sẵn trong phòng khách của chúng ta.”
“Miễn là ông ấy không hút thuốc thì anh cảm thấy không sao cả.”
“Anh nghĩ vậy thật sao?”
“Ông ấy giống như cha của anh vậy, Chiara. Anh cần phải chăm sóc ông ấy.”
“Vậy khi Uzi cần anh làm vài chuyện vặt vãnh cho Văn phòng thì sao?”
“Anh nghĩ mình chỉ cần phải học ba từ này.”
“Ba từ nào?”
“Tìm người khác.”
“Rồi anh sẽ làm gì?”
“Anh sẽ đi tìm việc.”
“Ở đây quá tù túng.”
“Cái đó mà em còn phải nói anh sao.”
“Chúng ta cần đi đó đây, Gabriel.”
“Anh sẽ đưa em đi bất cứ nơi nào em muốn.”
“Em luôn muốn ngắm mùa thu ở Provence.”
“Anh chỉ biết mỗi khu làng.”
“Anh đã từng đến Scotland chưa?”
“Theo anh nhớ thì chưa.”
“Anh sẽ đưa em đi trượt tuyết một lần chứ?”
“Ở bất cứ đâu trừ thị trấn st. Moritz hay Gstaad.”
“Em nhớ Venice.”
“Anh cũng vậy.”
“Có lẽ Francesco Tiepolo có thể giao anh việc gì đó.” “Ông ta trả anh đậu phộng.”
“Em mê đậu phộng.” Nàng tựa đầu vào vai ông. Tóc nàng thơm mùi vani. “Anh có nghĩ nó sẽ kéo dài không?” nàng hỏi.
“Sự tĩnh lặng à?”
Nàng gật đầu.
“Trong một thời gian ngắn,” Gabriel nói, “nếu chúng ta may mắn.”
“Anh sẽ ở lại Rome bao lâu?”
“Anh nghĩ điều đó phụ thuộc hoàn toàn vào Carlo.”
“Chớ lảng vảng gần hắn ta nếu anh không mang súng trong túi.”
“Thực ra,” ông nói, “anh đang định cho Carlo tự đến tìm anh.”
Chiara rùng mình.
“Chúng ta nên đi thôi,” Gabriel nói. “Em sẽ bị cảm mất.”
“Không,” nàng nói, “em cũng yêu nó.”
“Cái lạnh về đêm à?”
“Cùng với mùi gỗ thông và cây bạch đàn,” nàng nói. “Mùi thơm giống như...” Giọng nàng nhỏ dần.
“Giống như gì hả, Chiara?”
“Như là nhà,” nàng nói. “Thật tốt làm sao khi cuối cùng được trở về nhà.”