TƯ TƯỞNG ĐẶC SẮC CỦA NGƯU ĐẦU THIỀN-
Ngưu Đầu thiền là hệ thiền của Pháp Dung, theo truyền thống được xem là đệ tử của Tứ tổ Đạo Tín. Do Pháp Dung trú ở núi Ngưu Đầu sơn ở tây nam Nam Kinh nên hệ thiền có tên là Ngưu Đầu thiền.
Trong các tư liệu hiện tồn, đề cập sớm nhất đến chuyện Đạo Tín truyền pháp cho Pháp Dung là "Nhuận Châu Hạc Lâm Tự Cố Kinh Sơn Đại Sư Bi Minh" do Lý Hoa soạn và "Ngưu Đầu Sơn Đệ Nhất Tổ Dung Đại Sư Tân Tháp Ký" của Lưu Vũ Tích (sau này Cảnh Đức Truyền Đăng Lục dựa viết theo), thời gian vào khoảng năm 750, tức cách năm Pháp Dùng qua đời khoảng một trăm năm. Nhưng Đạo Tuyên là người đồng thời với Pháp Dung (chết sau Pháp Dung mười năm), trong Tục Cao Tăng Truyện của Đạo Tuyên viết rất tường tận về Pháp Dung lại không thấy nói đến quan hệ giữa Tứ tổ Đạo Tín và Pháp Dung. Do vậy thuyết Ngưu Đầu là nhánh rẽ từ Đạo Tín cũng như hệ truyền thừa của Ngưu Đầu tông: Pháp Dung - Trí Nham - Huệ Phương - Pháp Trì - Tri Uy - Huệ Trung đều thiếu y cứ xác thực. Nhưng Pháp Dung và tư tưởng thiền học Ngưu Đầu thiền lại là sự thực lịch sử.
Ngưu Đầu thiền là một dòng thiền có tư tưởng bắt nguồn từ Không quán Bát-nhã. "Tuyệt quán luận" và "Tâm minh" là hai trước tác của Pháp Dung tiêu biểu cho tư tưởng Ngưu Đầu thiền thời kỳ đầu. Theo Thiền Môn Sư Tư Thừa Tập Đồ của Tông Mật thì Ngưu Đầu thiền dựa vào nền tảng tư tưởng Bát-nhã, đạt đến nhận thức vạn vật thế giới và xã hội nhân sinh như mộng như huyễn, trên cơ sở nhận thức này, cho rằng trong tu hành cần phải "táng kỷ vong tình" (mất bản thân, quên tình cảm). Đây là thông qua ngưng tâm tọa thiền làm cho tâm thức đạt đến cảnh giới khế hợp với không tịch, mất đi tự ngã, quên tất cả tình cảm dục vọng, như thế mới siêu thoát khổ nạn, đạt đến giải thoát.
Do phát triển ở Nam Triều là nơi Tam luận tông và Huyền học thịnh hành nên Ngưu Đầu thiền chịu ảnh hưởng hai học thuyết này rất lớn. Tuyệt quán luận của Pháp Dung quan niệm "hư không là bản nguyên (bản thể) của Đạo" (hư không vi đạo bản), cho rằng "quán thân thực tướng, quán Phật cũng vậy... thực tướng là Không tướng". Pháp Dung lại quan niệm "vô tâm hợp đạo", "vô tâm dụng công", vì Đạo là bản thể siêu việt tâm, vật chỉ có thể dùng trực quán thể ngộ. Tư tưởng này tương thông với chủ nghĩa thần bí của Trang Tử và thuyết "đắc ý vong ngôn" của Huyền học. Về mặt thiền pháp, Pháp Dung chú trọng "vô tâm tuyệt quán" hoặc "tuyệt quán vong thủ", cho rằng "vô niệm là vô tâm, vô tâm là chân đạo", vì thế lấy "táng ngã vong tình" làm mục tiêu tu hành. Điều này rất khác biệt với quan niệm tọa thiền quán tâm của Đông Sơn pháp môn, nhưng lại liên hệ sâu sắc với tư tưởng Huyền học.
Quyển Diệu pháp liên hoa kinh (kinh Pháp Hoa), bản đời Đường.
Chịu ảnh hưởng của Phật học phương nam, Ngưu Đầu thiền đưa ra tư tưởng "Đạo biến vô tình", "Vô tình thành Phật". Tam luận Đại sư Cát Tạng trong Đại Thừa Huyền Luận có nói: "Nếu chúng sinh thành Phật thì một cọng cỏ cũng thành Phật". Sau này Trạm Nhiên, người trung hưng Thiên Thai tông, đưa ra thuyết "Vô tình hữu tính", đây là Phật tính luận cho rằng không chỉ loài hữu tình mới có Phật tính mà loài vô tình như sông núi, thảo mộc, gạch đá... cũng có Phật tính. Hai câu "Thanh thanh thúy trúc tận thị pháp thân, Uất uất hoàng hoa vô phi Bát-nhã" (Trúc biếc xanh xanh hết thảy đều là Pháp thân, Lấp lánh cúc vàng chẳng phải không Bát-nhã) của Đại Châu Huệ Hải cùng biểu hiện tư tưởng đặc sắc của Ngưu Đầu thiền. Có thể thấy ảnh hưởng to lớn của Ngưu Đầu thiền với Phật giáo Trung Quốc.
Có thể nói, trong quá trình Trung Quốc hóa của thiền, Ngưu Đầu thiền đã đóng góp một vai trò quan trọng (biểu hiện chủ yếu ở phương diện Lão Trang hóa và Huyền học hóa).
CÔNG ÁN "CHẲNG PHẢI GIÓ, CHẲNG PHẢI PHƯỚN"Câu chuyện "chẳng phải gió, chẳng phải phướn" không thấy trong Đàn Kinh bản Đôn Hoàng là bản cổ nhất, nhưng có chép trong Lịch đại pháp bảo ký và Tào Khê đại sư biệt truyện, sau khi Huệ Năng viên tịch khoảng hơn nửa thế kỷ. Trong các bản khác của Đàn Kinh đều có chép câu chuyện này. Nếu đối chiếu với tư tưởng Phật giáo của Huệ Năng thì có thể xác định đây là chuyện có thật.
Theo thiền sử ghi chép, Hoằng Nhẫn sau khi truyền chính pháp và y bát cho Huệ Năng bảo quay về phương nam tạm thời ẩn cư đợi thời hoằng pháp. Huệ Năng sau khi về đến Tào Khê, Quảng Đông, ẩn cư giữa hai huyện Tứ Hội, Hoài Tập, nhập bọn với đám thợ săn. Hơn mười năm sau, Huệ Năng đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu, lúc đó pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn, do lá phướn treo bên ngoài vẫy phấp phới nên mấy vị tăng tranh luận. Một người nói: "Phướn là thứ không có sinh mệnh, tự nó không thể lay động mà do gió thổi nó mới động", người kia thì nói: "Gió và phướn cũng đều không có sinh mệnh, làm sao mà động được?", người thứ ba nói: "Phướn là vật do nhân duyên hòa hợp mà thành, do đó cái động của nó là cái động của nhân duyên hòa hợp", người thứ tư nói: "Phướn không động mà chính là gió đang động". Huệ Năng nghe đến chỗ này, không nhịn được mới xen vào nói với bọn họ: "Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà chính tâm của chư vị động!" Chúng tăng nghe xong hết sức ngạc nhiên. Ngày hôm sau, pháp sư Ấn Tông mời Huệ Năng đến đàm đạo, khi biết được Huệ Năng là đệ tử Hoằng Nhẫn thì hết sức kính trọng xin tôn làm thầy.
Huệ Năng, họ thế tục là Lư, người Tân Châu, Quảng Đông, thuở bé đã mất cha, về sau hai mẹ con di cư đến Nam Hải. Gia cảnh rất bần hàn, Huệ Năng lớn lên phải bán củi nuôi mẹ sống qua ngày. Một lần lên thành phố bán củi, Huệ Năng chợt nghe trong khách điếm có người đọc Kinh Kim Cương, nghe có phần lĩnh hội, mới hỏi thăm do đâu có được bộ kinh này thì vị khách đáp: "Tôi lễ bái Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai, Kỳ Châu, nghe Tổ khuyên đạo cũng như túc chỉ cần trì tụng một quyển Kinh Kim Cương thì có thể kiến tính, nhanh chóng thành Phật". Huệ Năng về nhà, lo liệu cho mẹ xong rồi lên đường đi Hồ Bắc đến bái kiến Hoằng Nhẫn. Câu chuyện này nói lên mối duyên giữa Huệ Năng và Kinh Kim Cương. Tư tưởng cốt lõi của Kinh Kim Cương là giảng về "Không", cho rằng thế giới vạn hữu đều do một niệm tâm sinh ra. Từ Tứ tổ Đạo Tín đã bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng Bát-nhã, do đó đến thời Huệ Năng, địa vị Kinh Kim Cương được nâng cao là điều rất tự nhiên. Điểm nổi bật của tư tưởng Phật giáo Huệ Năng là nhấn mạnh tự tâm: "Nên biết tất cả vạn pháp đều ở trong tâm của mình. Sao lại không từ tự tâm mà đốn hiện Chân như bản tính!" Đây có nghĩa là tất cả thế gian vạn hữu đều do tâm biến hiện ra, tự tâm cũng chính là Phật tính, khi nhận thức được tự tâm cũng chính là lúc thành Phật. Tư tưởng này không chỉ thống nhất với Kinh Kim Cương mà còn liên quan đến câu chuyện "chẳng phải gió, chẳng phải phướn" và tình cờ nghe Kinh Kim Cương lãnh ngộ.
.
Thế phát tháp ở chùa Quang Hiếu, Quảng Châu. Tháp này ở phía trước điện Lục tổ hình bát giác cao 7 m có 7 tầng, mỗi tầng có 8 kham thờ Phật. Tương truyền Huệ Năng xuống tóc làm tăng dưới cây Bồ-đề, vị sư chủ trì lễ thế phát lấy tóc chôn vào đất. Về sau xây ngọn tháp này ngay chỗ chôn tóc để tưởng niệm.
Trong câu chuyện gió phướn xảy ra ở chùa Pháp Tính, Huệ Năng sau khi phủ nhận gió động, phướn động đã chỉ rõ là do "tâm động", từ đó kết luận thực chất của vấn đề là ở "tự tâm". Điều này cho thấy Huệ Năng đã đưa Đông Sơn pháp môn phát triển thêm một bước lớn với tư tưởng thiền học mới, đặc sắc và hoàn chỉnh. Thiền Đạt-ma chủ yếu thể hiện tư tưởng chủ nghĩa duy tâm khách quan, Đông Sơn pháp môn do ảnh hưởng của tư tưởng Bát-nhã nên phát triển theo xu hướng chủ nghĩa duy tâm chủ quan, Huệ Năng nhấn mạnh địa vị Kinh Kim Cương, sắc thái chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại càng rõ rệt.