← Quay lại trang sách

QUAN HỆ CỦA GIỚI SĨ ĐẠI PHU ĐỜI ĐƯỜNG VỚI THIỀN TÔNG

Nho gia Chu Tất Đại đời Tống có nói: "Từ đời Đường đến nay, Thiền học ngày càng thịnh, nhân sĩ tài trí, thường đều xuất hiện từ trong giới này" Những văn nhân sĩ đại phu đời Đường như Nhan Sư Cổ, Lý Tử Xa, Hàn Dũ, Nhan Chân Khanh, Vương Duy, Vương Bột, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích... ít nhiều đều giao du với giới Phật học, trong đó hơn một nửa đã bái thiền sư các phái làm thầy để tu tập thiền định.

Nhà thơ Vương Duy, người được tôn xưng là vị "thi Phật", từng kết giao với thiền sư Đạo Quang ở chùa Đại Tiến Phúc, "mười năm ngồi dưới, tuân theo thụ giáo", và nhận lời mời của Thần Hội, viết bài văn bia "Lục Tổ Năng Thiền Sư Bi Minh". Liễu Tông Nguyên trong thời kỳ ở Liễu Châu thường giao du với thiền sư, bia văn của các vị đại đức ở phương nam một thời đa số đều do ông viết. Lưu Vũ Tích kết giao rộng rãi với nhiều thiền sư ở Hoành Sơn, Ngưu Đầu Sơn, Dương Kỳ Sơn, ông chủ trương tư tưởng thống nhất thiền giáo "phương tiện không ngoài giáo, kinh hành không phế thiền" phù hợp với yêu cầu dung hợp nội bộ Phật giáo đương thời. Trương Thuyết giỏi văn từ, nhiều văn kiện quan trọng của triều đình đều do ông viết, cũng kết giao thâm mật với nhiều thiền sư, soạn nhiều bài tượng tán, kinh tán và bi minh. Bạch Cư Dị tuy nói theo Đạo giáo nhưng cũng có hứng thú đối với Phật giáo, giao du với thiền tăng. Trong năm Khai Nguyên, Đỗ Phủ cũng theo trào lưu đương thời trở thành tín đồ Thiền tông, sau khi vào Tứ Xuyên mới chuyển qua Tịnh độ tông. Bùi Hưu trong năm Đại Trung đời Đường Tuyên Tông giữ chức Binh bộ thị lang thăng lên làm Tể tướng, ông là một chính trị giá có tư tưởng cải cách kiên quyết, và cũng là một tín đồ nhiệt thành của Thiền tông. Từ thời trung niên, ông bỏ ăn mặn, trừ diệt thị dục, biết cư trai giới, thắp hương tụng kinh, trở thành đệ tử tại gia đắc ý của Hoàng Bá Hi Vận. Quyển Ngữ Lục của Hoàng Bá "Truyền Tâm Pháp Yếu" chính do ông thu tập biên soạn và viết bài tựa. Ông còn giao hảo rất thân thiết với Tông Mật, lý giải thấu triệt tư tưởng Tông Mật, vì vậy nên Tán Ninh có nói: "Có Tông Mật thì có Bùi Hưu tướng quốc, ngoài tướng quốc thì ai có thể thấu hiểu được Tông Mật" (Tống Cao Tăng Truyện, quyển 6).

Tình hình tham thiền phổ biến trong giới sĩ đại phu đời Đường có liên quan với sự hưng khởi của thiền Nam tông sau loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh. Trước cuộc đại loạn này, vương triều nhà Đường ở trong thời kỳ cực thịnh, cuộc sống giàu sang xa hoa, không ưu tú lo lắng, điều kiện ngôn luận tự do, đường công danh rộng mở khiến cho bầu không khí tươi sáng, mãn nguyện tự hào bao trùm toàn xã hội. Giới văn nhân sĩ đại phu tràn đầy tự tin nơi sự nghiệp lớn, ôm nhiệt tâm lập nên sự nghiệp. Trong một xã hội như vậy, sức lôi cuốn của thế giới ở bờ bên kia của Phật giáo chỉ có sức thu hút chủ yếu ở tầng lớp dân lao động, đối với giai cấp thượng tầng xã hội, Phật giáo cũng chỉ là một thứ trang sức để điểm tô thêm phong nhã.

Tượng Phật mạ vàng ở Thanh Châu.

Thiên Vương cầm cây cung, đời Đường.

Cuộc đại loạn An Sử đã khiến giới văn nhân sĩ đại phu bừng tỉnh khỏi giấc mộng ngọt ngào, những lý tưởng đẹp đẽ sụp đổ, những hoài vọng nhiệt tâm tan như bọt nước. Với thất vọng vô hạn, họ đã tìm đến Thiền tông để trốn thoát hiện thực, tìm sự yên ổn cho tinh thần. Sinh hoạt của Thiền tông không yêu cầu tọa thiền, cũng không khổ hạnh, không cần tụng kinh, lại được ngao du sơn thủy, nghe tiếng suối chảy, nhìn ngắm mây bay, không ràng buộc thúc ép, tự do tự tại, đây chính là cảnh giới mà họ mong muốn. Trong mắt của văn nhân sĩ đại phu, nó cũng không khác gì với cuộc sống cao nhã, quy ẩn thích ý, tự nhiên vô vị của Lão Trang. Do vậy, trong sử chép, sau năm Thiên Bảo, đa số thi nhân gửi gắm tư tưởng tình cảm vào chốn thiền, còn thiền tăng thì "dùng kinh điển Nho gia ứng tiếp với Nho sĩ", điều này cũng tự nhiên. Cũng có một số người bỏ hẳn Nho môn, xuất gia làm tăng, như Kinh Khê Trạm Nhiên, Khuê Phong Tông Mật, Mã Tổ Đạo Nhất, Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Đan Hà Thiên Nhiên, Vân Môn Văn Yển..., những người này về sau đều trở thành những bậc tông sư lừng lẫy của Thiền tông.