← Quay lại trang sách

CÔNG ÁN THIỀN -

Công án" nguyên nghĩa chỉ văn thư phán quyết đúng sai của quan phủ, Thiền tông mượn từ này để chỉ cho ngôn hành mẫu mực của Tổ sư tiền bối, dựa vào đó lãnh hội chân nghĩa của thiền. Theo nghĩa rộng, phàm tất cả những ngữ cú kiến giải của Tổ sư Thiền tông khi "thượng đường" hoặc "tiểu tham" đều là công án; cơ phong vấn đáp giữa thầy và đệ tử và toàn bộ ngữ lục, kệ tụng của thiền sư cũng đều là công án.

Công án còn được gọi với tên khác là "thoại đầu" hoặc "cổ tắc". Hoàng Bá Hi Vận trong "Truyền Tâm Pháp Yếu" có nói: "Đã là đại trượng phu, thì phải khán công án!" Có thể thấy, từ "công án" Phật giáo ngay từ cuối đời Đường đã xuất hiện, nhưng công án được ứng dụng rộng rãi trong sinh hoạt tham thiền của thiền tăng là vào thời Ngũ Đại, đầu Tống. Trong Bích Nham Lục, bài tựa của Tam Giáo lão nhân có nói: "Công án được đề xướng vào đời Đường, thịnh vào đời Tống, đến nay vẫn còn". Hi Vận phản đối thiền tăng đọc tụng kinh điển nhưng lại chủ trương nghiên tập công án, sự thực là đưa công án lên đến địa vị ngang hàng với kinh Phật. Thiền tông cho rằng, có lãnh hội được tông chỉ Thiền tông hay không, phải lấy công án để đối chiếu. Do đó, công án là tư liệu để nghiên cứu tư tưởng Tổ sư và cũng là chuẩn tắc để phán đoán đúng sai của thiền tăng đương thời.

Công án Thiền tông có số lượng nhiều vô kể, trong đó được lưu truyền rất rộng là công án "Dã áp tử thoại" (Vịt trời) được thư lục vào Bích Nham Lục (tắc 53): "Mã đại sư cùng Bách Trượng dạo vườn, thấy vịt trời bay qua. Đại sư hỏi: Là cái gì vậy? Bách Trượng đáp: Vịt trời. Đại sư hỏi: Bay đến chỗ nào vậy? Bách Trượng đáp: Bay đi rồi. Đại sứ bèn véo mạnh mũi Bách Trượng, Bách Trượng đau quá la lên. Đại sư nói: Có bao giờ từng bay qua đâu?" Công án thông thường khá giản lược, nhưng ngôn ngữ thâm huyền, rất khó lãnh hội, thường tạo nhiều khó khăn khi dùng để giáo học. Do vậy người đời sau mới dùng hình thức "tụng cổ" để giải thích, giúp người học nắm được ý nghĩa đại để. Phần Dương Thiện Chiếu viết bài tụng cho công án trên như sau: "Vịt trời bay mất lại hỏi tăng, Muốn truyền tâm ấn phó tâm đăng, Ứng cơ chỉ đáp không di động, Liền nắm cương tông đạo được tăng". Vịt trời bay đi là chuyện bình thường, nhưng Mã Tổ lại hỏi, chính là muốn trong câu hỏi này truyền "tâm đăng" (đèn tâm) cho Bách Trượng. Bách Trượng đáp câu hỏi đầu "vịt trời" là đúng, vì chỉ sự vật trước mắt. Mã Tổ hỏi tiếp "bay đến chỗ nào" thì đã không còn chỉ con vịt nữa mà là hỏi tâm ở chỗ nào, Bách Trượng đáp "bay đi rồi" nghĩa là tâm theo vịt trời bay đi, do đó Mã Tổ phải véo mũi để Bách Trượng chỉnh lại kiến giải sai lầm.

Bích họa Quan Âm nghìn mắt nghìn tay của chùa Hoa Nghiêm ở Đại Đồng, Sơn Tây.

Một công án khác, Triệu Châu thị chúng nói: "Đạo tột cùng không khó, chỉ đừng phân biệt. Vừa có ngôn ngữ liền có phân biệt chọn lựa, có rõ ràng minh bạch. Lão tăng không ở chỗ minh bạch, các ông còn bảo hộ tiếc giữ nó hay không?" Lúc này một vị tăng hỏi: "Đã không ở trong chỗ minh bạch thì bảo hộ tiếc giữ cái gì?" Triệu Châu đáp: "Ta cũng không biết".Vị tăng nói: "Hòa thượng đã không biết, thì sao lại nói không ở trong chỗ minh bạch?" Triệu Châu đáp: "Vấn sự đã xong, lễ bái rồi lui". Đây cũng là công án được đưa vào Bích Nham Lục (tắc 2). Triệu Châu Tòng Niệm là đệ tử của Nam Tuyền Phổ Nguyện, pháp tôn của Mã Tổ Đạo Nhất, công án này tương đối dễ giải thích. Triệu Châu nói: "Đạo tột cùng không khó, chỉ đừng phân biệt" ("Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch", trích từ bài Tín Tâm Minh của Tam tổ Tăng Xán) là nói pháp tắc căn bản của thiền. Ngôn ngữ văn tự là chọn lựa phân biệt, là một loại tri thức phân biệt, do đó Triệu Châu nói: Ta không ở trong chỗ minh bạch, tức là không có thị phi, phân biệt đối với thế giới.

Trong Bích Nham Lục có đoạn ghi chép đối thoại giữa Triệu Châu và Nam Tuyền, cũng nói về vấn đề này. Nam Tuyền nhân gặp Triệu Châu hỏi: "Thế nào là Đạo?" Nam Tuyền đáp: "Bình thường tâm là Đạo". Triệu Châu hỏi: "Có thể hướng đến hay không?" Nam Tuyền nói: "Nghĩ đến tức là trái". Triệu Châu nói: "Không nghĩ làm sao biết Đạo?" Nam Tuyền nói: "Đạo không thuộc biết, cũng không thuộc không biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thực đạt đến Đạo bất nghi thì như thái hư thênh thang bao la, há nói cưỡng là đúng sai sao?" Triệu Châu nghe xong liền đại ngộ. Triệu Châu đã dùng khai thị của thầy để truyền thụ cho đệ tử của mình, vị tăng hỏi cũng không đơn giản: Đã không ở trong chỗ minh bạch thì bảo hộ tiếc giữ cái gì? Ông đã không minh bạch, không biết, sao lại còn thuyết pháp với chúng tôi? Triệu Châu đành phải đáp: "Ta cũng không biết. Vị tăng lại nắm lấy câu này, vì "không biết" là đối đãi với "biết", cũng là một loại tri thức phân biệt, nên lại truy tiếp: Ông đã không biết, thì sao lại nói không ở trong chỗ minh bạch? Triệu Châu đành phải nói chỉ vì có người hỏi nên không thể không nói.

Thời trước, khi công án chưa định hình, thầy và đệ tử thường tùy cơ đưa ra thoại đầu, cơ phong ứng đối rất kịch liệt, sống động. Nhưng sau khi công án đã định hình, thầy và đệ tử thường chỉ xoay quanh một số công án hữu hạn, trở thành một kiểu "Thiền công án" khô cứng, máy móc, thực tế đã chặn lấp đạo lộ phát triển của thiền.

KHÁN THOẠI THIỀN

"Khán thoại thiền" còn gọi là "Khán thoại đầu", là một phương thức vận dụng công án độc đáo của Thiền tông hậu kỳ. Người đề xướng là đại sư Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163) thuộc phái Dương Kỳ.

Trước Tông Cảo, thông thường các thiền sư lấy công án giải thích trực tiếp, nhưng Tông Cảo cho rằng, trực tiếp từ công án không thể thấy được diện mạo chân thực của Tổ sư, mà cần phải lấy ra một vài câu điển hình trong công án làm "thoại đầu" (tức là đề mục) để tham cứu. Mục đích của phương thức này là phải "chặn đứng cái dụng của tư lượng phân biệt", "quét sạch tri giải", kết quả là "như sen nở hoa, như mây tan thấy trăng". Đây thực chất là phản ứng đối với "Văn tự thiền" đang thịnh hành đương thời. Tông Cảo phản đối mổ xẻ nội dung công án trên phương diện ngôn ngữ văn tự, chủ trương thể nghiệm thần bí nội tỉnh, mang tính chất chủ nghĩa phi lý tính. Tông Cảo cho rằng: "Câu có thể giải thích là câu chết, câu vô giải mới là câu sống".

"Thoại đầu" phổ biến nhất của Khán thoại thiền thường là những câu sau: "Trước khi cha mẹ sinh ra, bản lai diện mục như thế nào?", "Người niệm Phật là ai?", "Con chó có Phật tính không?" v.v... Ở đây trình bày giản lược về thoại đầu cuối, câu này có từ công án liên quan đến Triệu Châu Tòng Niệm, thấy sớm nhất trong quyển Truyền Tâm Pháp Yếu và Triệu Châu Ngữ Lục, về sau được đưa vào Vô Môn Quan, Thung Dung Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên. Trong Truyền Tâm Pháp Yếu chép: "Một vị tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tính hay không? Triệu Châu đáp: Không (Vô). Chỉ khán một chữ "Vô" suốt ngày đêm! Tham ngày tham đêm, lúc đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo ăn cơm, đại tiểu tiện... Ngày lâu tháng dài kết thành một khối, hốt nhiên huệ tâm lập tức phát, ngộ ra có Phật, Tổ..." Khán thoại thiền phát huy tư tưởng này, bất luận công án có liên quan với hiện tại hay không, cũng không tham cứu nội dung của công án, chỉ rút lấy chữ "Vô" của Triệu Châu để tham.

Theo Tông Cảo, then chốt của Khán thoại thiền là "nghi", chẳng hạn như đại nghi chữ "Vô", "đại tử nhất phiên" - chết một trận với nó để rồi sau đó sống lại đại triệt đại ngộ. Tông Cảo nói: "Nghìn nghi vạn nghi chỉ là một nghi, phá nghi được thoại đầu thì nghìn nghi vạn nghi liền được phá lập tức". Thiền sư Vô Môn Huệ Khai đời Tống soạn quyển Vô Môn Quan, đưa công án chữ "Vô" của Triệu Châu làm tắc thứ nhất. Huệ Khai cho rằng, "Vô" là cửa ải thứ nhất của tông môn, nếu xuyên qua được một chữ "Vô" này thì không chỉ gặp Triệu Châu mà còn có thể nắm tay cùng đi với Tổ sư các đời. Huệ Khai nói: "Vận ba trăm sáu mươi đốt xương, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông của toàn thân để khởi lên mối đại nghi, tham một chữ Vô, ngày đêm không rời. Đừng hiểu là hư vô, đừng hiểu là hữu vô, như nuốt phải cục sắt nóng, muốn nhổ mà nhổ không ra. Vứt sạch cái ác tri ác giác từ trước, lâu ngày thuần thục, tự nhiên trong ngoài kết thành một khối, như kẻ câm nằm mộng, chỉ tự biết một mình, đột nhiên bộc phát, kinh thiên động địa... ở bờ sinh tử đạt được đại tự tại". Điểm này hoàn toàn thống nhất với ý kiến Tông Cảo. Đối tượng của "nghi", là vô số hiện tượng sai biệt của thế giới khách quan. Kết quả của tham cứu chữ Vô là đạt được cảnh giới bất khả ngôn thuyết, thoát khỏi sinh tử, đạt đến "đại tự tại".

Pháp khí bằng bạc Cát tường như ý.

Ngũ Đài Sơn, bích họa Đôn Hoàng.

Thiền tông quan niệm bản chất của thế giới là Vô, Vô tuyệt đối (là phi hữu, nhưng cũng không phải là "vô" theo nghĩa thông thường). Cái Vô này siêu việt tất cả nhưng cũng bao hàm tất cả, do đó nó là cứu cánh của thiền, đồng đẳng với Tâm, Phật, Chân Như. Đối với câu hỏi "Con chó có Phật tính hay không?" Đáp là Vô, thì chữ Vô này siêu việt cái hữu, là cái Vô ở cảnh giới tuyệt đối. Theo lập trường của Thiền tông, vạn vật vũ trụ là hư vọng, siêu việt đối lập mà tồn tại, sinh tử cũng vậy, nhưng thế nhân lại cho rằng sinh tử là đối đãi, do đó không thể nào được giải thoát. Ở cảnh giới Vô sẽ không có vô số những sai biệt đối đãi. Rất hiển nhiên, nguyên tắc căn bản của Khán thoại thiền là muốn thiền tăng kiên định lập trường chủ nghĩa duy tâm, cho rằng chỉ trong sự vô ý thức thống nhất tuyệt đối vô chủ thể nhận thức, vô thế giới khách quan, vô mâu thuẫn đối lập, vô sinh tử sai biệt, mới có thể đạt được "đại tự tại". Do đó, dù Tông Cảo đề xướng Khán thoại thiền nhằm phản đối Văn tự thiền và Mặc chiếu thiền, với ý đồ khôi phục ưu thế bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm của Thiền tông sơ kỳ, nhưng thực chất cũng tiếp tục đưa thiền vào chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa phi lý tính.

MẶC CHIẾU THIỀN

Đồng thời với Tông Cảo đề xướng "Văn tự thiền", Chính Giác đưa ra một loại thiền pháp khác, gọi là "Mặc chiếu thiền". Chính Giác là một nhân vật trọng yếu thuộc Tào Động tông đời Tống, trụ trì chùa Thiên Đồng ở Minh Châu hơn 30 năm nên được gọi là Thiên Đồng Chính Giác. Chiếu thiền là thiền pháp lấy "tĩnh tọa khán tâm" làm căn bản.

Chính Giác cho rằng, tâm là bản giác của chư Phật, diệu linh của chúng sinh, nhưng do tích tập che mờ nên cách biệt với chư Phật. Nếu tĩnh tọa mặc chiếu, trừ bỏ tất cả vọng duyên huyễn tập thì sẽ hiển lộ cái diệu linh viên minh thanh tịnh. Chinh Giác đề xướng Mặc chiếu thiền trên cơ sở tư tưởng này. Chinh Giác nói, Mặc chiếu thiền "chẳng có ngôn ngữ gì, mà chỉ là lặng im tĩnh mặc", "hướng vào trong đó mà ức đoán, hư mà linh, không mà diệu" (Thiên Đồng Chính Giác Thiền Sư Quảng Lục), thông qua tĩnh tọa mặc chiếu để thể ngộ tâm thể hư linh không diệu. Mặc chiếu thiền cho rằng, "mặc mặc vong ngôn, chiêu chiêu hiện tiền" (tịch lặng quên lời, sáng rõ ngay trước) là chính đạo để tham ngộ, chỉ cần tĩnh tọa nhập định, khép mắt trầm tư minh tưởng sẽ phát sinh tri huệ Bát-nhã. Theo hướng Chính Giác vạch ra, đến thời Thiên Đồng Như Tịnh, Mặc chiếu thiền được phát triển thêm một bước. Chính Giác cho rằng, tham thiền là thân tâm thoát lạc, chỉ cần tọa thiền là tương kiến chư Phật, không cần thắp hương, lễ bái, niệm Phật, đọc kinh, nên phương pháp tu tập của Như Tịnh luôn rất chú trọng tọa thiền.

Mặc chiếu thiền của Chính Giác bị Tông Cảo đả kích rất mạnh. Tông Cảo cho rằng "vong tình mặc chiếu" nghịch lại tông chỉ đốn ngộ của Thiền tông, không thể chuyển mê thành ngộ: "Hiện nay có một kẻ ngoại đạo cạo trọc đầu, mắt nhìn không rõ, dạy người ta chỉ nghỉ đi, ngừng đi... Lại dạy tùy duyên quảng đới, vong tình mặc chiếu. Chiếu tới chiếu lui, đới qua đới lại, càng thêm mê muội, không có ngày dứt. Sai lạc phương tiện Tổ sư, chỉ thị lầm lẫn, dạy người hướng vào hư sinh lãng tử" (Đáp Trịnh Thị Lang). Tông Cảo lại nói: "Bọn tà sư dạy sĩ đại phu nhiếp tâm tĩnh tọa, việc gì cũng đừng lo quản, cứ nghỉ đi, ngừng di, há chẳng phải lấy tâm mà nghỉ tâm, lấy tâm ngừng tâm, lấy tâm dụng tâm sao? Nếu tu hành như thế, làm sao không rơi vào cảnh giới đoạn kiến thiền tịch của ngoại đạo và nhị thừa, làm sao hiển lộ được tự tâm minh diệu thụ dụng, cứu cánh an lạc, như thực thanh tịnh, giải thoát biến hóa?" (Đáp Trần Thiếu Khanh). Tông Cảo cho rằng nhiếp tâm tĩnh tọa chỉ rơi vào cảnh giới thiền tịch đoạn kiến của ngoại đạo và nhị thừa (Thanh căn, Duyên giác), mà không thể đạt đến sự "minh tâm kiến tính", loại thiền pháp không cầu diệu ngộ, chỉ cần tĩnh tọa này tuy đơn giản nhưng nguy hại không ít, đối với giới sĩ đại phu lại càng có hại.

Khán thoại thiền và Mặc chiếu thiền thể hiện sự đối lập về phong cách và tư tưởng giữa Lâm Tế tông và Tào Động tông trong nội bộ Thiền tông đời Tống. Tào Động tông không chỉ thừa tập tư tưởng hệ Thanh Nguyên, Thạch Đầu mà còn có bối cảnh lập tông và quá trình diễn biến tư tưởng riêng. Mặc chiếu thiền chú trọng quán tâm, khán tâm, ngưng trụ bích quán, phản ánh xu thế hồi quy về Đạt-ma thiền của Tào Động tông đời Tống, về mặt hình thức thì gần với thiền Bắc tông hệ Thần Tú. Tuy xung đột gay gắt về phong cách và tư tưởng Thiền học, nhưng trong quan hệ cá nhân thì Tông Cảo và Chính Giác lại là đạo hữu tốt với nhau. Chính Giác lúc sinh tiền từng trợ giúp Tông Cảo giải quyết vấn đề lương thực cho tăng chúng, sau khi Chính Giác qua đời, Tông Cảo theo di ngôn làm chủ táng sự, viết bài tán ca ngợi Chính Giác.