Chương 2 Phường Cơ Xá, cậu bé cứu người không quản lũ
Núi Quán Sơn, chàng trai giúp bạn chẳng màng công
Đỗ Thành, chàng trai có khuôn mặt trái xoan, vầng trán rộng, đôi mắt sáng rực, cao tới bảy thước sáu tấc, sinh trưởng trong một gia đình nho học ở đất kinh kỳ. Cha của chàng làm nghề gõ đầu trẻ, tuy không đỗ đạt khoa cử nhưng rất nổi tiếng trong vùng, nguyên do trong khoa thi năm Bính Dần (1266) có hai vị đậu Thái học sinh từng học thầy hồi nhỏ. Có cha dạy học nên từ thuở lên năm Đỗ Thành đã ê a Tam tự kinh “Nhân chi sơ, tính bản thiện”.
Vậy mà cậu chẳng chí thú học chữ theo nếp nhà như tâm nguyện của cha. Vốn bản tính nhanh nhẹn tháo vát, thích bay nhảy nghịch ngợm hơn là gò lưng trên chiếu đồ chữ nho, thời niên thiếu Thành đã không ít lần bị cha phạt roi bởi những trò phá phách tinh quái cùng lũ trẻ trong xóm. Nhà ở phường Cơ Xá ven sông Hồng, vào mùa cạn bãi sông là nơi cậu cùng chúng bạn chia phe đấu đá theo kiểu “cờ lau tập trận” như Đinh Bộ Lĩnh thời xưa. Quần thảo đất cát chán chê rồi cả bọn lại rủ nhau ra chỗ nước nông vẫy vùng thỏa thích, nên từ nhỏ cậu đã giỏi bơi lặn.
Phường Cơ Xá trước kia là làng An Xá vốn trong phạm vi thành Đại La, tương truyền khi nhà Lý dời đô về Thăng Long đã cho di chuyển cả làng đến chân đê sông Hồng để lấy đất xây kinh thành. Do thiếu đất làm ruộng, cư dân Cơ Xá chủ yếu sống bằng việc trồng dâu nuôi tằm và làm các nghề thủ công, lại có nhiều thế hệ hấp thụ lối sống nền nã của người phố thị nên cái sự ăn ở và sinh hoạt cũng tươm tất, sáng sủa hơn hẳn những thôn làng khác trong vùng. Vì không làm nông nghiệp nên chẳng biết từ đời nào người ta đã quen gọi Cơ Xá là phường, giống như các phường thợ, phường buôn ở kinh thành.
Nhưng do ở gần sông thành ra cư dân Cơ Xá hay phải chạy lụt, trong mười năm có đến hai trận vỡ đê và một trận nước dâng cao vượt qua mặt để đổ vào phường như thác lũ. Cái cơ cực vì lụt lội thì cả phường cùng chịu, nước ngập không phân biệt giàu nghèo, nỗi khổ đồng hạng tự nhiên thành đỡ khổ, cho nên bao năm nay người ta vẫn vui sống mà chẳng ai muốn dời nhà đi chỗ khác.?
Bởi vì sự kiếm ăn dễ, thôi thì được thứ này mất thứ kia, người Cơ Xá chấp nhận ở cái chỗ thỉnh thoảng thừa nước còn hơn đến chỗ khô ráo mà thiếu ăn quanh năm. Kinh tế dư dật một tí thời người ta nghĩ tới chuyện kiếm cho con em cái chữ. Đương nhiên nhà ông đồ họ Đỗ là đích ngắm đầu tiên của các bậc cha mẹ nằm mơ thấy con ngâm nga đọc sách dưới bậu cửa thánh hiền.
Sở dĩ tiếng tăm của ông thầy họ Đỗ nổi như cồn vì một lần cả phường chứng kiến quan Ngự sử trung tán Trịnh Quý Đường ngồi kiệu đến thăm thầy cũ. Nhìn vị trọng thần mũ áo xênh xang quỳ lạy thầy trên bậc thềm khiến ai cũng cảm động về nghĩa thầy trò. Họ càng khâm phục hơn nữa trước cử chỉ của thầy khi một mực không nhận cái lễ của trò, mà còn khiêm nhường nói:
– Xin đại nhân chớ có vậy, kẻo tôi hổ thẹn lắm. Chữ của tôi dạy chỉ ở bậc sơ đẳng, có thấm tháp gì so với công rèn đúc mấy mươi năm đạo lý thánh hiền của ngài.
Quan Ngự sử đáp:
– Bẩm thầy, con nhận dù chỉ một chữ cũng đội ơn thầy một đời. Huống hồ ở dưới mái nhà này con đã được thầy dạy dỗ hơn ba năm.
Hồi đấy Đỗ Thành mới lên năm, nấp sau cây cột nghe cha và ông quan lớn nói chuyện mà chẳng hiểu cho lắm, nhưng cậu vẫn cảm nhận được cái việc học chữ để thành tài sao mà tốn nhiều thời gian đến thế.
Hằng ngày, bất kể mưa hay nắng, lúc ít thì năm đứa, lúc đông thì tới mười đứa trẻ gò lưng trên hai chiếc chiếu được trải ở giữa nhà, rồi theo hiệu lệnh của thầy mà đồng thanh đọc chữ bằng cái lối ngâm nga như thầy chùa tụng kệ. Ông đồ ngồi ghế cao, tay lăm lăm thanh tre, phải đứa nào ngủ gật hoặc đọc sai thì thể nào cũng bị cái que của thầy khỏ cho mấy cái vào đầu. Chẳng biết có phải từ lối dạy học bằng roi của ông thầy ở Cơ Xá hay vì một nguyên cớ nào khác mà từ đó người ta gọi công việc của thầy đồ dạy con nít là nghề “gõ đầu trẻ”. Cũng may nhờ cách dạy nghiêm khắc của Đỗ sư phụ nên lắm học trò khi trưởng thành tuy chẳng đỗ trạng, đỗ nghè nhưng chí ít cũng bỏ được tật nói ngọng cố hữu. Trong số đám trẻ mài đũng quần trên chiếu, tất nhiên có Đỗ Thành, cậu con cả của thầy, vốn được ông rất kỳ vọng về con đường hoạn lộ mai sau.
Lâu nay dân gian vẫn cho rằng làm thầy đồ dạy học cho đám trẻ ranh hỉ mũi chưa sạch thời chẳng thể giàu, nhưng ở Cơ Xá thì khác. Cái nhà ngói năm gian của ông thầy họ Đỗ cũng bề thế không kém nhà phú hào trong phường. Nhà ngói vững chãi hơn nhà gianh, vì thế cái mái ngói của ngôi nhà trở thành nơi bấu víu sinh mạng của cả gia đình mỗi khi Nhị Hà trở chứng dâng nước thúc vỡ đê. Và dụng cụ cứu hộ thường trực trong nhà không gì khác ngoài cái thang tre cao tới mái. Mỗi năm vào mùa lũ, chẳng cần biết nước sông đầy hay vơi, ông đồ đem thang ra dựa vào mái rồi chằng dây cột cho khỏi nghiêng đổ. Nếu cơ sự ập đến bất ngờ, dù ông có nhà hay vắng nhà, thì lớn bé trong nhà ai cũng có thể tự leo lên mái mà thoát nạn. Cũng từ chuyện lụt lội mà cậu bé Đỗ Thành đã một lần thể hiện tính cách dũng cảm khi xả thân cứu người trong cơn hồng thủy của hà bá. Để rồi nhiều năm sau cái duyên nợ sinh tử ấy đã cột chặt vào tâm hồn tinh khiết của chàng trai tuấn kiệt vốn thề nguyền một đời tận trung báo quốc.
Mùa thu năm đấy lũ về nhiều làm bục đê, phường Cơ Xá ngập đỏ, nước sông tràn vào nhấn chìm ngõ xóm, nhà cửa, người và vật bồng bềnh trôi dạt. Cả một vùng điêu linh, tiếng than khóc dội vào thinh không đầy vơi nỗi niềm thống thiết.
Cha vắng nhà, Đỗ Thành khi ấy mới mười hai tuổi đã kịp cùng mẹ và hai em gái trèo lên mái ngói an toàn. Trời ngả chiều, nước dâng đến rìa mái thì dừng, thấy các em kêu đói, cậu mong nước rút vài thước để lặn vào nhà tìm mấy củ khoai lang chất dưới gầm giường cho bốn mẹ con ăn lót dạ. Bất chợt có tiếng thều thào vọng lại “Ai cứu mẹ con tôi với”. Cách nhà cậu chừng mười trượng có người thiếu phụ một tay ôm đứa con gái nhỏ xíu, một tay quàng vào thân cây chuối đang bồng bềnh chới với giữa biển nước.
Chẳng kịp nghĩ ngợi gì, Đỗ Thành tụt khỏi mái, nhảy ào xuống nước mặc tiếng kêu thất thanh của mẹ: “Thành con, cẩn thận, cẩn thận”. Cậu sải tay bơi đến chỗ nạn nhân, rồi níu lấy cây chuối vừa bơi vừa đẩy về phía nhà mình. Nước không còn chảy xiết nhưng cậu chỉ là đứa trẻ con nên phải vùng vẫy bằng toàn bộ sức lực mới đưa được thân chuối tới mái ngói. Thấy con thoát hiểm lại cứu được người, mẹ cậu mừng rỡ dò dẫm tụt xuống giúp kéo bị nạn lên nóc.?
Người mẹ trẻ chưa hết kinh hoàng, nói thều thào trong nước mắt: “Đội ơn cháu cứu mạng. Đa tạ, đa tạ…”. Cô bé con ngước đôi mắt tròn xoe nhìn ngắm Đỗ Thành, tuy chưa biết nhận thức về sự việc vừa xảy ra, nhưng hình như khuôn mặt dễ ưa của cậu trai đã làm cho nó có cảm giác gần gũi. Sợ đứa trẻ bị cảm lạnh, bà mẹ của Thành xin bế, lấy vạt áo của mình ủ ấm cơ thể bé gái.
Nghe vợ kể ngọn ngành hành vi dũng cảm cứu người của cậu con trai, ông thầy đồ suy nghĩ mông lung lắm. Thân ông tài đức chẳng bằng ai nên đánh tan mộng quan trường, được mụn con nối dõi thì từ lâu ông đã ấp ủ ước mơ rèn giũa cho nó thành kẻ sĩ trong thiên hạ để mai sau đỗ đạt khoa bảng đem vinh hiển về cho gia đình, tộc họ. Vậy mà khốn khổ thay, ông dạy người khác thành tài còn dạy con lại chẳng nên nổi. Là đứa trẻ thông minh nhưng nó chẳng thích chữ nghĩa bằng những việc động chân động tay. Mới từng ấy tuổi mà đã sớm bộc lộ phẩm chất nam nhi chân chính, dám bất chấp hiểm nguy để làm việc nghĩa. Tính cách này giống trang hiệp sĩ cứu nạn giúp người, vậy cứ gò ép nó vào con đường nghiên bút thì có nên chăng? Giỏi chữ thánh hiền là điều đáng mừng, song trở thành người nghĩa hiệp cũng tốt lắm chứ. Đành vậy thôi, miễn đừng làm mẹ cha hổ thẹn là được.
Càng nghĩ càng hãnh diện về con, bằng tình phụ tử cao cả, ông đồ nương tay hơn với Thành trong việc học chữ và để cậu tự do phát triển chí hướng. Nghe con nói thích học võ, ông lặn lội khắp vùng kiếm cho nó thầy giỏi. Ngày Đỗ Thành ứng thí rồi được tuyển vào đội Túc vệ thượng đô, hai vợ chồng vui mừng khôn xiết. Ông bà vô cùng hãnh diện trước xóm giềng và hai đàng nội ngoại khi có con góp mặt trong đội quân bảo vệ hoàng thượng, đêm ngày túc trực canh giữ an nguy của Người.
Mẹ con góa phụ được cứu sống năm ấy vốn người họ Lương ở xóm Thượng, cách nhà Đỗ Thành chừng vài dặm. Cái ơn cứu mạng, họ ghi nhớ suốt đời nên mỗi dịp lễ tết đều mang quà sang biếu gia đình ông đồ, khi thì cặp bưởi, lúc chục trứng gà. Phụ mẫu Thành áy náy lắm, nhận hoài quà ơn nghĩa là việc không nên, nhưng từ chối không được đánh gửi quà đáp lễ, lúc thì giỏ cam, khi mảnh lụa trắng.
Từ đấy hai nhà qua lại thân mật trong cái sự “vô tâm” của nhân vật chính. Chẳng phải Đỗ Thành là người nhạt nhẽo, cái chính là chàng mải lo chuyện khác, họa hoằn gặp người mang ơn cũng chỉ trao đổi vài câu chiếu lệ mà không để lại ấn tượng gì đáng kể. Lúc niên thiếu thì mê say học võ nghệ, đến tuổi trưởng thành thì đầu quân túc vệ, một năm mới về nhà được dăm ngày nên chàng không hề hay biết về mối giao hảo của gia đình với mẹ con nhà nọ.
Một lần được về phép, lúc rảnh rỗi Thành đi loanh quanh xóm chợ xem người ta mua bán. Bất chợt nhìn thấy một thiếu nữ mặc áo lụa đào đang lựa chỉ màu trong hàng vải, khi nàng quay người lại, tự nhiên lòng chàng cứ xao xuyến không dứt trước vẻ đẹp thanh tú của người con gái. Chỉ là cái nhìn tình cờ mà khiến Đỗ Thành ngơ ngẩn cả hồn, đến nỗi đôi mắt liễu long lanh và cặp môi hồng tươi rói của cô nàng xinh đẹp cứ ám ảnh chàng ta từ tháng này sang năm khác.
Sau ngày Hưng Đạo Vương bị đánh lén ở đèo Tam Điệp, Quan gia lo lắng cho sinh mệnh của Tiết chế thống lĩnh quân đội, vì dù danh nghĩa là quan hệ quân thần nhưng trong nội tộc Vương là người bác họ được nhà vua rất nể trọng nên ngài quyết định biệt phái sáu dũng sĩ túc vệ tài giỏi nhất bổ sung vào đội ngũ bảo vệ Vương phủ. Đỗ Thành nằm trong số sáu người ấy. Rồi lần săn hổ bất thành ở vùng núi Quán Sơn, chàng được Đại Vương lưu ý.
Dạo ấy có con cọp dữ về bắt gia súc của mấy bản Mường thuộc trấn Quảng Oai khiến người dân vô cùng hoang mang lo sợ. Nghe tin báo, Đại Vương bèn cử mười tráng sĩ quả cảm đến bắt dã thú trừ hại cho dân.
Đội săn và dân bản dàn trận bao vây dồn con hổ vào hầm bẫy được đào sẵn ở hẻm núi cụt nhằm bắt cho được dã thú. Đỗ Thành và một chiến hữu cùng với nhóm năm người thổ dân được phân công chốt chặn bên sườn non đề phòng con cọp lao lên trốn thoát sang vùng núi khác. Khi thú dữ bị xua đuổi vào thung lũng, trong thế cùng đường nó không chạy về phía hẻm cụt mà chạy lên sườn dốc rồi chùn bước trước hàng loạt mũi giáo nhọn hoắt giương sẵn. Mãnh thú chần chừ định chạy xuống lại bị mấy chục người phía dưới lăm lăm đón đợi, tay gõ thanh la inh ỏi, miệng hò hét váng trời.
Quá hoảng sợ, con cọp liều mình phóng về phía chiến hữu của Thành, bị người này đâm giáo trúng mạng sườn nhưng nó vẫn đủ sức hất tung chàng trai rơi xuống vực sâu, rồi vãi máu mà lết sang bên kia núi. Bấy giờ đám thổ dân chẳng còn hồn vía cứ đứng như trời trồng, mỗi Đỗ Thành ở cách đầy mười sải chân vội nhảy vọt sang tiếp ứng. Con cọp bị thương khó mà thoát thân, với mũi giáo trên tay Thành thừa sức đuổi theo hạ sát mãnh thú trong chốc lát. Song thấy bạn gặp hiểm nghèo, chàng không hề đắn đo lao xuống cứu người mà quên lập công. Chiến hữu bị thương nặng đang bấu tay vào mỏm đá chông chênh được Thành kéo lên an toàn, nếu chậm một chút chắc sẽ kiệt sức mà rơi xuống đáy khe lởm chởm đá nhọn.?
Ai mà chẳng ham công trạng, nhưng lập được công mà bỏ mặc đồng đội đang gặp nguy hiểm thì tệ quá. Việc như thế Thành không làm nổi. Từ nhỏ đã thấm nhuần đạo lý nhân sinh do cha dạy bảo, cho nên đối với chàng trai thấy chết mà không cứu thì không xứng làm người trên thế gian.
Lúc Hưng Đạo Vương nghe chuyện, ngài không hề khiển trách Đỗ Thành mà còn nghĩ tên này có lòng nhân, xứng đáng là trang nam tử nghĩa hiệp. Còn con cọp từ đấy cũng đi mất dạng, làng bản yên bình trở lại.
Khi tổ chức đội ngũ thám báo, tuy không nói với ai nhưng trong thâm tâm Hưng Đạo đã đề ra tiêu chuẩn để cân nhắc. Nhân-trí-dũng là những tính cách hàng đầu mà ngài yêu cầu phải hội đủ trong phẩm chất của người chiến binh hoạt động bí mật trên đất địch. Bộ ba đột nhập Ung Châu đều là những tay tuấn kiệt giỏi võ nghệ, quả cảm hơn người và dám xả thân vì đại nghĩa, nhưng điều Vương tâm đắc nhất chính là về lòng nhân của họ thông qua hành động liều mình cứu người khác mà bất chấp hậu quả. Trong đó, việc Đỗ Thành không màng lập công để lao ra cứu bạn được ngài đánh giá rất cao.
Lại nói về thục nữ Lương Thị Đào, người con gái năm xưa được Thành cứu sống. Ngày ấy nàng chưa đầy ba tuổi nên chẳng nhớ gì về lần thoát chết trong trận vỡ đê năm Ất Sửu (1265). Khi lớn lên một chút, nghe mẫu thân kể hoài về chuyện hai mẹ con được vị cứu tinh nhỏ tuổi cứu mạng, dần dà tâm trí nàng in sâu mọi tình tiết xảy ra như thể nó vốn có sẵn trong nhận thức của mình. Lúc năm, sáu tuổi cũng chưa nghĩ ngợi gì, nhưng năm lên mười theo mẹ đến nhà ân nhân thì cái cô bé có đôi mắt liễu đen nháy cứ nhìn mãi chàng thanh niên đẹp trai tuấn tú mà trong lòng lâng lâng cảm xúc. Không thể nào khác hơn, Đào coi chàng trai lớn hơn gần chục tuổi là người hùng của lòng mình với tất cả sự ngưỡng mộ chân thành pha trộn một chút mơ mộng vu vơ.
Những năm sau Đào vẫn theo mẹ đi tết nhà ông đồ, thế mà chẳng bao giờ gặp được chàng ta. Bởi thầm ước ao thấy mặt người ấy, nhưng không dám hỏi ai, nên thiếu nữ xuân xanh vẫn cười tươi với mọi người mà trong lòng thì đầy ưu tư. Cho đến tận mùa đông năm nọ.
Ở tuổi của Đỗ Thành nhiều người đã yên bề gia thất. Ông bà giáo sốt ruột lắm khi chưa cưới được vợ cho con trai. Tuy hai người đã có cháu ngoại, nhưng cháu ngoại chung quy là cháu nhà người, còn cháu nối dõi tông đường cho nhà mình thì chẳng thấy đâu, khi mà cậu cả chưa lấy vợ. Nghe tin Thành sắp đi xa, vợ chồng ông đôn đáo tìm mối manh cho con nhưng Thành đều viện cớ thoái thác. Là trang nam tử chính trực, thân mang trọng trách của triều đình mà phiêu lưu xứ người, sống chết khó lường thì làm sao gánh thêm chuyện vợ con? Đấy là cái lý đáng trân trọng của bề tôi trung với vua với nước, song đôi phần cũng bởi đối tượng cha mẹ dạm hỏi chẳng hề khiến chàng rung động như lòng từng rung động trước vẻ đẹp đôi tám của người thiếu nữ ở xóm chợ năm nào.
Thế rồi lần về nước năm kia, sau khi bẩm báo công việc, Thành được Đại Vương cho lai đáo thăm nhà nửa tháng. Hôm đó là ngày giỗ kỵ ông nội, chàng trai trẻ ngỡ ngàng sửng sốt khi gặp lại bà góa quen thuộc đi cùng với một thiếu nữ có khuôn mặt thanh tú. Thành nhận ra ngay nàng là cô gái mà lòng thầm mơ ước kể từ khi tình cờ nhìn thấy ở xóm chợ. Bắt gặp ánh mắt của nàng nhìn mình chan chứa, trống ngực anh chàng đập rộn rã, mặt thì ửng đỏ ngượng nghịu còn đôi tay trở nên lóng ngóng thừa thãi. Lúc nghe mẹ bảo: “Đấy là cô bé được con cứu trong trận lụt năm Ất Sửu” khiến Thành ngẩn người, rồi run bắn lên vì kinh ngạc trước mối giao cảm kỳ lạ. Là người lăn lộn việc nước, sẵn sàng xông pha hiểm nguy nhưng chưa từng trải chuyện trai gái nên lúc đối diện với cảm xúc khác giới thì điệu bộ của chàng thật ngô nghê tức cười.
Thái độ của cô cậu không lọt khỏi những cặp mắt ước ao tác hợp cho con trẻ của các bậc phụ mẫu. Cho là thiên duyên tiền định, cha mẹ Thành và bà góa phụ cùng mở cờ trong bụng. Sau bữa giỗ, hai bậc sinh thành ướm lời với con về việc hỏi vào làm vợ, cậu chàng cả thẹn mà đáp rằng “Ừ thì tùy bố mẹ định liệu”. Hôm sau, vợ chồng ông đồ sắm sửa ít lễ rồi tong tả sang nhà bà góa. Được lời như cởi tấc lòng, bà mẹ thăm dò ý tứ của con gái về việc làm dâu nhà ông đồ, bèn đuợc Đào nũng nịu trả lời “Ừ thì tùy mẹ sắp đặt”. Ôi chao, cách ăn nói của hai đứa chẳng khác gì nhau, chúng đồng tâm từ lúc nào thế nhỉ, đây ắt là ý trời.
Cứ thế đôi bên tán rộng ra rồi quyết định kết mối thông gia vào dịp Đỗ Thành về phép kỳ tới. Do chỉ còn dăm ngày nữa chàng trai phải đi xa, không kịp lo hôn lễ nhưng hai nhà cũng nên tạo điều kiện để con trẻ qua lại gặp gỡ nhau cho lương duyên mới chớm thêm bền chặt; thế là khi Thành qua nhà nàng thì bà góa xuống bếp thổi nấu đến mấy canh giờ, còn khi Đào qua nhà chàng thì vợ chồng ông đồ đánh tiếng lên phố thị mua giấy mực mất cả buổi. Năm ngày còn lại của chàng túc vệ, đôi lứa gặp nhau đến sáu bận, ai dám bảo là ít.
Hôm chia tay, Thị Đào tặng chàng trai một chiếc khăn lụa hồng có thêu cặp uyên ương bằng chỉ xanh rồi nghẹn ngào thổ lộ nỗi niềm:
– Huynh đi xa, muội chỉ kịp làm chiếc khăn này thay cho hình bóng của muội luôn ở bên huynh, để huynh tin tưởng rằng nơi quê nhà có một người con gái đang ngày đêm trông ngóng huynh sớm trở về.
Đỗ Thành cảm động lắm, chàng hiểu ý nghĩa sâu xa của chiếc khăn lụa đào, coi như nàng đã gói ghém linh hồn trong đấy mà theo chàng bôn ba khắp chốn. Nhưng Thành biết công việc của mình nên đành ngậm ngùi mà nói thật lòng:
– Huynh đi làm phận sự với triều đình nên không thể muốn về là về. Nếu không có gì thay đổi thì ba năm nữa huynh mới được về bên muội. Ba năm chẳng hề ngắn ngủi, muội ráng đợi chờ huynh nhé.
– Muội nhất định chờ. Huynh đi làm việc nước thì bao lâu muội cũng chờ.
Cặp tình nhân nắm chặt tay nhau như thầm trao gửi nguyện ước, cùng chia sẻ cảm giác hai trái tim đang thổn thức nhịp đập yêu thương.
Nhìn đôi trẻ bịn rịn chia ly, đứng ở gần đấy, hai bà mẹ cứ khóc sụt sịt không thôi. Ông thầy đồ cũng đỏ hoe con mắt nhưng vẫn nói cứng:
– Ôi dào, đàn bà chỉ được cái lắm lệ. Nó đi rồi nó về chứ có biệt tích đâu mà khóc lóc.
Những ngày trên đất khách, Đỗ Thành tìm mua được miếng ngọc bội vân lý chạm khắc long phụng rất đẹp, cốt để dành tặng ý trung nhân vào ngày cưới. Thành gói quà trong manh lụa hồng của Đào và luôn mang theo mình, ban đêm vắng lặng, mỗi khi thương nhớ đầy với chàng lại lấy khăn lụa và ngọc bội ra ngắm nghía.
Theo quy định, mùa thu năm nay đến kỳ Đỗ Thành về nước, cũng là dịp để chàng thực hiện mộng ước thành hôn với người con gái có mối lương duyên kỳ lạ với mình. Không ngờ thế cuộc xoay vần, thu qua đông tới, mọi dự tính đều đảo lộn, bầy lang sói rập rình trước cửa, vận nước đang dầu sôi lửa bỏng thì chuyện hôn nhân cũng đành gác lại. Nghĩ được như vậy, nhưng trong lòng chàng trai vẫn không khỏi nghẹn ngào tiếc nuối.
Mình ở đây vì mải lo đại sự nên đành chấp nhận lỗi hẹn với gia đình và hôn thê, chỉ tội người ở nhà ngày đêm mỏi mòn trông ngóng mà chẳng biết vì sao không thấy ta về như lời hứa? Họ không thể hỏi ai cho vơi bớt âu lo phiền não thì chắc lại gửi sầu muộn vào dòng nước mắt đong đầy mỗi canh. Đến giờ Hưng Đạo Vương còn chưa nắm được tin tức về anh em ta, huống hồ thảo dân như ruột thịt của ta, nỗi niềm của họ vô vọng biết mấy. Các huynh đệ đều biết ta có người yêu thương sắp cưới, tuy ta chưa có dịp thổ lộ nhưng chắc Quang huynh và Thái đệ cũng nghĩ chuyến về phép lần này ta sẽ cưới vợ. Rồi nay không được về đúng hẹn, có lẽ hai người ái ngại cho ta nhưng họ chẳng nói ra vì sợ ta lại buồn.
Đỗ Thành vờ nhắm mắt ngủ say trên nệm cỏ, mặc tâm trí trôi dạt vào miền ký ức mà tự vấn lòng về cuộc đời và thế sự. Nghe tiếng kẹt cửa, mở mắt nhìn thấy Thế Quang đi ra sân, chàng bèn ngồi dậy móc gói lụa lận trong lưng quần lấy miếng ngọc quý ra ve vuốt rồi lại mân mê chiếc khăn và thở dài não nuột…
Mải trầm tư nhung nhớ, Đỗ Thành không hay biết có người đứng sau lưng nhìn trộm. Người đó là Phạm Thái, vốn cũng trằn trọc chưa ngủ nên khi thấy Thành nâng niu món đồ cầm trên tay bèn bước rón rén tới gần xem thử.
– Huynh đang xem gì thế?
Đỗ Thành giật mình quay lại, thấy Phạm Thái đứng lù lù bên cạnh, bèn đáp “Có gì đâu” nhưng bàn tay thì nắm vào để cậu em không nhìn thấy miếng ngọc bội.
– Để thấy rồi, cho xem đi. – Phạm Thái năn nỉ.
– Không có gì đáng xem cả. – Đỗ Thành cố khước từ.
Thấy chiếc khăn lụa để trên nệm, Thành nhanh tay chộp lấy xem rồi tấm tắc khen:
– Đôi chim uyên ương thêu đẹp quá, chắc là kỷ vật của nàng đây. Lấy kỷ vật gói đồ hẳn nhiên là đồ quý. Anh em sống chết có nhau thế mà lại giấu đệ?
Nghe Thái nói bằng giọng hờn, Thành hơi phân vân nên đành xòe tay ra và bảo:
– Đừng giả vờ dỗi như con nít. Ngồi xuống đây mà xem, kẻo lóng ngóng rơi vỡ mất.
Thái cầm miếng ngọc ngắm nghía, còn miệng xuýt xoa:
– Đẹp thế này thì quý là phải, chả trách cứ ngắm mãi. Huynh mua tặng hôn thê à?
Thành lấy lại miếng ngọc, đáp:
– Ừ. Nhưng giờ cũng chẳng biết sao nữa. Thôi đệ về giường đi, huynh ngủ đây.
Phạm Thái trở về giường, nằm thở dài “Thành huynh có phúc hơn mình, ít ra còn hy vọng sum vầy đôi lứa. Ta mới là người vô phúc đây”. Tâm trí của chàng lại hướng về một người con gái không đồng tộc với mình. Nếu không vướng họa chiến tranh thì hay biết mấy, trai gái lân bang nên đôi lứa là chuyện bình thường. Còn khi xảy việc binh đao giữa hai nước, thế cuộc chia kẻ Bắc người Nam, sống chết còn chẳng lường nổi thì mơ gì đến chuyện nối duyên kết phúc?
Đỗ Thành nói ngủ nhưng nào ngủ được, nằm nghĩ quanh nghĩ quẩn rồi cất tiếng gọi khẽ:
– Thái à, huynh bảo này.
Nghe Thành gọi, Phạm Thái liền bật dậy sang xem huynh bảo gì. Đỗ Thành nắm cổ tay Thái, nhìn đệ bằng ánh mắt đầy cảm xúc rồi bộc lộ nỗi niềm:
– Chuyến trở về lần này chưa biết lành dữ ra sao, nếu ba anh em đều vô sự thì không nói làm gì, ngộ nhỡ… huynh có bề nào thì nhờ đệ lấy chiếc khăn và miếng ngọc huynh để trong túi ở cạp quần đem về giao tận tay cho Lương Thị Đào là hôn thê của huynh ở phường Cơ Xá phía đông thành Thăng Long, rồi nhờ nàng đưa sang nhà huynh, thay huynh vấn an cha mẹ.
Thái nhăn mặt trách:
– Cứ nói gở. Binh thư có câu “Gặp nguy nan mà nhu nhược thì ba phần thất bại, đánh giặc mà lòng mạnh mẽ thì nhất định thành côngĐối nan nhược chí tam phần thất. Kháng địch cường tâm nhất đắc thành”. Chưa lên đường mà huynh đã lo ngại không về tới nhà. Đệ không giúp đâu, huynh phải về mà giao quà tận tay cho hôn thê, về mà vấn an cha mẹ.
Thành chống chế:
– Thì dặn hờ thôi, đâu nhất thiết như vậy. Chưa gì đã lôi binh thư ra giáo huấn rồi. Mà này, đệ học ở đâu ra thế?
Thái trả lời:
– Trong Binh thư yếu lược của Đại Vương, đệ học ở Giảng võ đường.
Thành tấm tắc khâm phục:
– Thế mà bây giờ mới kể. Huynh không ngờ đệ được học tại Giảng võ đường. Thời niên thiếu huynh cũng mơ ước lắm, nhưng hồi đấy người ta chưa tuyển con em thứ dân.
Nghe tiếng bước chân ngoài cửa, biết đại ca sắp vào nhà, Phạm Thái rảo cẳng về giường của mình, còn Đỗ Thành nằm ngay xuống, quay mặt vào tường như đang ngủ say. Nếu biết hai người chưa ngủ thì thể nào huynh trưởng cũng trách cứ.
Trước ngày lên đường, Đại Vương đã dặn dò kỹ lưỡng “Ba anh em phiêu bạt đất khách quê người, vì việc nước mà dấn thân vào chỗ hiểm nguy nên mọi cái phải theo quân kỷ, người trên bảo người dưới phải tuyệt đối phục tùng. Đấy cũng là bí quyết sống còn giữa động hùm hang sói”.