← Quay lại trang sách

Chương 3 Hưng Đạo lập kế diễn võ thuyết vua
Thái Tông ở chùa niệm kệ răn cháu

Giảng võ tọa lạc ở phía tây nam kinh thành Thăng Long, vốn là trường đào tạo võ nghệ và binh pháp dành riêng cho con em hoàng tộc, được Thái Tông Hoàng đế thiết lập vào năm Nguyên Phong thứ ba (1253). Một lần có viên giáo thụ đến gặp Hưng Đạo Vương phàn nàn về sự yếu kém và chểnh mảng học tập của bọn võ sinh, Đại Vương hiểu chuyện, vì ngài biết có kiểm đếm hết đám thiếu niên nội tộc trạc tuổi mười lăm, mười bảy cũng chỉ được dăm chục đứa, lại còn đứa có tài đứa bất tài, đứa thích võ đưa thích văn, nên thiếu vắng võ sinh ưu tú không hề lạ. Nghĩ tới vận mệnh xã tắc trước áp lực xâm lăng ngày càng quyết liệt của bọn Nguyên Mông, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bèn bàn bạc với Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải:

– Người khí phách trong thiên hạ nhiều lắm, nay Giảng Võ chỉ dành cho con cháu trong họ thì e rằng khi quân Nguyên phạm cõi sẽ thiếu nhân tài giúp nước, vậy nên chăng tấn xin Quan gia cho tuyển lựa người trong nước có khả năng vào trường rèn luyện?

Chiêu Minh không thuận, ngài cho rằng:

– Hoàng thân quốc thích học chung với thứ dân thì còn ra thể thống gì nữa. Đem việc này mà bàn với Quan gia có khi còn bị quở.

Chiêu Minh Vương là tể tướng đầu triều nên Hưng Đạo Vương không nói gì thêm. Nhưng vốn đa mưu, Hưng Đạo nghĩ phải dùng thực tế hai năm rõ mười để thuyết phục Chiêu Minh và hoàng thượng. Nhân sắp lễ mừng thọ Thái thượng hoàng, ngài bẩm với đương kim hoàng đế bấy giờ là Thánh Tông:

– Trước kia khi nước nhà có biến Thượng hoàng đều đích thân cầm quân xông pha trận mạc, hẳn trong tâm trí vẫn nhớ việc binh đao. Hằng năm mừng thọ Người đều làm yến tiệc, thần cầu xin năm nay bệ hạ tổ chức thêm múa võ, ắt Thượng hoàng sẽ vui thích.

Vua Thánh Tông là người hiếu thảo, mừng rỡ chấp thuận:

– Phải đấy, phụ hoàng chắc rất vui. Theo khanh lấy ai ra múa võ?

Hưng Đạo đáp:

– Giảng Võ lập đã lâu, võ sinh là người trong nhà cả. Theo thần dùng chúng làm chủ đạo, cũng tiện dịp để con cháu phô diễn tài năng.

Thánh Tông truyền:

– Vậy ta giao cho khanh lo liệu.

Nghe Quan gia nói thế, Hưng Đạo bèn lựa lời đưa đẩy:

– Chiêu Minh Vương vừa là Tể tướng vừa là con Thượng hoàng, thần dưới đệ ấy một bậc nên không dám nhận, bệ hạ giao cho Chiêu Minh là hợp tình hợp lý.

Trần Quang Khải được hoàng huynh gọi vào cung giao việc, ban đầu thì cả mừng, về sau lại đâm lo vì không kiếm được người giỏi múa đao kiếm để làm hài lòng phụ hoàng. Theo chỉ dụ, ngài đã sang Giảng võ đường tuyển lựa, nhưng trong hơn ba chục học sinh hoàng tộc cuối cùng chỉ chọn được năm đứa gọi là tàm tạm. Thấy việc không xong, Quang Khải bèn rủ Nhật Duật cùng đến gặp Thánh Tông để thăm dò ý tứ của nhà vua về việc thay đổi khoản múa võ sang múa hát cung đình.?

Sau khi nghe Chiêu Minh trình bày, hoàng thượng nhíu mày:

– Không được đâu, cho bọn đào hát đến mừng thọ thì tầm thường quá. Cứ vậy đi, đám Giảng võ kém cỏi thì đệ kiếm đám khác bổ sung.

Quang Khải nháy mắt cho Nhật Duật, hy vọng người em nói đỡ cho mình một câu. Chiêu Văn làm mặt tỉnh bơ, nói thủng thẳng:

– Hoàng huynh nói phải đấy, xem bọn đào hát thì để phụ hoàng nghỉ ngơi cho khỏe. Quang Khải huynh gắng kiếm làm gì mà chả ra người tài.

Thánh Tông tỏ thái độ dứt khoát:

– Cứ như vậy nhé, đừng thay đổi gì cả.

Khi cáo lui ra ngoài, Quang Khải trách Nhật Duật không giữ lời hứa, đã chẳng nói giúp lại còn xúi bẩy thêm vào để hoàng huynh giữ nguyên chủ ý. Nhật Duật cười trừ, đáp:

– Huynh có thấy bệ hạ khăng khăng đòi múa võ không? Đệ có góp lời cũng chẳng ăn thua, thà cứ làm theo rồi tìm cách gỡ bí.

Chiêu Văn nói nhỏ với ông anh, Chiêu Minh nhăn nhó “Lại phải nhờ cậy cái lão này, tức chết đi được”. Nhật Duật bảo “Huynh ấy không nề hà đâu, có điều huynh đừng làm khó cho người ta thì đâu vào đấy cả”.

Bí quá, Chiêu Minh đành nhờ cậy Hưng Đạo kiếm người. Đại Vương đồng ý giúp, nhưng bảo:

– Việc của Tể tướng giao tất nhiên phải nỗ lực, chỉ sợ mấy thuộc hạ của ta tuy có chút võ công song đều là gia nô và hạng thứ dân, không biết có làm nhị hoàng phật ý?

Ngày mừng thọ đã cận kề, Quang Khải biết không thể làm khác hơn, đành gấp gáp gật đầu:

– Không sao, thứ dân hay gia nô cũng là thần dân trong nước, nếu phụ hoàng và Quan gia có hạch sách gì thì ta nói đỡ cho. Huynh cứ chuẩn bị chu đáo là được.

Hưng Đạo Vương mừng lắm, bèn quay về Vạn Kiếp cho triệu tập môn khách Phạm Ngũ Lão cùng bọn thủ túc là Yết Kiêu, Dã Tượng và Nguyễn Địa Lô lên dặn dò, sai việc.

Vào lễ mừng thọ Thái thượng hoàng, cung Trùng Quang tại phủ Thiên Trường rực rỡ cờ xí, đông vui tấp nập như thể triều đình dời cả về đấy; xa giá của Thánh Tông từ Thăng Long trảy về có hơn ngàn người tháp tùng hầu hạ, quần thần từ tam phẩm trở lên đều góp mặt, kiệu, lọng rợp trời, ngựa, võng kín đất; các vương hầu xa gần cùng hội tụ, bậc thân vương mang theo hai ba trăm gia binh hộ tống, người tước hầu dẫn tới năm bảy chục gia nô phục dịch. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đến từ Vạn Kiếp, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải từ thái ấp cũng ở phủ Thiên Trường kéo sang, Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang từ Diễn Châu ra, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật từ đạo Đà Giang xuống, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc từ phủ Đông Đô về…

Màn lễ nghi và yến tiệc kéo dài từ sáng tới xế chiều, khi mặt trời đã nhạt nắng, Quan gia đến bên cạnh Thái thượng hoàng, khoanh tay thưa gửi:

– Nhân đại thọ của phụ hoàng, năm nay hoàng nhi và các vương có tổ chức thêm tiệc võ góp vui, mong phụ hoàng chiếu cố.

Thượng hoàng Trần Thái Tông tuổi ngoài ngũ tuần, người cân đối quắc thước, mặc long bào gấm đỏ, đang ngự trên ghế Bảo Long thếp vàng liền bật dậy vuốt chòm râu lốm đốm bạc, cả cười nói lớn:

– Khen cho bệ hạ và các khanh. Rượu thịt no say rồi thưởng thức võ nghệ thì còn gì bằng. Chu đáo quá. Chu đáo quá.

Quân thần vui vẻ kéo nhau ra đan trì. Quang Khải đi sau vua, nhìn không thấy Quốc Tuấn đâu cả, mặt biến sắc lo lắng, cố nán lại chờ đợi. Chốc lát thấy Quốc Tuấn thủng thẳng bước ra từ khu nhà ngang dành cho thuộc hạ trong cung, ngài vội hỏi:

– Huynh chuẩn bị đến đâu rồi? Ta lo quá.

Hưng Đạo ung dung trả lời:

– Yên trí. Đâu vào đấy hết.

Trên bậc thềm cao nhất đặt sẵn hai ghế lớn dành cho hai vua, các bậc thấp hơn đặt nhiều ghế nhỏ là chỗ ngồi của vương hầu và quần thần tùy theo vai vế lớn bé. Riêng có sáu chiếc ghế nhỏ hơn ghế của nhị hoàng nhưng xếp hai bên tả hữu ngang hàng với các vua, gồm năm ghế của các đại vương con Thượng hoàng và một chiếc đặc cách cho Hưng Đạo Vương. Đây là chủ ý của Thánh Tông Hoàng đế, từ đấy thiên hạ bảo nhau: vương triều ta vua tôi một lòng, anh em hòa hợp gần gũi mà không quá xa cách, đó là cội rễ vững bền.

Khi mọi người an tọa, Quan gia ra dấu cho Tể tướng. Quang Khải đứng dậy vỗ tay ba cái làm hiệu rồi hô lớn:

– Nghiệp đế nhà Trần. Đại Việt tỏa sáng. Nước thịnh dân mạnh. Thượng hoàng muôn tuổi. Bắt đầu hội võ. Dâng lên hai rồngĐông A đế nghiệp. Đại Việt quang hưng. Quốc thịnh dân cường. Thượng hoàng vạn thọ. Khởi trình vũ hội. Phụng tấu lưỡng long.

Ngài nói dứt lời, bá quan văn võ cùng hướng về hai vua, chắp tay trước ngực mà đồng thanh hô vang “Thượng hoàng vạn vạn thọ. Thánh thượng vạn vạn tuế”. Từ cánh cửa mé phải bước ra một tiểu tướng mặc võ phục màu trắng, đầu chít khăn lam, tay cầm cặp dùi đại, đôi chân bước chấp chới như đang bay bổng giữa không trung, hai cánh tay uốn lượn nhịp nhàng theo điệu “Bạch hạc hướng nhật” vừa múa vừa tiến về phía chiếc trống cái đỏ rực to ngang sải tay đặt ở góc sân, rồi vung dùi gõ ba hồi chín tiếng vang động trời chiều.?

Tiếp đến là màn trình diễn của hai đội cờ, mỗi đội sáu người. Bước ra từ cửa trái là đội hoàng kỳ vận trang phục màu đen, trên tay mỗi người cầm một lá cờ vàng tượng trưng cho quân Thánh Dực. Bước ra từ cửa phải là đội hồng kỳ vận trang phục màu xám cầm cờ đỏ đại diện cho quân Thần Sách. Hai đội nhập một giữa sân, cùng hòa nhịp múa bài “Công lũy thượng kỳ” miêu tả khí thế đánh chiếm thành giặc, dụng cờ chiến thắng, đội ngũ biểu diễn rất nhuần nhuyễn đồng điệu, động tác uyển chuyển và biến hóa hoạt bát, tinh kỳ phấp phới trông thật hào hùng và đẹp mắt.

Thượng hoàng vô cùng thích thú, gật gù nói:

– Hay quá. Bọn này là ai?

Thánh Tông mừng rỡ, bèn đáp:

– Bẩm, là gia tướng nhà hoàng đệ Chiêu Minh được giao quản các vệ đấy ạ.

Thái Tông quay sang Quang Khải, vốn ngồi cạnh ngài, khích lệ:

– Vương luyện binh được vậy là giỏi. Phải duy trì cho tốt để xứng danh quân triều đình.

Nghe phụ hoàng khen ngợi, Chiêu Minh kính cẩn đáp: “Dạ vâng” mà trong lòng vui sướng lắm. Bá quan hò reo sảng khoái và bàn luận nhiệt tình. Ích Tắc ngồi kế Quang Khải, mặt có vẻ kém tươi, nói to để vua cha nghe thấy:

– Bẩm phụ hoàng, tôi tớ nhà con đầy kẻ tài, dịp khác con mời người dự lãm.

Màn trình diễn của học sinh Giảng võ là trò “Đông A đả Thát”. Năm tiểu tướng mặc sắc phục quân Trần, áo tím quần nâu, đầu đội mũ đen, lưng thắt dải đỏ, dận ủng cao quá bắp chân, tay cầm đoản đao tiến vào từ cửa hữu; năm võ sĩ mặc binh phục Thát Đát, vận áo choàng vạt xéo ngang thân, đầu đội mũ lông, đi giày mũi hài da dê, vẽ mặt bôi râu, tay cầm trường giáo, từ cửa tả bước ra. Hai bên đối diện nhau giữa sân rồi kẻ vung đao người chĩa giáo, chém qua đâm lại tít mù, tuy cuối cùng giặc thua ta thắng nhưng xem ra có phần nhạt nhẽo. Cũng bởi vì đội ngũ kém cương kỷ, võ thuật chưa bài bản, lại còn thiếu khí thế hào sảng.

Thượng hoàng có vẻ không hứng thú, nhưng chẳng nỡ chê bai, lại nói câu an ủi:

– Xem cũng được, tuy còn non nớt lắm.

Rồi ngài hỏi chiếu lệ:

– Bọn nào đây?

Quan gia đưa mắt đùn đẩy Tể tướng trả lời. Chiêu Minh Vương đành ấp úng nói:

– Bẩm… bẩm phụ hoàng, bọn niên thiếu trong Giảng Võ đấy ạ.

Thánh Tông quở trách:

– Thân mang tước hầu được nuôi ăn học mà bất tài quá.

Bấy giờ Thái Tông buột miệng than:

– Giang sơn xã tắc mai này giao phó cho chúng xem chừng không ổn.

Bất chợt từ hàng ghế ở phía dưới, có cậu bé trạc tuổi chín, mười khum bàn tay làm loa, hét tướng:

– Đánh dở quá.

Ông bố ngồi bên cạnh hoảng hồn, vội nạt đứa trẻ:

– Không được vô lễ.

Thánh Tông nhíu mày hỏi:

– Đứa nào thế?

Tĩnh Quốc Vương biết người, nên đáp:

– Bẩm, nó là Hoài Văn Hầu, con trai của An Bình Vương ạ.

Thượng hoàng phán một câu sâu xa:

– Không sao. Trẻ con không biết nói dối. Thằng bé này khác người đấy. Hình như tên nó là Quốc Toản, năm xưa do ta đặt mà.

Thời cơ đến, Hưng Đạo Vương ngồi ghế cuối phía Quan gia, nói vọng sang:

– Bẩm tấu Thượng hoàng và bệ hạ, thần có mấy thủ túc tuy không qua Giảng Võ nhưng có chút tài mọn, nếu nhị hoàng cho phép thần sẽ gọi chúng vào hầu diễn?

Chiêu Minh góp thêm lời:

– Chúng là thứ dân không có danh phận gì nhưng võ nghệ khá lắm.

Quang Khải tuy chưa rõ Hưng Đạo đưa nhân vật nào ra múa võ nhưng cũng lên tiếng vun vào vì sợ phụ hoàng đang chán nản bởi đám võ sinh quý tộc mà không thiết xem nữa thì buổi lễ coi như thất bại.

– Cũng tốt. Vậy thử xem thần dân trong nước có hơn đám khanh hầu trong tộc.

Ý của Thượng hoàng khiến hai vị đại vương đầu triều thở phào nhẹ nhõm. Hưng Đạo đứng dậy, quay mặt về phía các vua chắp tay cung kính:

– Xin phép nhị hoàng cho thần được bắt đầu. – Rồi ông dõng dạc hô lớn:

– Gióng trống làm hiệu. Màn thứ nhất “Quá hải đoạn kình”.

Một lão ông tráng kiện đến bên chiếc trống lớn gõ một hồi dài. Tiếng trống vừa dứt, một người thanh niên vạm vỡ bước ra sân, mình trần đóng khố, nước da màu đồng đỏ, cơ bắp nổi cuồn cuộn, lưng xăm hình giao long, trên tay cầm hai chiếc mái chèo đen bóng, vừa đi vừa khua chèo như đang đưa thuyền rẽ sóng nước, miệng hò sang sảng:

Khoan dô hò dường

Đưa thuyền cưỡi sóng

Biển trời tinh sương

Ta lùng cá dữ

Ta săn thuồng luồng

Diệt loài thủy quái

Biển trời bình yên

Dô khoan hò dường.

Người ấy là Yết Kiêu, nô bộc trung tín của Hưng Đạo Vương. Đến giữa sân, chàng trai dụng cặp mái chèo chụm vào nhau rồi quay mặt về khán đài với hai vua và các quan. Trống lại nổi lên rộn rã. Nhanh như chim cắt vồ mồi, Yết Kiêu dùng song cước nhập hai mái chèo làm một, hất tung lên lại tách ra làm đôi rồi vươn tay bắt gọn và sử dụng như một cặp vũ khí lợi hại, rất tinh túy, rất điệu nghệ. Đang quay tít trên đầu chợt bổ xuống dữ dội, đang càn lướt dưới chân lại vút lên quyết liệt, người và cặp chèo tiến thoái khôn lường, xoay chuyển như gió lốc, biến hóa như sóng cả, đôi lần tạo ra ảo ảnh quay cuồng trong mắt người xem. Mọi động tác đều góp phần lột tả cuộc chiến sống mái trên biển lớn giữa người ngư dân với loài cá dữ và được điều tiết theo nhịp trống lúc dồn dập thôi thúc, lúc mạnh mẽ hùng hồn.

Cả khán đài im phăng phắc, từ vua chí quan đều say mê theo dõi. Khi màn diễn kết thúc thì khắp phía trỗi dậy tiếng hò reo tán thưởng. Nhìn sắc mặt hai vua, biết họ ưng ý lắm, Hưng Đạo yên lòng. Chờ sự nồng nhiệt lắng xuống, ngài lại đứng dậy hô to:

– Gióng chiêng báo hiệu. Màn thứ hai “Đằng sơn phục tượng”.

Từ cửa phải xuất hiện năm dũng sĩ sơn cước vận sắc phục chàm, tay cầm chiêng lớn, vốn người các trại ở châu Ái. Tiếng chiêng đồng thanh rộn rã, một tráng sĩ cao lớn hùng dũng bước ra, mặc bộ trang phục Thổ dệt hoa văn, lưng thắt dải đen, chân đi giày cỏ, tay cầm giáo nhọn, vai vác cuộn thừng to bằng ngón chân cái, miệng hát vang vang:

Ta vượt núi, ta băng rừng

Bắt voi về thuần phục

Sung vào đối tượng binh

Đợi quân thù kéo đến

Đánh cho chúng thất kinh.

Người này là Dã Tượng, thủ túc thân tín của Hưng Đạo Vương. Sau màn nghi lễ vái chào, đội chiêng xếp hình vòng cung, vừa đánh chiêng vừa nhảy nhót tạo thế trợ lực cho nhân vật chính động thủ. Dã Tượng một tay múa giáo, một tay vung thừng, tiến thoái vô cùng hợp lý, công tả tấn hữu rất quyết liệt mà bài bản. Giáo là vật cứng khi đâm lướt uy lực mạnh mẽ, khi gạt đỡ uyển chuyển kín kẽ. Thừng là vật mềm lúc tung ra thẳng đuột như tên bắn, lúc co lại uốn khúc như mãng xà thủ thế, có lúc lại biến hóa thành chiếc thòng lọng lợi hại. Mọi động tác võ thuật của Dã Tượng đều thể hiện tài nghệ quy phục voi rừng của hảo hán sơn cước.

Màn trình diễn hòa trong tiếng chiêng hào hùng khiến mọi người hưng phấn tột độ, hoàng gia nhiệt liệt ngợi ca, bá quan nô nức cổ vũ. Trong vô số giọng nói cười, ai nấy còn nghe rõ mồn một tiếng hét khản đặc của cậu bé Hoài Văn Hầu “Võ công cái thế. Kỳ tài thiên hạ”. Lúc khí thế dịu bớt, Hưng Đạo lại hô vang:

– Mõ ngân làm hiệu. Màn thứ ba “Xạ lạc ác điểu”.

Một chú mục đồng lững thững bước ra, quần nâu áo vá, đầu để chỏm ba trái đào, tay cầm mõ tre vừa đi vừa gõ cốc cốc như đánh hiệu gọi trâu lạc. Màn này mở đầu bằng bối cảnh êm ả thanh bình, làm người xem khó đoán diễn biến. Giữa lúc quan khách đang phân vân thì từ cửa túa ra năm kẻ khoác áo tơi bằng lá cọ thay bộ lông vũ, mặt đeo đuôi mo cau cuộn tròn sơn son giống hình chiếc mỏ, đầu đội mũ cao trên đỉnh chóp gắn lông đuôi chim ó nhuộm xanh, nhảy múa la hét quay cuồng loạn xạ mà không theo quy củ nào. Trang phục và hành vi của chúng rõ ràng tượng trưng cho lũ chim bay đến phá hoại mùa màng. Bất chợt tiếng mõ nổi lên dồn dập như giục giã khẩn thiết. Cứu tinh xuất hiện, một chàng trai có khuôn mặt sáng sủa, áo vải quần thô, vóc dáng nhỏ nhắn, điệu bộ tinh anh, tay cầm cung, lưng đeo bao tên, miệng ca vang lanh lảnh:

Bớ này ác là

Phá nương phá ruộng

Ta đã về đây

Giữ đồng lúa chín

Ta săn chúng mày

Liệu đường mà bay.

Người này tên Nguyễn Địa Lô, gia nhân thân cận của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ca vừa dứt câu, Địa Lô dùng một tay quay chiếc cung như chong chóng, một tay rút mũi tên sau lưng, rồi thoắt cái đã giương cung bắn tên lao vút đi trong tiếng kêu kinh hãi của đám quần thần lắm văn ít võ. Mũi tên xạ kích rụng mũ lông trên đầu một người đội lốt chim đang nhảy nhót không ngừng. Cứ thế năm mũi tên bắn ra từ nhiều tư thế khác nhau làm rung cả năm chiếc mũ mà không hề phạm vào chỗ nào khác trên cơ thể người. Khiến mọi người kinh sợ nhất là chiêu ngoảnh lưng về phía đối tượng, rồi bất thần quay lại và buông dây cung tức thì.

Khán đài rung chuyển tiếng hò reo sau màn trổ tài căng thẳng, hồi hộp. Thái Thượng Hoàng xuýt xoa: “Rùng mình thật nhưng tuyệt kỹ, đầy bản lĩnh”. Hoàng thượng căn dặn: “Mua vui không nên diễn trò này. Tài nghệ như thế nên dùng vào việc đánh giặc”. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật hỏi nhỏ Hưng Đạo Vương: “Huynh có thể cho mượn người này một tháng về luyện cung cho thuộc hạ nhà tôi?”. Hưng Đạo trả lời: “Được thôi. Nhưng ngài phải giúp ta một việc”. Rồi ông thì thầm điều gì đó vào tai Nhật Duật.

Trời đã nhá nhem, chốc lát thôi, khoảng không sẽ chìm vào bóng tối, Tiên lượng trước thời khắc biểu diễn, Hưng Đạo Vương đứng dậy hô to:

– Nổi lửa làm hiệu, màn cuối cùng “Đại phá quân doanh”.

Từ cửa bước ra là hai mươi tám gã vận trang phục Bắc phương, giữa ngực đeo miếng vải đề chữ đại quốc大國, mỗi người cầm hai bó đuốc cháy rực, soi sáng trưng cả chiếc sân lớn. Trong ánh đuốc bập bùng, đội ngũ “nước lớn” tách từ chữ nhất一 dài thòng thành chữ tam三 tinh gọn rồi hợp lại thành chữ công攻 sắc sảo.

Trên khán đài, hoàng thượng quay sang hỏi Hưng Đạo:

– Ý nghĩa của việc xếp chữ này thế nào?

Hưng Đạo đáp:

– Bầm bệ hạ, một đạo quân phương Bắc chia làm ba hướng kéo sang đánh phá nước ta.

Thái Tông nghe thấy bèn hỏi:

– Vương nghĩ vậy à?

Hưng Đạo trả lời:

– Bẩm Thượng hoàng, thần suy đoán thôi.

Ở dưới sân, đám “đại quốc” lại chuyển hóa thành chữ vi囗 vuông vức, kín kẽ. Bất thần một võ quan xuất hiện trước cửa, tướng mạo oai phong lẫm liệt, đầu đội mũ sắt ngù lông, ngực bịt giáp đồng ở giữa có miếng vải trắng thêu chữ “Đông A” màu đỏ, một tay cầm trường thương, một tay ra vẻ giữ dây cương, người nhún nhảy như đang phi ngựa. Người ấy là Phạm Ngũ Lão, môn khách “hữu duyên hội ngộ” của Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Đến trước “trại giặc” hình chữ “vi”, Ngũ Lão kìm “cương ngựa” rồi cất tiếng hát hào sảng:

Này lũ Bắc phương

Quen thói bạo cường

Nước non Đại Việt

Chớ có xem thường.

Ta đoàn hùng binh

Vâng lệnh triều đình

Sa trường đối địch

Quyết trận tử sinh.

“Cửa trại” mở ra, ba tên giặc múa đuốc xông tới, chiến tướng Đông A khua trường thương nghênh chiến, chỉ bằng một đường rẻ quạt đã gạt tắt cả sáu ngọn đuốc của đối phương. Chữ “vi” bị thu nhỏ lại khi thêm năm tên “nước lớn” hùng hùng hổ hổ xông ra, vừa múa đuốc vây quanh tướng nhà Trần vừa gào thét điên cuồng “Giết giết Đông A”. Ngũ Lão hiên ngang chống trả, chỉ bằng một tay điều khiển chiếc thương lượn vòng tròn dập tắt ngóm toàn bộ đuốc giặc. Bất chợt tiếng trống vang lên hào hùng. Chớp thời cơ, dũng tướng lao thẳng vào trại giặc, tả xung hữu đột, thượng công hạ thủ, thế tấn oai phong như hổ vồ, đường thương uyển chuyển như rồng lượn, tàn lửa bay tung tóe như hoa tuyết, cảnh tượng thật hoành tráng và hấp dẫn. Chưa dứt một hồi trống, với chiếc thương lợi hại kết hợp võ nghệ kỳ tài Ngũ Lão đã lần lượt dập tắt hết thảy đuốc lửa còn lại của chúng.

Ở trên khán đài, quân thần được dự lãm khung cảnh vô cùng dữ dội và oanh liệt của hào khí Đông A đã đưa đẩy niềm xúc cảm của họ trôi bồng bềnh vào cõi tĩnh lặng của trí tưởng tượng mà chẳng hề để ý bóng đêm đã bao phủ tràn ngập. Cho đến khi Tể tướng Chiêu Minh Vương dõng dạc hô to: “Thắp sáng cung Trùng Quang. Mừng Đại Việt trường tồn. Mừng Đông A thịnh vượng”, tức khắc từ hậu cung xuất hiện đoàn thị nữ xiêm áo lả lướt, tay cầm đèn lồng tỏa ra hai phía soi tỏ rực rỡ hành cung, bấy giờ mọi người như bừng tỉnh, cùng hân hoan reo vui.

Tối đấy, khi bá quan đã lui về nghỉ, theo lệnh vua, các đại vương thân cận nhất được vời lại nghị đàm. Thái Thượng hoàng kêu mệt, không dự. Thực chất ngài né tránh để đương kim hoàng thượng toàn quyền định đoạt việc nước. Tuy nhường ngôi cho con nhưng trước nay Thượng hoàng vẫn điều hành chính sự, bây giờ nhà vua ở ngôi cũng đủ lâu, tinh thần đã vững vàng, trí lực đã thông tuệ, ngài cho rằng đã đến lúc hoàng thượng phải tự quyết mọi việc.

Quân thần không phân biệt ngôi thứ, cùng ngồi quanh một chiếc bàn dài, chỉ có trà bánh chiếu lệ. Ban đầu các vương e ngại không dám ngồi ngang với vua. Hoàng thượng bèn lên tiếng vỗ về bằng lời lẽ chân thành:

– Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc.

Bấy giờ mọi người mới dám ngồi.

Đương kim hoàng thượng ở tuổi tam tuần, vóc dáng tầm thước, tướng mạo khôi ngô, tính cách cương nghị nhưng rất chan hòa với huynh đệ. Vua sai người rót trà mời các vương, rồi nói:

– Đây là trà Liên Hoa, một giống trà quý chỉ trồng ở vùng núi Thanh Sơn do quan huyện Đồng Hỷ dâng ngự. Huynh đệ thưởng thức để biết hương vị. Trẫm cũng cho gói sẵn mỗi gói vài cân để mọi người mang về dùng.

Các vương đồng thanh đáp:

– Đa tạ long ân.

Vua giơ tay ra dấu im lặng, ngài trầm ngâm giây lát rồi cất lời tâm huyết:

– Thế nước ngày một chông chênh trước áp lực dữ dội của Nguyên triều, khiến trẫm đêm ngày lo nghĩ. Nghĩ càng thêm tức, nhớ năm mới đăng quang, Hốt Tất Liệt gửi chiếu sang phong trẫm làm Nam Quốc vương và tặng cho ba tấm gấm tây, sáu tấm gấm kim thục. Vậy mà tháng trước chúng sai người đem thư sang hạch sách lễ khánh hạ, đòi hai trăm tấm tơ An Thái, một trăm tấm lụa Vĩnh Bảo, mười đôi chim trĩ, sáu cặp ngà voi, sáu chiếc sừng tê, lại còn nhăm nhe mượn đường đánh Chiêm Thành. Chúng vẫn buộc ta phải thực hiện sáu điều khoản nhục nhã mà bất cứ bậc quân vương còn chút liêm sỉ đều không thể chấp nhận. Lòng tham của chúng ghê gớm hơn Hán, Tùy, thủ đoạn của chúng thâm hiểm hơn Đường, Tống. Vậy các khanh có kế sách gì khả dĩ đối phó?

Quang Khải dõng dạc lên tiếng:

– Tâu bệ hạ, theo thần không nên đáp ứng đòi hỏi của Nguyên triều, ta cứ vin cớ nước đang hạn hán mất mùa, dân chúng đói kém, kho tàng trống rỗng, muông thú trên rừng cũng chết khát hết, nên chỉ có vài chục tấm lụa làm cống phẩm. Đồng thời tăng cường tích trữ lương thảo, tuyển quân, rèn binh, chủ động đề phòng chúng đánh bất ngờ.

Ích Tắc đề xuất hướng cầu an, chấp nhận nhường nhịn bằng mọi giá:

– Ta là nước nhỏ yếu, họ là Đại Nguyên lớn mạnh, đến ngay như Nam Tống còn hơn ta gấp bội mà chống không nổi bị họ tuyệt diệt rồi đó. Vậy nên chẳng ta cứ hòa dịu đáp ứng yêu sách của họ để đổi lấy yên bình?

Hưng Đạo hùng hồn đáp trả thái độ nhu nhược của Ích Tắc:

– Chiêu Quốc nói vậy mà nghe được sao? Nam Tống bị diệt vong chẳng qua vua hèn, tướng mạt, một quốc gia có muôn triệu người mà tôi trung đếm không quá mười ngón tay. Đại Việt ta vua tôi đồng lòng, quân dân vững chí, quân không nhiều nhưng tinh, dân không đồng nhưng dũng, mấy năm được mùa nên thóc gạo đầy kho, ân mưa móc thấm nhuần khắp cõi khiến trăm họ vui đời thịnh trị, vậy thì hà cớ gì phải run sợ giặc Thát? Đáp ứng đầy đủ cống phẩm lần này thì lần sau chúng sẽ đòi hỏi nhiều hơn, bấy giờ biết lấy gì mà cống nạp? Còn việc cho mượn đường thì chẳng khác nào dâng nước cho giặc để chúng chiếm làm châu quận mà không thiệt một tên tốt. Đích ngắm của chúng chưa hẳn là Chiêm Thành xa xôi mà dứt khoát là Đại Việt ta đó, chớ cả tin vào lũ hùm beo kẻo hổ thẹn với tổ tông xã tắc.

Quốc Khang đề đạt yêu cầu:

– Lời của Quốc Tuấn chí phải. Không thể cho mượn đường. Tâu bệ hạ, thần phụng mệnh trấn giữ Diễn Châu, nếu ta không cho mượn đường, giặc Nguyên ắt dùng đường thủy đánh Chiêm rồi uy hiếp Bố Chính, bấy giờ phương nam sẽ lâm nguy, vậy xin chuẩn tấu cho thần được tuyển thêm năm ngàn binh để tăng cường phòng bị.

Thánh Tông nói:

– Ta chuẩn tấu cho huynh. Nhưng chớ dùng ngân khố vào việc riêng đấy.

Biết hoàng thượng nhắc khéo về việc dựng phủ đệ nguy nga ở Diễn Châu, Quốc Khang cười xuề xòa và chữa thẹn bằng lối nói đùa của anh em trong nhà:

– Đệ làm vua mà so đo với huynh quá. Chung quy huynh cũng biết sửa lỗi đấy chứ, nên dân gian cũng có thêm chỗ để thắp hương cúng Phật, thế là tốt rồi.

Sợ quân thần sa đà vào chuyện bông lơn, Hưng Đạo vội lên tiếng:

– Khởi bẩm bệ hạ, việc phòng bị quốc gia phải lo nhiều hướng, hướng nam đã có Quốc Khang trù liệu, còn hướng tây bắc đã có Chiêu Văn trấn giữ, nhưng cũng cần chiêu dụ các trại chủ miền núi để tạo thế ỷ giốc sau này. Theo thần nên cấp thêm kinh phí cho Nhật Duật để đệ ấy giao hảo thuận lợi với các thủ lĩnh địa phương.

Thánh Tông đáp ứng:

– Ta chuẩn thuận.

Rồi ngài hỏi tiếp:

– Nhưng còn hướng đông bắc thì sao, ai đứng ra gánh vác?

Mọi người đều im lặng vì nghe vua hỏi vậy nhưng lại thấy ngài nhìn Quốc Tuấn. Vương né Quan gia mà hướng mắt về phía Quang Khải. Vua ngầm hiểu ý, bèn phán:

– Thôi được rồi, vùng đông bắc là địa bàn trọng yếu, ta giao cho Chiêu Minh và Hưng Đạo hợp lực tổ chức phòng địch. Ngoài ra ta phong cho Chiêu Minh làm Tướng quốc Thái úy điều hành mọi việc trong nước, còn Hưng Đạo tấn phong chức Quốc Công Tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước. Khi về Thăng Long sẽ thiết triều ban chiếu.

Ích Tắc thấy vua không đả động đến mình, có vẻ không hài lòng, song chẳng dám nói gì thêm. Khi thấy Hưng Đạo nháy mắt, Nhật Duật vội lên tiếng:

– Thần muốn thỉnh cầu một việc, chỉ sợ bệ hạ phật ý nên chần chứ không dám nói.

– Đệ muốn yêu cầu gì thì cứ nói, anh em một nhà cả, nếu không phải ta cũng bỏ qua cho.

Được nhà vua khích lệ, Chiêu Văn bày tỏ:

– Thần trộm nghĩ, nước có cường thịnh trước phải ở lòng dân chung sức, quân có tinh nhuệ trước phải cậy tướng tài. Nay tướng cầm quân ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ có mấy vị vương hầu, còn đầu lĩnh các vệ, các lữ không nhiều người giỏi, một vài người tinh thông võ nghệ nhưng mù mờ binh pháp. Trông cậy vào đám võ sinh trong họ để bù vào chỗ thiếu hụt thì khó mà chu toàn đại nghiệp. Thần thỉnh cầu bệ hạ cho phép mở cửa Giảng Võ để tướng sĩ ngoại tộc đến học hỏi binh thư, ngoài ra cho tuyển dụng người tài trí trong thiên hạ đến rèn luyện. Nếu được vậy lòng dân càng phấn khởi, quân đội càng vững mạnh.

Thánh Tông trả lời:

– Ta cũng thấy khả năng của bọn võ sinh rồi. Song nhận người khác họ vào Giảng Võ sẽ trái với thông lệ do Thượng hoàng đề ra, điều này khó nghĩ đây. Vậy ý của Quang Khải thế nào?

Nghe vua hỏi, Chiêu Minh thoáng nghĩ:

– Chắc do Hưng Đạo bày vẽ thì Chiêu Văn mới lập luận được như vậy. Nhưng dù sao huynh ấy cũng vì vận mệnh nước nhà, chẳng lẽ ta lại hẹp hòi ngăn cản khi đã chứng kiến tận mắt màn diễn võ của đám trẻ nội tộc.

Ngài mạnh dạn bộc bạch:

– Thần nghĩ luật lệ là do con người đặt ra, cứ giữ khuôn sáo mà không thay đổi sẽ khó theo kịp thời thế. Hai chục năm trước Thượng hoàng lập Giảng võ đường thì áp lực của Nguyên Mông không lớn như bây giờ. Nay ta cần nhiều tướng giỏi về võ nghệ lẫn binh thư mới có khả năng đối phó với địch. Nếu xã tắc cầu tài, bệ hạ cho thứ dân vào học Giảng võ thì chắc Thượng hoàng cũng không nỡ trách.

Nhà vua truyền bảo:

– Việc này cũng có thể được, ta sẽ lựa lời thuyết phục Thượng hoàng. Chiều nay có viên tiểu tướng múa thương phá giặc lửa rất tài nghệ. Nghe nói là môn khách nhà Hưng Đạo, nếu vương không phiền lòng thì ta cử hắn làm Phó quản vệ Thánh Dực. Đêm đã khuya, các khanh về nghỉ.

– Thần phụng chỉ.

Hưng Đạo đáp rồi cùng các vương bái tạ hoàng thượng.

Sáng hôm sau, khi Trần Quốc Tuấn cùng đoàn tùy tùng chuẩn bị khởi hành trở về Vạn Kiếp thì có người chạy đến mời ngài qua chùa Phổ Minh gặp Thái thượng hoàng. Hưng Đạo vội vã sang chùa, mới vào đến sân đã nghe giọng tụng kệ của Thái Tông hòa trong tiếng mõ cốc cốc.

Sắc đêm vừa hừng sáng Ban mai rạng thinh không. Tóc xanh giờ điểm trắng Còn đâu vẻ tươi hồng Sao tuổi xuân đà ngắn? Bởi nghiệp quả tranh hùng.Dạ sắc sơ phấn hiểu Thần quang tiệm xuất không. Ám thôi tân phát bạch Tiệm cải cựu nhan hồng. Bất giác niên hoa xúc Do tranh nghiệp quả hùng.

Hưng Đạo đứng lặng người, không dám bước vào chính điện. Có cảm giác Thượng hoàng mượn lời kệ nhắc nhở mình, lòng xúc động mãnh liệt khiến con tim của Vương nghẹn ngào khôn tả. Nhiều năm trước, khi ngài còn ở ngôi, Vương đã bộc bạch tâm tư cả rồi, sao bây giờ Người lại dùng ẩn ý răn đe chuyện tranh giành hơn thua? Quốc Tuấn này từng thề nguyện một đời rũ sạch oán cừu để trọn đạo quân thần và tận trung báo quốc, mà nay Người vẫn chưa tin ư? Giang sơn của muôn dân, đại nghiệp của họ Trần, Quốc Tuấn cũng người họ Trần, thà một lần đắc tội với vong linh cha chứ nhất quyết không tranh hùng mà gây chuyện nồi da xáo thịt để trăm họ oán thán, để sử xanh nguyền rủa.?

– Sao đứng dưới nắng khiến mồ hôi ướt đầm thế kia. Vào đây cho mát.

Lời của Thái Tông làm Hưng Đạo tỉnh trí, vội cúi đầu vái rồi rảo gót theo ngài vào trai phòng.

Thái Tông vận đồ tu hành màu nâu đất, chân đi giày vải, tay phe phẩy quạt nan, đưa Hưng Đạo sang căn phòng nhỏ có chiếc giường đơn kê sát góc, một bàn trà và hai cái ghế bài trí giữa nhà, một kệ gỗ áp tường chứa đầy kinh sách và bộ nghiên bút đơn sơ đặt trên cái án thư mộc mạc. Thấy Hưng Đạo đưa mắt nhìn quanh, Thái Tông giải thích:

– Đây là nơi ta ở mỗi lần vào chùa tụng kinh niệm Phật, chẳng nên cầu kỳ làm gì, sống thanh tao để lòng nhẹ nhõm.

Rồi ngài sai tiểu đồng lấy khăn mát cho Hưng Đạo lau mặt và tự rót trà mời. Vương hốt hoảng xua tay:

– Bẩm Thượng hoàng, thần không dám. Xin để bầy tôi rót nước dâng Người.

Thái Tông cười mà rằng:

– Đây là chỗ thiền môn, không cần câu nệ lễ nghĩa vua tôi. Ta cứ xưng hô chú cháu cho gần gũi.

Hưng Đạo không thể nói gì thêm, đành phục tùng đáp lại:

– Thưa chú, vâng ạ.

Màn dạo đầu thân mật của Thượng hoàng khiến Vương yên lòng. Thái Tông bắt đầu vào chuyện:

– Ban nãy chú mới nghe hoàng thượng thông báo việc giao cho cháu trọng trách Tiết chế. Như vậy cháu nắm quyền thống lĩnh toàn quân đấy. Hoàng thượng biết dùng người là cái phúc của xã tắc. Cháu xứng đáng nhận chức, nhưng chú cũng muốn biết cảm nghĩ của cháu về việc này?

Bây giờ Hưng Đạo mới vỡ lẽ, thì ra Thượng hoàng thăm dò thái độ của Vương cũng vì cái chức Tiết chế mới được quan gia chỉ dụ bằng miệng. Hẳn ngài chưa thật yên lòng về chuyện cũ. Có lẽ nỗi ám ảnh từ cuộc nổi loạn ở sông Cái năm Đinh Dậu (1237) khiến ngài phải lánh lên Yên Tử đã có lý do để trỗi dậy, khi con trai của người anh tạo phản năm xưa được trao quyền thống lĩnh quân đội. Lòng quặn đau bởi sự dao động niềm tin của Thượng hoàng đối với mình, Hưng Đạo thốt ra những lời chân thành nhất:

– Thưa chú, được chú và hoàng thượng tin tưởng giao trọng trách, đấy là niềm hãnh diện lớn lao của cháu. Thiết nghĩ, cháu chỉ có thể tận tụy với công việc thì mới mong báo đáp được phần nào hoàng ân. Vậy chú cứ yên lòng, cháu sẽ nỗ lực vì đại cuộc mà phò vua giúp nước cho đến ngày lìa bỏ cõi đời.

– Rất tin tưởng, tin tưởng tuyệt đối. Chức Tiết chế là điều tiết việc binh, chế ngự và cai quản quân đội, sao cho hùng mạnh mà kỷ cương, tinh nhuệ mà khuôn khổ, tướng phải thông, binh phải nhọn, thì mới khả dĩ đánh đâu thắng đó. Phàm làm tướng mà không tiết chế được ham muốn phi nghĩa, không kìm nén được danh vọng phi luân, bất trung với vua, bất chính với nước, bất nhân với binh sĩ thì sớm muộn cũng bị báo ứng. Như thân ta, cả tuổi thanh xuân mải mê tranh bá đồ vương, nay sức cùng lực kiệt mới biết xa lánh hư danh mà tìm về cửa Phật, giờ ngồi ngẫm lại mới thấy có nhiều việc không nên làm, có nhiều điều không nên thái quá. Mong cháu ghi nhớ tâm huyết này như một lời khuyên chân tình của người chú ruột thịt không còn ham hố phù du trần thế.

– Thưa hoàng thúc, cháu xin ghi lòng tạc dạ. – Hưng Đạo cảm động trước lời chỉ bảo của Thái Tông.

– Chú còn nghe nói Nhật Duật xin mở cửa Giảng Võ cho thứ dân vào học, ý cháu thế nào?

– Dạ thưa, được vậy thì tốt lắm. Nay ta thiếu người tài giỏi điều hành việc quân, cần phải tổ chức gấp, nếu để trễ thì khi có họa xâm lăng sẽ trở tay không kịp.

– Cứ vậy đi, nhưng cần có thầy giỏi thì trò mới nên người. Ngoài ra phải chú trọng việc dạy binh pháp, kẻo đào tạo ra một đám hữu dũng vô mưu thì khốn.

– Cháu có soạn một cuốn binh thư phù hợp với điều kiện nước ta. Tiện mang theo đây nên dâng chú xem trước, nếu Người thấy được thì xin cho giảng ở võ đường.

Nói rồi, Hưng Đạo lấy trong ngực ra một cuốn sách dày hơn đốt tay, kính cẩn trao cho ông chú.