Chương 4 Giảng Võ đường, tiểu sinh trợ nghĩa bạn đồng môn
Mai Lâm thôn, nam tử nặng tình nữ dị tộc
Phạm Thái vốn người huyện Thiên Thi, lộ Khoái Châu, chàng trai trẻ nhất trong nhóm thám báo có dáng vóc mảnh dẻ thư sinh nhưng cơ bắp rắn chắc như gỗ đá, với tính tình hòa nhã vui vẻ và một trái tim lạc quan yêu đời. Theo gia phả, Thái là dòng dõi chín đời của đại tướng quân Phạm Hạp thời nhà Đinh, người đã giữ trọn tấm lòng sắt son với đế nghiệp của Đinh Tiên Hoàng nên bị giết khi triều đại đổi thay. Con cháu ông từ đấy rời xa triều chính, không màng thế sự để sống đời nông phu chân lấm tay bùn từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy vậy, trải hàng trăm năm trong huyết quản Pham gia vẫn lưu truyền chí khí anh hào của tổ tiên, vẫn âm thầm gìn giữ bí quyết võ thuật truyền thống. Đấy là điều thiên hạ đồn đại, ai không tin thì người ta sẽ kể câu chuyện Phạm Ngũ Lão đầu quân Hưng Đạo Vương làm minh chứng.
Một lần Ngũ Lão ngồi đan sọt, vì mải nghĩ binh thư mà không hay biết Đại Vương và đoàn tùy tùng đi qua nên bị quân lính dẹp đường lấy giáo đâm rách đùi. Kẻ bị đâm chảy máu đầm đìa nhưng vẫn bình thản chẳng hề biến sắc mặt, người ấy không tinh thông võ nghệ thì cũng cao thủ khí công, không anh hùng thì cũng hảo hán.
Biết người này là bậc khí phách, Hưng Đạo Vương mời về làm môn khách trong nhà. Chừng đâu được ít tháng, một hôm Ngũ Lão nói với gia chủ:
– Từ ngày đến tựa cửa nhà ngài, tiểu nhân thấy mình vô dụng quá, sớm tối rượu thịt no say rồi lại cùng mấy gã nhàn hạ ngồi đàm luận chuyện trời trăng mây nước, mà chẳng giúp được gì cho Đại Vương. Tiểu nhân không thiết làm môn khách nữa, hay là ngài cho kẻ hèn mọn này theo làm bầy tôi, trông nom dăm tên gia binh cũng được?
Hưng Đạo cười đáp:
– Tân khách mới đến nhà được mấy tháng, có người ở đây hơn ba năm rồi cơ. Bây giờ trông nhàn nhã thế nhưng khi hữu sự thì họ đều là kẻ tài trí cả đấy. Riêng Ngũ Lão không xứng làm tôi tớ ở đây mà phải có vị thế cao hơn chứ.
Vì mến mộ tài đức của Phạm Ngũ Lão nên Hưng Đạo Vương chủ ý để ông trình diễn võ thuật mừng thọ Thượng hoàng coi như một cách tiến cử nhân tài với triều đình, còn thuận lòng trao lá ngọc cành vàng trong nhà về nâng khăn sửa túi cho đấng mày râu có tương lai sự nghiệp hiển hách.
Thái là cháu ruột gọi Phạm Ngũ Lão bằng chú. Cha mẹ sớm qua đời, cậu sống cùng ông bà và các chú trong một mái nhà đầy ắp tình thương yêu. Sau ngày thúc phụ được Hưng Đạo cất nhắc, trở thành môn khách trong hương ấp Vạn Kiếp và được ngài dàn xếp gả con gái cho, dòng họ Phạm lại nở mày nở mặt, càng thôi thúc đám con cháu luyện tập võ nghệ, hy vọng khôi phục nghiệp đao kiếm.
Song vốn có dòng máu nghĩa khí, con cháu họ Phạm nhất quyết không cầu cạnh tiến thân mà cố gắng dùng năng lực của mình để vươn tới công danh sự nghiệp. Phạm Thái cũng vậy, khi ông chú đã làm đến chức Phó quản quân Thánh Dực thì cậu ta cũng chẳng cần nhờ vả mà lẳng lặng lên kinh thi tuyển vào Giảng võ đường.
Từ ngày Giảng Võ thu nhận con em bách tính vào học, cứ hai năm một lần tổ chức thi thố sức lực và quyền cước để lấy vài chục người xuất sắc nhất. Trải ba vòng tỉ thí, với tố chất võ nghệ cơ bản kết hợp sự dẻo dai của nhà nông, Phạm Thái dễ dàng vượt qua và vươn lên nhóm đầu trong số hai mươi bảy người trúng tuyển năm ấy. Tuy ăn học ở kinh thành nhưng Thái không mấy khi qua quân doanh thăm chú. Cậu ngại điều tiếng có chỗ dựa là ông chú làm tướng triều đình.
Khi quý tộc và thứ dân học chung một trường thì khó tránh khỏi việc chia bè kết nhóm theo giai tầng. Ở Giảng võ đường cũng thế, đám võ sinh con cháu vương hầu coi rẻ đồng môn khác họ, thường kéo đảng ức hiếp những người không cùng dòng máu. Một số kẻ biết thân phận chẳng thể đối đầu với đám con quan nên cố nín nhịn. Một số đứa có khí phách, không chấp nhận bị làm nhục cũng lập hội để bảo vệ lẫn nhau. Thế là xảy ra xung đột, dẫn tới những trận ẩu đả tơi bời, có lúc còn hẹn nhau ra bãi sông Hồng để đấm đá cho thỏa thích. Một điều lạ là tuy giải quyết mâu thuẫn và sĩ diện cá nhân bằng vũ lực, song giữa chúng có thỏa thuận ngầm là chỉ đánh nhau bằng tay không, nhất quyết không dùng vũ khí. Chúng cho rằng như thế mới quân tử, đồng thời tránh họa sát thương dẫn đến việc triều đình bắt tội.
Tất nhiên Phạm Thái thuộc phe bình dân và luôn góp mặt trong các trận thư hùng niên thiếu. Bấy giờ đã sang năm học thứ hai, ở cái “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu”, với sức vóc rắn rỏi, võ nghệ nổi trội và tính cách trượng nghĩa, Thái được anh em nể phục, suy tôn làm thủ lĩnh.
Chuyện xảy ra bắt đầu từ việc tranh giành tình cảm nam nữ giữa những cậu trai ngấp nghé trưởng thành. Trong nhóm của Thái có anh bạn tên Trọng Phúc vốn người đào hoa nên chiếm được cảm tình của Thị Huệ, cô gái vào độ trăng tròn người làng Quảng Bá ven Tây Hồ, thường giúp mẹ bán hàng ở quán nước gần Giảng Võ. Một đóa hoa xinh tươi nhưng lại có hai người muốn chiếm thì khó tránh khỏi mâu thuẫn.
Kẻ thứ hai là võ sinh Lương Nhân Hầu Trần Hữu Tiệp, con Viên ngoại lang Bảo Trung Vương vốn thuộc tôn thất nhà Trần. Tướng mạo thô thiển, tính khí cục cằn, nhưng ỷ thế con quan nên Lương Nhân Hầu chẳng coi ai ra gì, động một tí là giở đấm giở đá đe nẹt người khác. Người như thế trách sao không chinh phục được con nhà hiền lương như Thị Huệ, cho dù hắn dùng đủ chiêu trò tán tỉnh. Thấy Trọng Phúc thường lui tới quán nước lại được thục nữ tiếp đãi ân cần khiến Hữu Tiệp không khỏi đem lòng thù hận.
Một lần chàng trai thứ dân từ trong quán bước ra liền bị bọn thiếu niên quý tộc do Tiệp cầm đầu sinh sự đòi đánh. Biết một mình không thể địch nổi năm đứa nên Phúc đành bỏ chạy. Thế là đám võ sinh hoàng tộc được thể bóp méo sự thật, rêu rao khắp trường “Mấy thằng khố rách hèn nhát, thấy biến là tháo chạy thoát thân. Ngữ này chỉ giỏi ăn hại cơm gạo triều đình chứ làm nên trò trống gì”. Biết chuyện, Phạm Thái bàn bạc với anh em rồi hẹn quyết đấu sòng phẳng một chọi một để phân định hơn kém.
Buổi chiều hôm sau cả đám kéo nhau ra bãi sông Hồng chứng kiến trận tỉ thí giữa Trọng Phúc và Hữu Tiệp. Hai bên cam kết không đánh bè, kẻ nào thua phải từ bỏ tình cảm với Thị Huệ và cấm lai vãng đến quán nước. Gần ba chục đứa quay vòng tròn như xem chọi gà, hò hét cổ vũ cho người của phe mình.
Hai gã trai sàng qua sàng lại rồi lao vào nhau đấm đá túi bụi bằng đủ ngón nghề thuần thục. Hữu Tiệp to con tuy có cú đấm trời giáng nhưng ra đòn chậm chạp. Trọng Phúc nhỏ hơn song biết né tránh linh hoạt và phản công lại bằng các thế võ hiểm hóc nên từng bước chiếm ưu thế. Bị một cú đạp trúng ngực, Tiệp loạng choạng muốn ngã, bị dồn vào thế thua, hắn bèn rút con dao nhọn giấu sau lưng nhằm bụng Phúc đâm thẳng. Thấy bạn gặp nguy, Phạm Thái nhảy vọt tới, dùng chân đá văng con dao trên tay gã tiểu nhân quý tộc. Cú đá mạnh đến nỗi xương cánh tay của Tiệp bị gãy, khiến hắn đau quá nằm vật xuống đất kêu váng làng nước.
Viên ngoại lang đâm đơn kiện kẻ đánh con ngài bị thương tật. Thẩm hình viện bắt Phạm Thái về giam chờ ngày xét xử. Nghe tin cháu bị nhốt trong ngục, Phạm Ngũ Lão đem lễ vật đến nhà Bảo Trung Vương xin nương tay cho cháu, song không được ngài tiếp. Việc chẳng đặng đừng, tiện có Hưng Đạo Đại Vương lai kinh chầu vua, Ngũ Lão đành muối mặt trình bày sự vụ với bố vợ. Nghe xong chuyện, Đại Vương bèn mắng hiền tế:
– Ngươi là tướng triều đình mà mặc con cháu làm càn thì quá lắm. “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, ngươi không biết dạy cháu khuôn phép thì cứ để luật triều trừng trị cho biết thân.
Ngũ Lão hoảng quá phải phân trần:
– Bẩm nhạc phụ, thằng cháu nhà con tuy là đứa vũ dũng nhưng biết lễ nghĩa, chưa hề hung hăng, bạo ngược với ai. Con nghĩ trong chuyện này nó không hẳn là kẻ sai quấy hoàn toàn.
Hưng Đạo vẫn làm mặt nặng:
– Ta không hứa gì cả. Tội nó đến đâu thì trị đến đó.
Tuy Vương nói vậy, song ngài vẫn cho Đào Thế Quang bí mật đi điều tra sự tình.
Thế Quang dò la trong đám võ sinh và mẹ con bà chủ quán nước rồi bẩm báo với Đại Vương nguyên do đánh nhau dẫn đến thương tích. Khi nắm rõ hành vi ức hiếp người khác của đám con em hoàng tộc và tinh thần trượng nghĩa cứu bạn mà gây nên họa của Phạm Thái, ngài bèn quá bộ sang Thẩm hình viện rồi lại ghé chơi nhà Viên ngoại lang Bảo Trung Vương. Biết tin đứa cháu chỉ bị phạt đánh hai chục roi và giam một tháng, ông chú ruột vui vẻ thốt câu “Ơn trời có mắt”.
Về sau triều đình xuống lệnh: Võ sinh tham gia đánh nhau thì bất kể là ai đều bị phạt hai mươi roi, sau đấy mới xem xét phải trái. Nạn đánh nhau từ đó giảm hẳn.
Nể phục cú đá uy lực của cậu trai hiệp nghĩa, sau này chính Thế Quang đã đề đạt với Đại Vương tiếp nhận Phạm Thái về vương phủ. Nửa năm sau, Thái được ngài tuyển chọn tham gia vào đội thám báo do Thế Quang làm nhóm trưởng.
Lại nói về sự khó ngủ của ba chàng thám tử sau cuộc bàn tính tìm đường về nước cấp báo tin quân Nguyên động binh. Thế Quang và Đỗ Thành khó ngủ đã đành, Phạm Thái không ngủ được vì có uẩn khúc trong lòng mà chẳng dám thổ lộ với ai. Đêm ấy, được nghe Đỗ Thành giãi bày tâm sự, Thái về giường nằm trằn trọc mãi, phần thì cảm thông nỗi niềm của huynh, phần lại cám cảnh nỗi khổ của lòng mình. Nguyên do từ chuyện vướng bận tình cảm với nữ nhi ngoại tộc mồ côi cha mẹ hiện sống cùng người ông ở thôn Mai Lâm dưới chân núi Phục Lĩnh.
Quan hệ trai gái với người của nước đối phương là điều cấm kỵ trong nguyên tắc làm gián điệp mà Thái được học từ “Binh thư yếu lược”. Song khi lòng rung động thì chàng ta lại cho rằng trong nguyên tắc cũng cần có trường hợp linh động. Sau nhiều ngày bối rối, cuối cùng Thái chấp nhận lý lẽ của con tim, với niềm tin dứt khoát không để chuyện tình cảm làm tổn hại đến nhiệm vụ đang gánh vác.
Núi Phục Linh là một nhánh của dãy Vân Khai Đại Sơn, nơi quần cư của tộc người Tráng Nùng, sinh sống bằng nghề trồng lúa trên ruộng bậc thang và chăn thả gia súc. Họ là một dân tộc yêu tự do, không chấp nhận sự cai trị của người Hán nên thường xuyên nổi dậy chống đối.
Vào thời Tống, một thủ lĩnh tên là Nông Trí Cao đã lãnh đạo người Tráng khởi nghĩa đòi quyền tự chủ. Tuy thất bại nhưng tinh thần quật cường của ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc. Người Tráng phương nam cho rằng Trí Cao thuộc chi của mình nên muốn đề cao họ của ông để lưu truyền tinh thần bất diệt, thế là họ Nông nghiễm nhiên thành họ lớn nhất trong tộc. Do chữ Nông còn được phát âm là Nùng nên người ta tự nhận mình là người Tráng Nùng. Ở bản Mai Lâm với hơn năm chục nóc nhà mà có tới ba phần tư là nhà họ Nông, tuy không phải mọi nhà đều là bà con ruột thịt của nhau.
Mọi chuyện bắt đầu từ lần gặp gỡ tình cờ hơn một năm trước giữa chàng thám tử Đại Việt với ông lão chăn dê Tráng Nùng. Lần ấy Thế Quang nghe nói quân Nguyên mới lập mấy trại ngựa quanh vùng nên cử Phạm Thái đi tìm hiểu. Thái gánh bộ dạo khắp bản trên xóm dưới trong vai thương lái tìm mua thuốc bắc để dò hỏi tin tức về các trại ngựa. Chàng xác định được chỉ riêng vùng phía nam Tả Giang đã có ba trại, mỗi trại nuôi khoảng ba trăm đến năm trăm con ngựa thồ, nguồn cung cấp chính từ việc cưỡng ép thu mua với giá rẻ mạt ngựa nuôi của cư dân trong vùng. Đây là giống ngựa to khỏe, ức nở, chân lớn, thích nghi với điều kiện núi non, là phương tiện thồ hàng chủ yếu ở vùng cao.
Sau nhiều ngày lang bạt, Thái nhiễm mưa gió nên bị cảm mạo. Chàng quyết định quay về nhưng kiệt sức bước không nổi, đành chui vào hốc núi nằm nghỉ, rồi mê man bất tỉnh. Trời ngả chiều, có ông lão lùa đàn dê ngang qua tình cờ phát hiện một người nằm co ro trong hõm đá bèn tới gần xem thử. Thấy chàng trai mắt nhắm nghiền, mặt mũi tím tái, toàn thân run bần bật, biết kẻ lạ ốm nặng ông liền bỏ đi rồi quay lại cùng với một thiếu nữ và một con ngựa. Họ khiêng Thái nằm vắt lên mình ngựa và lấy dây cột lại. Cô gái tay dắt ngựa, vai quảy bồ, ông lão lùa dê, đưa người xa lạ về bản.?
Phạm Thái tỉnh lại trên chiếc phản kê gần bếp lửa trong một ngôi nhà sàn của hai người không quen biết. Mồ hôi đầm đìa cơ thể, người đỡ sốt nhưng vẫn mệt rũ, chàng nhổm dậy nhìn ngơ ngác. Người đàn ông trạc ngoại lục tuần, mặc bộ đồ vải bông nhuộm đen truyền thống, đem lại cho chàng một bát nước rót từ cái siêu bằng đất, rồi bảo:
– Cậu bị mê man trên núi, ta và đứa cháu đưa về. Thuốc này sắc từ lá rừng, uống vào sẽ khỏi bệnh.
Thái cầm bát nước, miệng mấp máy “Xin đa tạ”, ghé môi nhấp thuốc, biết vị lành bèn uống cạn. Cô gái trẻ múc đồ ăn trong chiếc nồi đồng treo trên bếp lửa, để trước mặt Thái một tô cháo hầm thịt dê rồi nói nhỏ “Ăn đi, cháo nóng đấy”. Thiếu nữ mặc áo ngắn năm thân bó sát bộ ngực căng đầy, cái bẩu qạ đội đầu để hở búi tóc được cài bằng trâm bạc sáng lấp lánh, chiếc váy xếp nếp xòe ra che gần hết đôi bàn chân trắng muốt khi nàng ngồi xuống phía đối diện nhìn chàng trai ăn cháo. Ánh lửa rọi vào khuôn mặt đôi tám xinh xắn làm cặp má của nàng ửng lên sắc đào khiến kẻ ốm cũng thấy xốn xang. Chờ Thái ăn xong, người lớn tuổi hỏi:
– Cậu đi đâu mà qua vùng này?
Thái đã nghĩ sẵn câu trả lời:
– Dạ thưa ông, cháu buôn bán dược liệu, thường đi đây đó tìm mua các vị thuốc. Thưa, còn gánh bồ của cháu…
Ông lão nói:
– Đem về đây rồi, để dưới gầm sàn. Cậu mặc giống ta nhưng nghe giọng không phải người Tráng. Vậy cậu người ở đâu, tên gì?
Nhằm tránh bị dòm ngó, ba anh em thường ăn vận giống dân bản địa. Thái cảm nhận ông lão là người tử tế, có những điều nên nói thật.
– Cháu tên họ Phạm Thái, người phương nam ở nước Đại Việt, qua bên này làm ăn.
Ông cụ nhíu mày ngẫm nghĩ rồi nói:
– Tức cậu là người Keo. Nghe nói phải qua ba con sông, năm ngọn núi mới tới đất của người Keo.
Ở lâu trong nhà người không quen biết ắt bất tiện, Thái định cáo từ, nhưng vừa đứng lên thì mặt mày xây xẩm, đôi chân không trụ vững, loạng choạng ngã ngồi xuống tấm phản. Đoán được ý định của chàng trai, ông cụ liền bảo:
– Cậu chưa khỏi bệnh đâu, đêm hôm tăm tối đi đâu được. Cứ ngủ lại đây rồi mai tính.
Thế là ngủ lại một đêm thành ra năm đêm, phần vì bệnh lay lắt, phần nữa vì mến mộ lòng hiếu khách của ông lão chủ nhà và quyến luyến tấm chân tình của cô cháu gái dành cho chàng, Thái nghĩ mình tốt số, gặp cơn đau ốm giữa chốn hoang vu may có quý nhân phù trợ.
Qua mấy ngày làm khách, chàng được biết ông lão tên Nông Trí Tào, con trai bị nhà Nam Tống bắt phu, nghe nói chết ở Thường Châu khi quân Nguyên chiếm thành, hai năm sau nàng dâu qua đời vì bạo bệnh, để lại cho ông đứa cháu gái lên tám tên là Nông Thanh Khê. Từ đấy ông thay cha mẹ nuôi cháu, đến bây giờ Thanh Khê đã lớn khôn, biết đỡ đần ông mọi việc trong nhà. Thái cũng tâm sự về cảnh ngộ mồ côi của mình, được ông bà và các chú nuôi dạy nên người. Sự đồng cảm về hoàn cảnh đã phát sinh mối giao tình, ban đầu còn ngại ngùng về sau có chiều thân thiết, đôi trai tài gái sắc xem ra tâm đầu ý hợp.
Ông kể “Do mẹ nó đẻ rơi bên bờ suối nên đặt tên là Thanh Khê”. Nàng bảo “Khi được mẹ sinh ra, vì da trắng như nước suối nên cha đặt tên Thanh Khê”. Thái nghĩ “Dù nguyên do thế nào thì tên Thanh Khê rất hợp với nàng, người con gái có dung nhan tươi sáng và tâm hồn trong trắng”. Tuy không còn ý nghĩ là kẻ ăn nhờ ở đậu mà cảm giác như đang ở trong ngôi nhà thân quen, nhưng Thái vẫn phải ra đi. Ngày lên đường, đôi bạn trẻ trao nhau ánh mắt lưu luyến, chàng hẹn với nàng “Có dịp huynh sẽ về thăm”. Ông lão chu đáo cho vào bồ của Thái một ống cơm lam và hai miếng thịt sấy gói lá chuối để ăn dọc đường.
Trở về trấn Hồ Biên, vừa bước vào nhà, thấy bộ mặt sa sầm của các huynh, Thái biết hai người đang buồn tức. Chú em chưa kịp mở lời, Thế Quang đã cất giọng nặng trịch:
– Đệ đi những đâu, làm những việc gì mà hôm nay mới trở về?
Theo giao ước của nhóm, ai đi đâu, làm gì thì tối đa cũng chỉ mười ngày là phải trở về để người khác đỡ lo, vậy mà hôm nay đã sang ngày thứ mười hai, kể từ hôm Thái quảy bồ đi thám thính trại ngựa. Biết các huynh lo lắng cho mình, Thái thật thà trần tình sự việc: nào là điều tra ra ba trại ngựa, nào là bị ốm nặng dọc đường rồi được một ông lão đem về nhà cứu chữa. Riêng tình tiết trong nhà ân nhân có cô thiếu nữ xinh đẹp thì chàng giấu nhẹm.
Đỗ Thành đã tươi sắc mặt, nói cười thân mật với cậu em:
– Quá hẹn đệ không về làm anh em ở nhà đứng ngồi không yên. Muốn đi tìm cũng chẳng biết ở đâu mà tìm.
Thế Quang dịu giọng an ủi Phạm Thái:
– Họa trước phúc sau, coi như may mắn rồi, lại còn phát hiện ra ba trại nuôi ngựa thồ, thế là được việc đấy.
Đỗ Thành thắc mắc:
– Đệ chưa hiểu, tại sao ta phải dò la trại ngựa?
Thế Quang giải thích:
– Biết được quân Nguyên lập trại ngựa, nuôi bao nhiêu con, loại ngựa gì, từ đó mà phán đoán ý đồ của chúng. Nếu nuôi ngựa chiến thì ước lượng ra số kị binh, nếu nuôi ngựa thồ thì tính toán được số lương thảo vận chuyển. Biên cương ngăn cách hai nước toàn núi non trùng điệp, chúng muốn kéo vào Đại Việt ta bằng đường bộ thì không thể không nghĩ tới việc dùng ngựa thồ tải lương là thuận tiện nhất.
Kể từ lần được cụ Tào và cô cháu gái Thanh Khê cứu giúp khỏi bệnh, Phạm Thái trở lại Mai Lâm thường xuyên, tháng ít thì một lần, tháng nhiều thì hai lần, mỗi lần ở lại vài ba ngày. Bản tính nhà nông hay lam hay làm, chàng nhiệt tình giúp đỡ hai ông cháu từ chuyện nương rẫy cho đến việc lợp mái nhà bị dột, sửa cầu thang bị hư. Nhiều khi ông lão đi chăn dê hoặc vào rừng đốn củi, Thái và nàng vừa làm việc vừa vui đùa thoải mái, nên tình cảm hai người ngày càng bền chặt.
Theo tập tục của người Tráng, nam nữ được tự do tìm hiểu, ông cụ thấy đôi trẻ ríu rít bên nhau, trong bụng cũng chấp nhận. Đối với cụ, mai mốt Thanh Khê kết duyên với người đồng tộc là điều ưng ý nhất, nhược bằng bén duyên với người ngoại tộc nếu là kẻ hiền lành chất phác thì cụ cũng không ngăn cản. Trong mắt cụ Tào, chàng trai mà cụ tình cờ cứu giúp là người thật thà, tốt bụng.
Dần dà, Phạm Thái quen mặt cả bản, việc chàng đến và đi thành chuyện bình thường trong mắt những người láng giềng của cụ Tào. Gần nhà cụ, cách chừng bảy chục sải chân là nhà của một gia đình họ Nông có hai người con trai, cậu lớn tên Trí Nãi trạc tuổi Thanh Khê, cậu nhỏ tên Trí Cầm kém anh ba tuổi. Hai nhà vốn qua lại mật thiết, nên Thái cũng dễ dàng chiếm được cảm tình của hai anh em, nhất là cậu bé Trí Cầm.
Một bữa Trí Cầm rủ Phạm Thái vào rừng bắn chim. Thấy con chìa vôi đậu trên cành dâu da, Thái làm hiệu bằng tay, Cầm giương ná bắn, mũi tên sượt qua cánh, con chim bay vút lên cao. Phạm Thái nhanh tay giương ná mà không cần ngắm, bật lẫy hạ gục chú chìa vôi. Cậu bé tròn xoe mắt kinh ngạc, nhìn chàng bằng ánh mắt thán phục.
Có lần Thái hỏi Thanh Khê:
– Trong bản nhà nào cũng họ Nông, bà con với nhau à?
Nàng cười mà rằng:
– Cả tộc cùng một họ, đều là con cháu của cụ tổ Nông Trí Cao.
Thái nghe nói vậy không hỏi thêm, chàng nghĩ Thanh Khê có cụ tổ là Nông Trí Cao cũng như mình có cụ tổ là Phạm Hạp, cả bản cùng là bà con trong họ cũng như ở làng mình những người mang họ Phạm đều là họ hàng gần xa.
Cuối thu năm đó, Phạm Thái được lệnh về nước. Đến Vạn Kiếp bẩm báo công việc với Đại Vương rồi chàng lên kinh thành, trước là ghé thăm chú, sau đến thợ bạc đặt làm một chiếc xà tích bằng bạc ròng có gắn hình một con cá bơi trong dòng nước và mười bảy bông hoa mai nhỏ xinh. Ông thợ bạc nghe khách hàng phác thảo ý tưởng, ban đầu kêu khó không chịu nhận, sau được hứa trả công gấp rưỡi thì đồng ý liền. Chàng còn mua tặng cụ Tào một đôi hài gấm màu lam.
Sau hơn một tháng xa vắng, ngày trở lại Mai Lâm, lòng tràn ngập bóng hình thiếu nữ mà Phạm Thái đã tin yêu trọn vẹn, chàng mừng vui như được về nhà nên bước chân rộn ràng, phấn khích lắm. Quà của chàng làm hai ông cháu rất thích thú, cụ Tào ướm thử đôi hài rồi cất vào rương và bảo “Để dành trưng diện ngày tết”, còn Thanh Khê đeo ngay xà tích lên ngực rồi nắm tay Phạm Thái lôi chạy băng băng ra suối. Nàng mượn mặt suối làm gương để ngắm nghía món quà hằng mơ ước. Khuôn trăng thiếu nữ soi lung linh làn nước trong veo, chiếc xà tích và những miếng bậc nhỏ sáng lấp lánh trên mặt gương huyền ảo.
Giữa niềm hân hoan tột độ, nàng hỏi chàng:
– Huynh nói cho muội biết, con cá mang ý nghĩa gì?
Thái nhìn nàng tủm tỉm cười rồi đáp:
– Mấy đường uốn lượn trên miếng bạc là làn nước, con cá đang bơi lội trong dòng suối. Con cá là huynh đấy, nhờ ông và tiểu muội cứu chữa nên mới được tung tăng trong lòng thanh khê.
Câu nói đầy ẩn ý của chàng trai làm cặp má thiếu nữ đỏ hồng vì ngượng, nàng nũng nịu trách vờ:
– Muội không thích huynh đùa như thế. Chưa biết người ta có ưng ý không mà đã đòi bơi vào lòng.
– Huynh không nói đùa đâu, thật đấy. – Thái nói mà ánh mắt như đang cười tình tứ làm khuôn mặt chàng vô cùng quyến rũ.
Thanh Khê ngúng nguẩy:
– Thôi không nói chuyện này nữa. Thế còn mười bảy bông hoa mang nghĩa gì?
Thái đáp:
– Là số hoa mai tượng trưng cho tuổi của muội. Mỗi năm huynh sẽ tặng muội thêm một bông hoa. Khi đủ hai mươi bông thì không tặng nữa.
Thanh Khê thắc mắc:
– Sao vậy?
Phạm Thái tủm tỉm cười rồi nói tỉnh bơ:
– Lúc đấy mình tặng nhau cuộc đời, huynh sẽ hỏi cưới muội, rồi đưa muội về quê nhà của huynh.
Cô gái lúc lắc cái đầu nhưng đôi mắt thì làm nũng:
– Không chịu đâu. Ai biết nhà huynh ở chỗ nào, không có núi, không có rừng thì làm sao mà sống?
Chàng trai giải thích:
– Huynh người đồng bằng lên đây ở lâu rồi cũng quen, muội người miền núi xuống đấy ở lâu cũng sẽ quen, huynh cam đoan đấy.
Nàng lại nói:
– Vẫn không chịu, muội theo huynh thì ông sống với ai?
Chàng ngớ người ra, mà rằng:
– Ừ nhỉ. Hay là huynh cứ ở đây với muội, khi nào ông quy tiên thì muội về quê với huynh.
– Được đấy. – Thanh Khê thích chí cười sảng khoái, rồi nói tiếp. – Người Tráng Nùng sống thọ lắm, coi như huynh ở đây với muội cả đời.
Chợt nghĩ đến thực tại, Thái lẩm bẩm trong miệng “Ở đâu cũng được. Nhưng mà ơn trời Phật cho hai nước bình yên, đừng xảy ra chiến tranh, ly loạn”. Thanh Khê đang tràn trề vui sướng nên chẳng để ý đến thái độ của chàng trai.
Thực tế bây giờ còn tàn bạo hơn bội phần những điều Phạm Thái từng lo nghĩ lúc ở bên bờ suối cùng với người con gái mà chàng đã gửi gắm tin yêu. Ngước nhìn bầu trời mùa đông u ám, chàng nghe cõi lòng lắng sầu nhưng vẫn phải đành cất bước tìm về lần cuối, mang theo một khối tình nặng trĩu mà chưa biết cách hóa giải.