← Quay lại trang sách

Chương 5 Anh em Trí Nãi lòng đen trắng
Ông cháu Thanh Khê dạ sắt son

Lưng cõng chiếc gùi tre chất đầy dược liệu, Phạm Thái ra đi khi trời đã sáng bạch. Con đường mòn vắt qua hai ngọn núi là lối đi quen thuộc và đầy phấn khích của chàng mỗi lần sang bản Mai Lâm. Nhưng hôm nay thì khác, con đường bây giờ mịt mù sương khói, buốt giá và trống trải lạ thường.

Chẳng phải vì mang vác làm chậm bước đi, mà do lòng nặng trĩu làm đôi chân chùn bước. Mỗi bước chân là một bước ngại ngần, một tiếng thở dài não ruột, một nỗi niềm đầy vơi; chàng ước gì không phải đi hôm nay, không phải đi tháng này, không phải đi mãi mãi, không phải đi gặp gỡ người yêu thương lần cuối, rồi sau đó là chia ly, xa cách mà không dám hẹn ngày trở lại. Chàng tự nhủ “Làm trai thời loạn không vì tình riêng mà phó mặc vận mệnh nước nhà trong cơn nguy khốn, đã nhất quyết như vậy, sao lòng còn thổn thức, gan ruột còn rối bời? Đành thôi, sau cơn binh lửa nếu thân này toàn vẹn ta nhất quyết tìm nàng”.

Mất hơn năm canh giờ Phạm Thái mới đến được Mai Lâm, lúc đã chập choạng tối. Cho dù trong lòng không yên ổn cũng không đến nỗi đi như rùa bò, chẳng qua Thái cố tình chậm trễ, vì chàng sợ phải ở lâu bên Thanh Khê khi chẳng thể nói gì nhiều với nàng về sự ra đi đột ngột. Đề phòng bất trắc, Thái lánh mặt dân bản nên không đi đường chính mà theo lối tắt sau núi đến nhà cụ Tào. Chàng dự tính, việc mua ngựa sẽ nhờ cụ Tào lo liệu để tránh sự dòm ngó của mọi người, còn lý do mua ngựa sẽ tùy thái độ của ông cháu Thanh Khê mà trình bày cho phù hợp.

Nghe tiếng chân lên cầu thang, Thanh Khê chạy ra mở cửa, miệng thì reo mừng “Ông ơi, Thái huynh đến”, còn đôi tay nhanh nhẹn đỡ chiếc gùi từ lưng huynh xuống rồi đem vào nhà. Cụ Tào đang khởi bếp lửa, ngước đầu nhìn và vui vẻ nói:

– Vào đây cho ấm, chờ ăn tối luôn. Cháu đi đâu mà đến vào giờ này?

– Cháu có việc cần làm, bây giờ mới đến được.

Thái trả lời người ông và tránh cái nhìn âu yếm của cô cháu gái. Thanh Khê không rời mắt khỏi chàng, lên tiếng:

– Trông mặt huynh nhợt nhạt thế kia, chắc đói lạnh lắm rồi. Để muội dọn cơm ngay.

Bát cơm nóng và khâu nhục béo ngậy chỉ giải quyết được cái dạ dày của Thái mà không thể khỏa lấp được nỗi lòng của chàng. Mọi người cùng ăn trong im lặng, vẻ tư lự từ Thái khiến hai ông cháu linh cảm điều không vui, nhưng chẳng ai nỡ hỏi. Xong bữa, ba người ngồi quanh bếp lửa, song khác hẳn các buổi tối khác, không có tiếng cười giọng nói từ mấy khuôn mặt vốn dĩ vui sống lạc quan, chỉ thấy những cặp mắt ngại ngần ra vẻ bâng quơ nhìn củi reo tí tách. Thái là người lên tiếng phá vỡ bầu không khí lặng ngắt:

– Cháu mang lại gùi dược liệu quý. Ông và Thanh Khê để dùng hoặc bán cũng được. Nếu đem lên trấn sẽ được giá, nhưng qua ít ngày nữa hẵng bán.

– Cháu thu mua dược liệu, sao lại đem cho ta, xảy chuyện gì à? – Cụ Tào tỏ ra ngạc nhiên.

Thái đáp:

– Cháu phải về nước gấp nên không mang theo được. Xa ông và Thanh Khê chưa biết bao giờ gặp lại khiến cháu buồn lắm. Nhưng không thể không về.

Thái thổ lộ nỗi lòng mà hai tay úp lên mặt để che giấu cảm xúc muốn trào ra. Thanh Khê nghe nói vậy, chạy về góc của mình, nằm quay mặt vào vách khóc rưng rức. Biết nàng đau khổ, chàng đứt từng khúc ruột nhưng chẳng thể làm gì hơn ngoài một câu đánh tiếng nghẹn ngào “Dù sớm hay muộn cháu sẽ về thăm hai người”.

Nghĩ đến nhiệm vụ, Thái nén lòng, tháo cái ruột tượng cột trong người, đưa cho cụ Tào và nói:

– Cháu nhờ ông giúp cho một việc. Trong này có sáu mươi lạng bạc, mai ông tìm mua cho cháu ba con ngựa với đầy đủ yên cương. Cháu và hai người đồng hương phải đi một quãng đường dài nên cần ngựa khỏe, mọi sự trông cậy ở ông.

Cụ Tào để bao bọc xuống, đến cái rương ở góc nhà lúi húi lục lọi, khi quay lại thấy ông cầm trên tay một chiếc túi nhỏ nhưng chẳng nói chẳng rằng, khuôn mặt đăm chiêu như đang nghĩ ngợi về một điều nan giải khiến cho mấy nếp nhăn trên trán thêm phần cau lại. Thái hồi hộp chờ ông trả lời mà không dám nói gì nữa. Qua cơn xúc động, Thanh Khê bình tâm lại, nhìn bộ mặt căng thẳng của chàng trai lại thấy thương nhiều, nàng bèn đến ngồi bên ông rồi lên tiếng nài nỉ:

– Ông tìm cách giúp Thái huynh với. Có lẽ là việc hệ trọng nên huynh ấy cần ngựa để đi gấp.

Được nàng nói giúp, Thái mừng lắm. Đã từ lâu chàng biết người trong bản chẳng ưa gì nhà Nam Tống trước kia lẫn lũ Nguyên Mông bây giờ, nên mạnh dạn bày tỏ:

– Việc của cháu liên quan đến sinh mạng của nhiều người, nếu cháu không về kịp thì quê nhà có thể gánh hậu quả khôn lường.

Nghe chàng trai bộc bạch cả những điều sâu kín, bấy giờ ông lão mới lên tiếng:

– Ta hiểu hết, nửa tháng nay tin đồn quân Nguyên rục rịch khởi binh đã bay đến tận cái bản heo hút này rồi. Nhưng mua được ngựa không dễ đâu, bao nhiêu ngựa tốt chúng đến bắt sạch, trong bản chỉ còn ngựa già yếu như con ngựa nhà ta thôi. Cũng có dăm nhà giấu trong rừng được mấy con ngựa tốt để gây giống, nhưng chưa chắc họ chịu bán.

Thanh Khê tỏ ra lo lắng:

– Ông nghĩ cách gì đi.

Ông cụ trả lời cô cháu gái:

– Ta vẫn đang nghĩ đây. Cũng có một cách nhưng cần nghĩ thêm. Thôi để mai tính.

Phạm Thái khẩn khoản:

– Ngoài ông ra, cháu chẳng biết nhờ cậy ai. Dù mua được ngựa hay không, ông kín tiếng hộ cháu.

Cụ Tào đáp:

– Không cần dặn ta cũng biết.

Rồi ông lấy từ trong cái túi nhỏ ra một sợi dây vải ở giữa có cột chiếc răng lợn rừng bịt bạc, đặt vào tay chàng và bảo:

– Thái à, ông có thứ này cho con. Đây là chiếc bùa hộ mệnh đã truyền được mấy đời, ta già rồi chẳng cần đến nữa, con hồi hương chuyến này may rủi khó lường, hãy đeo vào cho bình an.

Năm xưa khi cha của Thanh Khê bị bắt phu, ông đã đeo cho nó vật này. Vậy mà nó bị giết lúc thất thủ Thường Châu. Nghe người sống sót kể lại thì chiếc bùa của con trai ông bị kẻ khác cướp mất trước khi quân Nguyên chiếm thành. Kẻ cướp là tay phu trưởng ở bản bên, một đứa chuyên cậy quyền ỷ thế đè nén người dưới, ức hiếp đồng tộc. Loại người này không đáng sống ở đời. Ông đã tìm cách thu hồi về.

Thanh Khê giúp Thái cột sợi dây vải sau cổ. Chàng mân mê chiếc răng nanh trên ngực mà lòng bồi hồi xúc động trước thịnh tình của cụ Tào.

Nằm bên ông cụ kề bếp lửa ấm áp, Thái nhìn về phía Thanh Khê đang trằn trọc không ngủ, nghe tim mình thổn thức nhịp thương yêu rồi lịm dần vào cơn mộng mị…

Khi chàng tỉnh dậy thì trời đã sáng rõ. Trong nhà không có ai, Thái mở cửa định xuống sân lấy nước trong lu rửa mặt, chợt nhìn thấy Thanh Khê đang đứng nói chuyện với Trí Nãi ở đằng xa, chàng lại quay vào nhà. Lâu nay Thái vẫn nghĩ anh em Trí Nãi là người cùng họ với Thanh Khê, hai nhà qua lại thân thiết và tử tế nên chẳng có gì đáng ngại, nhưng cẩn trọng cũng không thừa.

Có điều Phạm Thái không tường tận, tuy chung họ nhưng nhà Trí Nãi với nhà cụ Tào không phải là bà con ruột thịt. Cùng trang lứa với nhau, Trí Nãi và Thanh Khê từng vui đùa gắn bó từ thuở ấu thơ, nên trong tâm khảm của cậu ta từ lâu vẫn tin rằng hai người là một đôi thanh mai trúc mã, khi khôn lớn nhất định sẽ được ông trời se duyên.

Thế rồi Phạm Thái xuất hiện, Thanh Khê ngày càng gắn bó với kẻ ngoại tộc mà phai nhạt dần tình cảm với bạn đầu xanh một thuở. Khác tính cách phóng khoáng và nhân ái của cậu em Trí Cầm, Nãi là đứa nhỏ nhen ích kỷ nên sinh lòng thù hận kẻ đã cướp không mối tình thầm kín của hắn. Sau nhiều ngày đau khổ dằn vặt, Nãi nghĩ cách tiếp cận Phạm Thái, làm mặt tử tế để tìm cơ hội rửa nhục.

Sáng sớm hôm đó, Trí Nãi và Trí Cầm soạn sửa lùa dê lên núi chăn thả. Bắt gặp cụ Tào đi đâu về có vẻ gấp gáp rồi lại vội vã cùng Thanh Khê lùa sáu con dê sang mấy nhà ở cuối bản, Nãi nghĩ bụng “Chắc là đem bán rồi, nhưng cần gì mà phải bán cả sáu con dê lớn?”. Lòng đầy nghi hoặc, Nãi vin cớ đau đầu, bảo cậu em đi trước, còn hắn mò qua nhà cụ Tào dòm ngó. Thấy Phạm Thái nằm ngủ say trên phản, Nãi tin rằng việc ông Tào bán dê nhất định có liên quan đến gã tình địch đáng ghét.?

Chờ Thanh Khê trở về, Nãi níu lại hỏi han:

– Muội lùa dê đi đâu vậy?

– Bán bớt ít con để có tiền sửa lại cái nhà.

Biết không thể nói dối trắng trợn với tên trai tò mò, Thanh Khê đành nói thật những điều khó giấu nhưng giấu kín những điều khó thấy.

Nãi lại hỏi vặn vẹo:

– Bán cả dê chửa à? Nhà muội có hư đâu mà phải sửa?

Nàng độp lại:

– Sao huynh cứ phải thắc mắc, nhà của muội thì muội sửa, liên quan gì đến huynh?

Thanh Khê đành nói thế cho xong chuyện, rồi rảo gót về nhà. Tên trai đứng chết lặng trước thái độ vùng vằng của người thiếu nữ mà hắn vẫn đêm ngày tơ tưởng. Nãi hậm hực trong người, lòng ngùn ngụt căm hận kẻ đã hớp hồn nàng sơn nữ của hắn.

Nghe Thanh Khê bảo đã mua được ngựa, ông đang dắt đi giấu ở cánh rừng mé đông núi Phục Lĩnh, tâm trạng Phạm Thái buồn vui lẫn lộn. Mừng vì đã có ngựa để đêm nay cùng các huynh lên đường về nước, nhưng cõi lòng chàng lại ăm ắp buồn bã vì sắp phải ly biệt người con gái yêu thương và người ông đáng kính của nàng.

Thái mạnh dạn cầm tay Thanh Khê, giữ chặt tay nàng trong bàn tay thô ráp của mình như muốn cảm nhận lần cuối sự mềm mại của da thịt thiếu nữ trước lúc chia xa có thể là mãi mãi. Thanh Khê run rẩy ngả đầu vào vai chàng, cố kìm đôi giọt lệ nóng hổi long lanh trên khóe mắt sầu muộn. Hai người đứng bất động bên nhau hồi lâu nhưng không ai nói với ai một lời, để mặc tâm hồn chia sớt cho nhau nỗi niềm nát tan từ trong tận cõi lòng thăm thẳm. Họ chẳng hề hay biết có kẻ đang rình mò bên ngoài.

Trí Nãi không chấp nhận câu trả lời chặn họng của Thanh Khê, mà quyết tìm cho ra sự thật nên lẻn sang nhà nàng, rón rén leo lên cầu thang nhìn lén qua khe vách. Thấy đôi trai gái ôm nhau nức nở, Nãi nổi cơn ganh ghét khiến máu trong người sôi sục, nhưng hắn đủ khôn ngoan để không làm điều dại dột mà gắng dỏng tai nghe ngóng.

Qua cơn xúc động, hai người rời nhau. Thanh Khê bình thản bảo chàng trai:

– Sáng muội dậy sớm thổi cơm rồi. Chờ ông về, huynh ăn no hẵng đi.

Thái đáp:

– Muội chu đáo quá. Sang giờ Mùi huynh mới lên đường, nếu ngựa tốt thì từ đây tới chỗ huynh chỉ vài canh giờ.

Thanh Khê dặn dò:

– Cả ba con đều khỏe mạnh. Muội thấy con ngựa ô mua của nhà Trí Phàn tốt nhất, huynh phải cưỡi con này.

Thái xúc động mà bảo:

– Ba anh em sinh tử có nhau, huynh cưỡi con nào cũng được, nhưng muội muốn vậy thì huynh sẽ nghe lời muội.

Nàng hài lòng:

– Như thế mới không phụ lòng muội, để muội tin rằng huynh sẽ trở lại.

Chàng trăn trở:

– Chiến tranh sắp nổ ra, sống chết khó lường, nếu toàn mạng dứt khoát huynh sẽ về với muội.

Nàng lại hỏi:

– Từ đây về quê nhà bao xa?

Chàng trả lời:

– Khoảng hơn ba trăm dặm. Bọn huynh phải về gấp để bảo động người trong nước chuẩn bị chống quân Nguyên.

Thanh Khê thổ lộ:

– Cha muội bị người Nguyên giết, chuyện này huynh trả thù cho muội luôn nhé.

Thái đáp:

– Dứt khoát huynh sẽ trả thù cho muội.

Rồi chàng chợt hỏi:

– Thanh Khê này, từ nay đến giờ huynh cứ nắc nỏm không hiểu số bạc có đủ cho ông mua ngựa không? Nếu ông phải xoay xở thêm thì huynh ân hận lắm.

Nàng nói như thật:

– Đủ mà, vừa tròn số bạc của huynh.

Thanh Khê trả lời vậy để Thái khỏi bứt rứt. Sáng nay, khi lùa sáu con dê ra khỏi nhà, ông bảo với nàng “Trước kia sáu mươi lạng thừa mua ba con ngựa. Bây giờ khan hiếm người ta đâu chịu bán. Ông ra giá một con ngựa tốt đổi hai mươi lạng bạc kèm theo một con dê chửa và một con dê đực, họ thấy lời to thì ưng bụng liền”.

Thấy ông Tào đang đi về, Trí Nãi vội tụt xuống thang, chạy biến vào bụi rậm. Hắn khấp khởi mừng khi thời cơ rửa hận đã đến, bèn quay về nhà lấy ngựa phóng như bay lên trấn Long Châu.

Huyện lệnh Long Châu là Dương Tự Quán, vốn người Hán làm quan dưới thời Nam Tống. Khi nhà Nam Tống sắp diệt vong, Quán đón gió trở cờ, nhanh chân về hàng Thát nên được tiếp tục trấn nhận tại nhiệm sở cũ. Lâu nay y thường vỗ ngực đắc chí là người thức thời, sớm nhận biết thế sự chuyển vần nên chẳng dại gì mà khư khư cái tiết tháo trung nghĩa thủ cựu, thà một lần rũ sạch hơi hám nặng mùi phế thải của chủ cũ để lấy sức mà hít hà dư vị thơm tho của chúa tể mới.

Mấy bữa nay Tự Quán đang rất buồn bực vì bị quan trên khiển trách do tuyển phu không đủ số lượng. Cái huyện Long Châu thưa thớt dân được bổ chỉ tiêu năm trăm đinh lực, Quán cho yết bảng dán khắp nơi cũng chỉ mộ được ba chục đứa, sai mã bộ đi bắt phu chỉ gom được hơn trăm đứa. Bọn trai tráng sơn cước ngày càng quỷ quyệt, hễ thấy bóng dáng lính huyện là trốn như trạch, tuy thỉnh thoảng cũng lôi đầu về được một mớ, nhưng được mớ này lại tuột mất mớ kia. Chẳng qua vì ít người nên trông không xuể, huyện lệnh cả thảy có mười hai mã bộ, lúc lính ngó nghiêng đằng trước thì bọn chúng bốc hơi đằng sau, lúc lính nghiêng ngó đằng sau thì tụi nó lại độn thổ đằng trước.

Khi nghe thuộc hạ bẩm báo có người đến tố giác kẻ gian từ An Nam sang dò la bản quốc, Quán cho kêu vào để hỏi. Trí Nãi thuật lại điều tai nghe mắt thấy và nói:

– Một trong ba tên thám báo đang ở Mai Lâm, đại nhân bắt được tên này sẽ tra xét ra hai tên còn lại. Thảo dân mong huyện lệnh đại nhân khẩn trương vây bắt kẻo hắn trốn mất.

Viên tri huyện mừng lắm, hứa sẽ thưởng công cho Trí Nãi, rồi cho điều ngay sáu mã bộ theo kẻ cáo giác đi truy lùng gián điệp An Nam. Đám lính đi rồi, Tự Quán vội thay áo xống, phóng ngựa một lèo đến thẳng quân doanh của Tả thừa Lý Hằng báo cáo sự vụ. Y cho rằng đây là cơ hội tốt để lập đại công với quan lớn triều đình, sau này đám quan trên tỉnh muốn ức hiếp hắn cũng phải kiêng nể vài phần.

Thái cố nuốt mà ăn không nổi, bụng chẳng no chẳng đói nhưng đầy ứ ưu tư. Sau bữa cơm, cụ Tào bảo Thanh Khê:

– Ngựa ông cột ở khe Pò Vạc. Quá ngọ rồi, nấn ná mãi cũng phải chia tay thôi. Cháu dẫn Thái huynh đến đó lấy ngựa.

Theo tập quán của người Tráng ở vùng cao, cái gì không phải của mình thì không lấy. Nếu ai đó tình cờ đi ngang qua Pò Vạc thấy mấy con ngựa đang cột ở đấy, họ biết là vật có chủ sẽ dứt khoát không động đến. Thái hiểu điều đó nên không lo mất ngựa, có điều được cụ Tào tạo điều kiện để hai người đưa tiễn nhau một đoạn làm chàng phấn chấn lắm, muốn đi liền. Thanh Khê khoác lên vai Thái một chiếc túi vải đựng ít đồ ăn và chiếc nậm sành chứa nước. Thái ôm ông cụ, nghẹn ngào nói:

– Ông ráng giữ gìn sức khỏe.

Cụ Tào vỗ vai chàng mà rằng:

– Con lên đường bình an. Đừng quên ông cháu ta đấy.

Thái không trả lời, chỉ gật đầu, nhưng đôi mắt đã đỏ hoe. Chàng vội vã bước xuống cầu thang như trốn chạy cảm xúc mềm yếu. Cụ Tào đứng lặng nhìn theo, cặp mắt già nua nặng trĩu.

Bản trưa vắng người, nhìn quanh không thấy ai, đôi trai gái bước nhanh về phía sườn núi. Hai người đi trong im lặng chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau bằng ánh mắt buồn vời vợi. Vừa lên đến đầu dốc, họ gặp Trí Cầm đang lùa dê về bản. Cậu bé cất tiếng hỏi:

– Anh chị đi đâu vậy?

Thanh Khê trả lời:

– Mình không đi, chỉ tiễn Thái huynh một đoạn. Mà sao hôm nay có mỗi em lùa dê lên núi?

Đàn dê nhà Trí Cầm nhiều gấp ba đàn dê nhà nàng. Thường hai anh em họ cùng đi chăn mới xuể, hôm nay lại chỉ có mình cậu bé. Cầm đáp:

– Nãi huynh kêu đau đầu nên bảo đệ đi trước, rồi lên sau. Từ sáng đến giờ có thấy huynh ấy đâu, có lẽ ốm rồi.

Thanh Khê ngạc nhiên nhưng không nói ra. Buổi sáng gặp Nãi, nàng thấy mặt mũi hắn tỉnh khô, chẳng ốm đau gì cả. Cầm nói với Thái:

– Hôm nào ở chơi lâu, Thái huynh lại đi bắn chim với em nhé. Mùa này nhiều chim gáy lắm.

Lời gợi ý của Cầm làm Thái nao lòng, chàng trả lời bâng quơ:

– Nhất định rồi.

Họ tạm biệt nhau. Cậu bé lùa dê xuống núi. Đôi trai gái vượt đèo để tới cánh rừng có khe suối Pò Vạc.

Mới đi được vài chục bước, Phạm Thái quay về phía Trí Cầm, vừa chạy xuống vừa gọi í ới:

– Trí Cầm à, huynh bảo này.

Thanh Khê đứng từ xa nhìn thấy Thái lấy con dao ngắn cài trên lưng dúi vào tay Trí Cầm rồi lại nhanh chân chạy lên. Biết chàng trai tặng cậu bé con dao làm kỷ vật, nàng hỏi:

– Huynh cho Cầm à, sao không để phòng thân.

Thái nói:

– Huynh còn thứ khác để phòng thân. Cầm là đứa trẻ tốt bụng, huynh quý nó lắm.

Trên đường dẫn mã bộ về bản bắt người, Trí Nãi tự nhủ nếu xuất hiện cùng đám lính huyện thì chẳng khác gì nhận mình là kẻ chỉ điểm. Khi cách Mai Lâm chừng một dặm, Nãi dừng ngựa và nói:

– Bản kia rồi. Tiểu dân phải tránh mặt nên xin khiếu ở đây. Các đại ca cứ xông thẳng vào nhà Nông Trí Tào là bắt được gián điệp ngoại bang. Lão ta là người chứa chấp kẻ gian, còn đứa cháu gái ngây thơ không biết gì, xin các huynh nương tay cho.

Sáu viên mã bộ quát ngựa phi nhanh tới cái thôn đìu hiu dưới chân núi Phục Lĩnh. Đám lính đi rồi, Trí Nãi cười hả hê vì tự phụ mình cao tay, chỉ bắn một mũi tên mà trúng liền hai đích, vừa diệt trừ được gã dị tộc cướp đoạt mối tình đầu của hắn, vừa phế bỏ lão già đáng ghét luôn ưu ái kẻ từ trên trời rơi xuống mà không thèm ngó ngàng tới cảm nghĩ trong lòng người bạn láng giềng tri kỉ của đứa cháu gái. Thế là hết chướng ngại cản đường, Nãi nhất quyết sẽ giành bằng được Thanh Khê về làm vợ.

Trí Cầm đang lùa dê vào chuồng chợt nghe tiếng vó ngựa phi rầm rập ngang qua, cậu chạy ra nhìn thì thấy một toán lính xông vào nhà ông Tào, lôi ông cụ xuống sân vừa đánh vừa tra khảo về tên thám báo Phạm Thái. Chúng trói ông bằng dây thừng, dùng gây tre quật vào người làm rách toác chiếc áo đang mặc, máu túa ra đỏ lòm. Ông Tào một mực kêu oan, không nhìn thấy ai làm thám báo, không biết ai dò la tin tức. Chúng hỏi “Chiếc bố chất đầy dược liệu của ai?”. Ông trả lời “Của người ta gửi”. Chúng lại hỏi “Họ đi đâu?”. Ông nói: “Không biết”.?

Dân bản sợ liên lụy, chẳng ai dám can thiệp, chỉ đứng thập thò trong nhà nhìn ra. Trí Cầm cũng sợ lắm, lần đầu tiên cậu chứng kiến việc bắt bớ và tra khảo như thế. Cầm không biết thám báo là gì, nhưng biết chắc Thái huynh đang gặp nguy hiểm, cậu muốn ai đó cứu huynh ấy, mà trong nhà lại chẳng có ai, cha mẹ đang ở trên nương, còn Nãi cũng mất dạng. Phải liều thôi, Cầm ngó quanh tìm ngựa, nhưng không thấy đâu. Thấy con ngựa già của cụ Tào cột ở gốc cây sau nhà, cậu len lén mò sang, tháo dây dắt nó đi một đoạn, đến chỗ khuất mới nhảy lên mình ngựa, giục phi nước đại về hướng đôi trai gái vừa đi qua.

Tới khe Pò Vạc đã thấy ba con ngựa thấp thoáng sau bụi cây rậm rạp, Thái biết đã đến lúc phải từ biệt Thanh Khê, chàng giang tay ôm thiếu nữ vào lòng, hôn lên búi tóc cài sau gáy rồi thủ thỉ vào tại nàng:

– Dù ở đâu, làm gì huynh sẽ mang theo hình bóng muội. Lúc vui hay lúc buồn, muội mãi là dòng suối trong lành tắm mát lòng huynh.

Bất chợt khu rừng chiều tĩnh lặng dội vang tiếng gọi khẩn thiết “Thái huynh, Thanh Khê tỉ, đang ở đâu?”. Nhận ra tiếng của Trí Cầm, Thanh Khê gọi lại “Trí Cầm phải không? Huynh tỉ ở đây này”. Một con ngựa lao đến, Trí Cầm nhảy vọt xuống, chạy lại chỗ hai người, vừa nói vừa thở hổn hển:

– Quân lính đến bắt Thái huynh… bảo… bảo là truy tìm thám báo. Chúng trói, đánh ông Táo đầm đìa máu, huynh mau trốn đi.

Nghe thấy vậy, Thanh Khê hoảng hốt kêu lên:

– Chúng đánh ông chết mất. Làm sao bây giờ?

Rồi nàng bật khóc nức nở. Mặt Phạm Thái biến sắc, tâm trí rối bời, chàng hỏi Cầm:

– Chúng có đông không?

Trí Cầm đáp:

– Khoảng sáu, bảy đứa.

Thái bảo với Thanh Khê:

– Để huynh quay về bản tìm cách cứu ông.

Nói rồi, chàng bước xăm xăm ra chỗ mấy con ngựa. Thanh Khê vội níu lại, mà rằng:

– Không được. Một mình huynh không thể đánh lại từng đấy người. Huynh đi ngay kẻo hỏng việc lớn. Chúng không tìm được huynh thì chẳng có cớ để bắt tội ông. Đừng chần chừ nữa, đi đi.

Thanh Khê nói như quát, Thái sực tỉnh tâm trí, vội vào bụi cây tháo dây cột ngựa, một con cưỡi, hai con còn lại thòng dây dắt theo, vẫy tay tạm biệt người ở lại rồi phi nước kiệu về hướng nam. Thì ra trong cơn nguy cấp, đôi lúc nhi nữ bình thường tỉnh táo hơn trượng phu hảo hán.