Chương 6 Nổi trận lôi đình, Lý Hằng tung quân lùng thám báo
Thừa cơ đốt trại, Thế Quang dẫn đội vượt quan phòng
Lý Hằng có tướng mạo hộ pháp, mặt vuông chữ điền, mắt sâu mày rậm, để râu ba chỏm, thân thủ bất phàm, tính khí nóng nảy, phi ngựa vượt năm trăm dặm không cần nghỉ, thường mặc áo da báo thay giáp trụ mỗi khi đánh trận, bất kể ngày đêm luôn có hai viên tả hữu là Đái Tháp Nhã và Nhan Hợp túc trực để sai khiến. Trong kế hoạch chinh Nam, mãnh tướng Lý Hằng được giao phó chỉ huy một đạo quân thiện chiến dưới quyền điều động trực tiếp của Trấn Nam Vương Thoát Hoan, thống soái tối cao cuộc xâm lăng Đại Việt.
Vốn người Tây Hạ, tổ tiên của Hằng thuộc bộ tộc Đảng Hạng từng lập nên một quốc gia hùng mạnh ở vùng tây bắc Trung Quốc, tồn tại gần hai trăm năm thì bị diệt vong bởi người Mông Cổ. Y sinh ra khi nước đã mất, do được nuôi dạy trong lều trướng thảo nguyên vốn lấy triết lý “mạnh được yếu thua” làm cơ sở sinh tồn trên vùng đất bán hoang mạc, nên kẻ mang dòng máu chính thống của liệt tổ Hạ Cảnh Tông đã chẳng mảy may trui rèn ý chí phục quốc, gây dựng lại đế nghiệp của cha ông, mà sớm nuôi hoài bão đầu quân đế chế Mông Cổ, làm thuộc hạ dưới trướng soái phủ Hốt Tất Liệt lẫy lừng. Cho rằng, thà lĩnh ấn tiên phong của ngoại tộc trong cuộc chinh phạt thế giới để được lưu danh thiên cổ, còn hơn nuôi ảo vọng vun đống tro tàn tô đắp lại một vương triều đã tận số, Hằng năng nổ lập công như một cách tỏ lòng trung thành với Đại Hãn, vừa tham gia bắt sống Văn Thiên Tường, đã xăng xái cất quân tiếp ứng Nhai Sơn, hóa kiếp nhà Nam Tống.
Bấy giờ Lý Hằng đang thao dợt võ nghệ với bộ hạ trên bãi cỏ rộng lớn phía sau doanh trại. Giữa cái rét căm căm, Hằng cởi trần cưỡi ngựa, tay cầm xà mâu đấu với thương và đao của hai thủ túc Đái Tháp Nhã và Nhan Hợp. Ba cặp người ngựa quần thảo tít mù trong tiếng hò reo tán thưởng của đám binh sĩ vây quanh. Đang giữa trận đấu, một tiểu tốt từ ngoài cổng trại chạy vào hét rõ to cốt để chủ tướng nghe được:
– Bẩm đại nhân, có người xin tiếp kiến.
Hằng nghe thấy nhưng vẫn đánh hết hiệp mới dừng, hỏi:
– Ai muốn gặp?
Tên lính thưa:
– Quan tri huyện Long Châu muốn gặp ngài để bẩm báo việc hệ trọng.
Hằng bảo:
– Kêu vào đây.
Tên lính lại chạy nhanh ra cổng.
Gã huyện lệnh được dẫn vào bãi tập. Thấy thái độ khinh khỉnh của đám lính tráng trong sân, sự oai vệ của một huyện quan biến mất, thay vào đó là điệu bộ rụt rè, ngơ ngác. Binh sĩ dưới trướng Lý Hằng đa phần là người thảo nguyên với tướng mạo to cao, mặt mũi hung tợn, lại từng nửa đời chinh chiến trên mình ngựa nên chẳng việc gì phải kính cẩn một viên quan nhỏ Hán tộc mới quy phục hoàng đế Đại Nguyên được mấy năm.
Hằng không thèm xuống ngựa, ngồi trên cao hỏi vọng xuống:
– Ngươi cần gặp ta có việc gì?
Quan huyện khúm núm vái chào và nói:
– Bẩm Tả thừa đại nhân, hạ quan Dương Tự Quán, huyện lệnh Long Châu muốn báo cáo với ngài về hành tung của bọn thám báo An Nam.
Lý Hằng nghe thấy vậy, liền xuống ngựa, mặc áo xống và cho giải tán thao trường, rồi mời khách về phủ soái.
Nổi bật giữa hàng chục dãy lều hình bát úp là một khu lều hoành tráng vượt bậc, đấy là phủ trung quân, nơi trú đóng của chủ tướng Lý Hằng. Trước cửa phủ cắm tướng kỳ đuôi nheo màu nghệ thêu đại tự Lý tả thừa đỏ chói. Tám lính canh vác đoản đao tuần tiễu qua lại bốn mặt phủ, hai hàng giáp binh cầm trường kích uy nghi trước lối vào. Túc trực sau rèm gấm trong phủ soái là hai vệ sĩ to như trâu mộng, mặc trang phục nỉ xanh bó sát làm hằn lên những bắp thịt cuồn cuộn, thắt đai lưng da bò to bản cài dao ngắn mũi cong, thấy chủ tướng bước vào cả hai cúi rạp người kính cẩn. Nội thất bên trong được soi sáng bởi sáu đôi bạch lạp cỡ bằng cổ tay, nền phủ lót thảm Ba Tư rực rỡ, chính diện kê trường kỷ không chân bọc da cọp đặt những chiếc gối nhồi lông ngỗng dùng để dựa lưng và gác đùi, phía sau kỷ treo nhiều liễn vàng son chói lóa, trước kỷ là án thư chân quỳ chạm mặt quỷ La Hầu, trên án đặt nghiên bút và ấn kiếm tướng soái, xung quanh vách phủ bày biện vô số binh khí và các vật phẩm quý hiếm được vơ vét từ các cuộc chinh phạt.
Viên Tả thừa lơ đễnh ngả người vào chiếc gối nhồi lông trên kỷ, tay chống cằm, mắt lim dim như chẳng buồn chú tâm vào những lời thưa thốt của viên huyện lệnh đang đứng chắp tay rúm ró.
Nguyên do trong một lần hội tướng, Trấn Nam Vương chỉ thị cho Lý Hằng “Việc tập trung binh lực thảo phạt khó mà tránh được sự dòm ngó của bọn người Nam. Thể nào chúng cũng phái thám báo đột nhập đất Nguyên để dò la tin tức. Ngươi trú đóng gần biên giới phải cẩn trọng đề phòng, thường xuyên tuần tiễu các nơi xung yếu, cử người giỏi lùng sục gian tế, thấy kẻ khả nghi thì bắt về tra xét”. Thừa lệnh đại vương, Hằng lập một đội thám tử gồm mười hai tên do viên chiêu thảo dưới quyền là Lâm Trung Đới đầu lĩnh, giả dạng làm dân thường, chia nhau đi các nơi tìm kiếm dấu vết gián điệp. Đới có chút công lao từ hồi trà trộn vào quân Nam Tống thu thập thông tin quân sự của đối phương báo về cho Lý Hằng, nên được y rất tin tưởng. Hằng nghĩ, “Cả đội thám tử chuyên nghiệp của ta chẳng phát hiện được đứa An Nam khả nghi nào, tên huyện lệnh này chắc chỉ phong thanh tin dấm dớ.”
Đến khi nghe Tự Quán nói, “Một chục tên thám báo dự định đêm nay trốn về An Nam,” Hằng liền bật dậy, mắt trợn trừng quát lính kê ghế mời khách an tọa rồi hỏi han đầu đuôi cặn kẽ.
Huyện lệnh tuy chẳng biết gì nhiều nhưng muốn tăng công với Tả thừa nên làm mặt quan trọng mà thêm thắt bày đặt thông tin về thám báo theo trí tưởng tượng của y:
– Theo điều tra của hạ quan, bọn này đã thu lượm được nhiều tin tức về đại quân thiên triều. Lực lượng binh mã, khí giới, lượng thảo, ngày khởi binh, đường tiến quân của ta, chúng đều nắm được hết. Nghe nói chúng còn vẽ cả sơ đồ để đem về nước. Hạ quan đã cho người đi vây bắt, nhưng lực lượng ít ỏi quá, chỉ sợ chúng trốn thoát.
Nghe đến đây, bản lĩnh năng động của viên tưởng dày dạn trận mạc trỗi dậy, biết cơ hội lập công đã đến, Lý Hằng gầm lên như cọp rống:
– Đái Tháp Nhã và Nhan Hợp nghe lệnh.
Hai viên thủ tục cùng đáp, “Có tiểu tướng,” rồi bước ra giữa lều đứng khoanh tay đợi lệnh.
Hằng sai truyền:
– Đái Tháp Nhã điều động một trăm quân bộ chia làm nhiều hướng hỏa tốc cấp báo các quan phòng và ải trấn, phong môn bất xuất từ Giang Châu đến Ninh Châu, tăng cường phòng bị, tuần tra ráo riết các đường mòn lối nhỏ, thấy kẻ tình nghi phải bắt cho được, nếu chống cự thì giết không tha. Nhan Hợp dẫn hai trăm quân kị càn quét các làng bản, thị tứ ở Ninh Châu hễ gặp người An Nam thì bắt hết giao cho quan sở tại canh giữ, tiếp ứng cho Đái Tháp Nhã khi cần bao vây tiêu diệt thám báo.
Tháp Nhã và Nhan Hợp đồng thanh hô lớn, “Xin phụng lệnh,” rồi khẩn trương ra ngoài thực thi công vụ. Quân lệnh như sơn, đám lính đang ăn trưa vội buông bát, sửa soạn binh khí, cài nịt áo, thắng yên cương, leo lên ngựa phóng rầm rập ra cửa trại, tỏa đi các hướng theo sự điều động của hai viên tiểu tướng. Quân Thát xưa nay vẫn vậy, với một bao đựng thịt sấy và một túi da dê đựng nước, chúng có thể vừa hành quân vừa ăn uống trên mình ngựa.?
Điều quân xong, Lý Hằng quay sang bảo Tự Quán:
– Nay ghi nhận công lao của huyện lệnh, mấy ngày nữa Trấn Nam Vương thân chinh ngự đáo, bấy giờ ta sẽ bẩm báo để Người khen thưởng.
– Đội ơn đại nhân. Được ngài chiếu cố quả là phúc lớn của hạ quan, xin nguyện trung thành với ngài mãi mãi về sau.
Tự Quán mừng khấp khởi, lòng tự nhủ phen này phải leo cao, lúc ấy sẽ trả cho hết ân oán với những kẻ ức hiếp y lâu nay.
Chiêu thảo Lâm Trung Đới và một tên thuộc hạ La Tiểu Hiệt mò tới trấn Hồ Biên, liền đến gặp chức sắc hỏi han tình hình dân cư. Viên quản bạ địa phương cho biết:
– Cư dân trong trấn chủ yếu là người Hán và người Tráng, người An Nam không cư ngụ ở đây, nhưng thỉnh thoảng cũng có vài ba người đến buôn bán.
Đới hỏi:
– Hiện họ còn trong trấn không?
Quản bạ đáp:
– Còn đấy. Có mấy người đến đây chừng bốn, năm tháng trước, thuê căn nhà nhỏ ở cuối trấn. Nghe nói là dân buôn thuốc.
Gửi xong ngựa, theo chỉ dẫn của quản bạ, Đới và Hiệt tìm đến nhà của anh em Đào Thế Quang khi trời đã chạng vạng. Do địa hình trống trải, hai tên thám tử không thể tiếp cận ngôi nhà, đành ẩn náu trong bụi cây, rình mò từ xa. Chờ tối mịt, viên chiêu thảo lẻn vào nghe trộm qua khe vách. Khi trăng mọc, sợ bị lộ, Đới đành quay ra. Hắn nói với thuộc cấp:
– Chúng có ba tên, khả nghi lắm. Ta chỉ nghe lõm bõm được ít câu. Tên đại ca nói sớm mai sẽ đi điều nghiên cái gì đó, nó còn dặn đứa em gắng kiếm cho được ngựa. Phải ở đây đêm nay mà theo dõi động tĩnh của chúng, xác định đúng người rồi sẽ cấp báo cho chủ tướng để ngài đưa quân đến vây bắt.
Khi Thế Quang bước ra ngoài sân nhìn ngắm khung cảnh đêm trăng tịch mịch, ánh sáng bàng bạc soi tỏ mặt người, Đới chỉ tay và dặn dò Hiệt:
– Nó chính là đầu lĩnh, khi cần động thủ phải hạ tên này trước.
Tiểu Hiệt đề nghị:
– Nó đứng một mình, hay ta áp sát bắt sống?
Trung Đới gạt đi:
– Liều lĩnh chỉ tổ hỏng việc. Nếu chúng là thám báo tất giỏi võ nghệ. Sơ sểnh làm kinh động hai thằng trong nhà, chúng kéo ra thì ta và ngươi khốn to.
Trời tảng sáng, Tiểu Hiệt dựa gốc cây lơ mơ ngủ, bị Đới đánh thức bằng cái hích cùi chỏ vào hông. Từ trong ngôi nhà có một người khoác tay nải bước ra nhìn quanh, rồi nhắm hướng bắc bộ hành. Xác định đúng kẻ khả nghi hàng đầu, với bảo đàn em:
– Phải theo thằng này. Xem nó định điều nghiên cái gì?
Chờ cho đối tượng đi được một đoạn, hai tên thám tử của Lý Hằng âm thầm bám gót.
Đào Thế Quang rời nhà từ sáng sớm, khi các em còn ngủ say. Chàng quyết định đến một trại Nguyên cách Hồ Biên chừng hai chục dặm. Nắm bắt thông tin từ những người chào bán thuốc về một loại công cụ to lớn cồng kềnh được kéo đến trại dăm ngày trước, Thế Quang muốn tìm hiểu thực hư và xác định có phải là vũ khí dùng vào cuộc thảo phạt Đại Việt? Đi được nửa đường, linh cảm có kẻ bám theo, đôi lần chàng đảo mắt nhìn mà không thấy ai cả.
Tới gần trại giặc, từ đằng xa đã thấy mười hai cỗ cự thạch pháo to như cái tháp canh xếp hàng hai trên một bãi đất rộng, xung quanh có đầy lính túc trực, chàng nghĩ: “Bọn Mông Thát vận chuyển nhiều máy bắn đá đến sát biên giới hẳn nhiên dùng vào việc phá thành nước Nam. Bằng mọi giá đêm nay phải trở về, Đại Vương sớm biết tin ắt có đủ thời gian trù liệu kế sách đối phó”. Mặt trời lên cao, đứng nấp sau gốc cây thấy bóng cây và bóng mình để dài một hướng nhưng không liền khít, Thế Quang chợt ngoái lại hàng cây phía sau. Nhìn bóng nắng, chàng phát hiện hai gốc cây có người ẩn nấp, bèn vội tháo lui vào rừng.
Nhờ có kinh nghiệm ngụy trang, hai gã thám tử Nguyên kịp thời ẩn nấp vào gốc cây, mỏm đá hoặc nằm rạp xuống đất khi đối tượng có cử chỉ ngoảnh đầu. Thấy kẻ khả nghi náu mình quan sát trại Nguyên, Đới bàn bạc với Hiệt:
– Nó chắc chắn là gian tế. Chỉ có thám báo thì mới mò đến đây rình rập. Chờ nó đi khỏi, ta sẽ bám theo, còn ngươi nhanh chóng quay về lấy ngựa, khẩn cấp báo tin cho Lý tướng quân, dẫn đường cho ngài đến Hồ Biên vây bắt cả bọn.
Ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy đối tượng mất hút phía bìa rừng. Biết hành vi theo dõi bị lộ, kẻ gian đang nhanh chân đào tẩu, ỷ hai chọi một, Trung Đới quyết định ra tay tức thời. Chúng hộc tốc đuổi theo Thế Quang, hy vọng sẽ tóm cổ được người đội trưởng thám báo nước Nam.
Cho rằng kẻ đeo bám đã phát hiện được hành tung của mình từ Hồ Biên, cần sớm loại trừ để tránh hậu họa, Thế Quang chẳng hề trốn chạy như chúng tưởng, chàng cố tình dụ hai tên thám tử rời xa trại Nguyên, bấy giờ sẽ động thủ mà không đánh động bọn lính trong trại.
Lâm Trung Đới và La Tiểu Hiệt lăm lăm dao nhọn dáo dác tìm kiếm bóng dáng của đối thủ trong khoảnh rừng hoang vắng, chợt có tiếng động sột soạt phía sau, cả hai quay đầu phòng thủ. Dùng chiêu liệng đá đánh lạc hướng, từ một nhánh cây cao, Thế Quang bất ngờ nhảy vọt xuống sau lưng đối phương, chân chưa chạm đất thì mũi dao nhọn của chàng đã cắm vào mạng sườn của Tiểu Hiệt, chớp nhoáng lại vung dao lia ngang bụng Trung Đới. Viên Chiêu thảo ngả người tránh đòn rồi khua dao đánh trả. Tiểu Hiệt gục trên vũng máu, tình thế một chọi một chẳng hề làm ai nao núng. Quyền cước và kiếm thuật được cả hai thi triển quyết liệt hòng giết cho được người kia. Trung Đới dùng cánh tay chặn tay dao bổ xuống của Thế Quang, còn tay kia đâm dao vào ngực đối thủ. Thế Quang vặn người né đòn, mũi dao trượt qua sườn làm manh áo rách toạc, Trung Đới mất đà, loạng choạng. Chỉ chờ có thế, Quang quay ngang tay dao chích thẳng vào cổ họng Đới. Gã Chiêu Thảo buông dao, dùng tay bịt vết đâm đang phun máu thành vòi, rồi ngã vật xuống giãy chết.
Thấy một toán kị mã rời trại hướng về phía mình, biết bọn tuần tiễu sẽ đi qua, Thế Quang lẩn sâu vào rừng, tìm đường trở về Hồ Biên.
Phạm Thái về đến Hồ Biên khi trời trạng vạng tối. Dọc đường mấy lần suýt chạm trán quân Nguyên, may chàng phát hiện sớm nên người ngựa kịp thời ẩn nấp, tránh được trận đụng độ bất đắc dĩ. Thấy các toán lính phi như bay về hướng biên ải, Thái biết quân Nguyên đã được báo động, đang tổ chức ngăn chặn mọi nẻo đường tẩu thoát của thám báo Đại Việt.
Tìm chỗ giấu ngựa, Thái khẩn trương về nhà. Thấy Thế Quang và Đỗ Thành đang thổi nấu bữa tối, chàng kể vắn tắt tình hình rồi đề nghị không chờ đến nửa đêm mà nên đi ngay, đề phòng quân Nguyên ập đến vây bắt. Thế Quang không kể với các em về việc loại trừ hai tên thám tử Nguyên, chàng cho rằng chúng đã chết, không còn là mối nguy hại nên chẳng cần lưu tâm. Bỏ lại bữa cơm chưa kịp dọn, ba anh em cạy tấm phản chỗ Thế Quang ngủ, lấy một bọc vải lớn từ ngăn gỗ bên dưới, cắt dây cột, lôi ra ba thanh đoản đao sáng loáng. Mỗi người mang một túi lương thực và nước uống, huynh trưởng cầm theo chiếc nỏ treo trên vách nhà, ngoài ra bỏ lại tất. Họ thổi đèn và cài cửa, lặng lẽ hòa vào bóng đêm, lấy ngựa rồi phi nước kiệu về hướng đông nam.
Thái không hề chọn ngựa theo lời Thanh Khê dặn dò, chính các huynh bảo chàng cưỡi ngựa ô, vì là em út nên được nhường con ngựa to khỏe nhất, còn Thế Quang và Đỗ Thành mỗi người cưỡi một con ngựa nâu.
Do tình thế biến chuyển bất lợi, nên phải hành động quyết đoán mới mong thoát được về nước. Trên đường đi, Thế Quang nát óc suy nghĩ tìm cách vượt qua lưới vây bủa của địch. Cách nào cũng mạo hiểm, song táo bạo bất ngờ có lẽ là phương cách khả dĩ nhất. Nghĩ sao quyết vậy, Thế Quang kìm ngựa, chờ hai em đi sau bắt kịp, chàng nói:
– Phía trước là Tam Đầu, nơi phân chia ba con đường dẫn đến ba quan phòng. Đường đến quan phòng Trạm Nhai và Pắc Pình hiểm trở, heo hút. Giặc Nguyên biết ta đã bị lộ tất nghĩ ta sẽ chọn nơi khó tìm kiếm, khó vây bắt để vượt qua, chúng sẽ tăng cường đón lõng, mai phục chờ ta đến. Đường qua quan phòng Quế Khẩu dễ đi hơn nhiều, cũng dễ bị phát hiện nên chúng sẽ nghĩ ta không dám đi đường này, vậy ta cứ đi đường này rồi tùy cơ ứng biến.
– Cứ theo ý huynh trưởng vậy. – Đỗ Thành nói.
– Nhất trí. Nào ta đi thôi. – Phạm Thái tiếp lời.
– Khoan đã.
Thế Quang nói rồi nhảy xuống ngựa, dùng đao chặt một nhánh cây ven đường, đưa cho Đỗ Thành và bảo:
– Đệ cột vào đuôi ngựa để xóa dấu chân trên đường, chỉ cần xóa vài dặm đầu thôi.
Trong lúc Thành lo cột cành cây vào đuôi ngựa của mình, Thế Quang tranh thủ dặn dò các em:
– Còn một điều rất quan trọng các đệ phải ghi nhớ để về trình với Đại Vương. Hôm qua huynh phát hiện bọn Nguyên vận chuyển tới Ninh Châu mười hai cỗ cự thạch pháo, đây là loại máy bắn đá dùng để phá thành rất lợi hại, mỗi máy có nhiều sảo, khi vận hành mỗi sảo phóng ra một viên đá to cỡ người ôm có thể phá sập tường thành, tháp canh và nhà cửa bên trong. Nghe nói trong trận công thành Biện Kinh quân Thát dùng tám cỗ cự thạch pháo mà phá tan hoang kinh đô nước Kim. Chúng đem loại máy này sang ta chắc định dùng vào việc công phá Thăng Long, nếu nắm được ý đồ của giặc thì Đại Vương sẽ có cách trù liệu. Các đệ đã rõ chưa?
– Đã rõ. – Đỗ Thành và Phạm Thái cùng đáp.
Ba tráng sĩ thúc ngựa hàng một, men theo sườn núi hướng về quan phòng Quế Khẩu cách chừng bảy mươi dặm đường. Đỗ Thành đi sau cùng, đám lá cây xóa nhòa dấu chân ngựa in lên bụi đường, song cũng để lại lác đác vài chiếc lá rơi rụng.
Thời bấy giờ, nhà Nguyên bố trí quan phòng tại những đường hiểm yếu dẫn tới biên ải với chức năng phòng thủ vùng biên và cấp báo bằng hỏa đài khi biên cương bị xâm lấn, mỗi quan phòng biên chế năm mươi lính thú. Cách quan phòng vài ba chục dặm thì tới đồn biên, là cửa ải nằm sát biên giới với ba mươi lính tuần làm nhiệm vụ kiểm soát người qua lại và tuần tiễu đường ngang lối tắt.
Sau khi cử mười hai toán quân hỏa tốc cấp báo tới các quan phòng, biên ải mệnh lệnh chốt chặt quan ải đề phòng thám báo An Nam vượt thoát, Đái Tháp Nhã dẫn theo năm mươi quân vận động phía sau làm nhiệm vụ tương trợ các hướng khi phát hiện dấu hiệu của kẻ gian. Sự phán đoán của Thế Quang hoàn toàn có căn cứ, vì trước đó khoảng một canh giờ, đội truy sát của Đái Tháp Nhã đã dừng lại ở Tam Đầu bàn tính đường tẩu thoát của thám báo đối phương. Chúng tin rằng kẻ chạy trốn sẽ không dám đi đường quang mà tìm cách lẩn vào miền rừng núi âm u để khó bị phát hiện. Tháp Nhã quyết định chia số lính làm đôi, trực chỉ Trạm Nhai và Pắc Pình.
Đám kị binh của tiểu tướng Nhan Hợp cũng chia làm hai mũi càn quét các làng bản trong vùng. Một mũi kéo đến Mai Lâm, đi dọc đường gặp lũ sai nha đang áp giải một lão già lụ khụ về huyện, chúng hỏi thì được biết nghi phạm đã cao chạy xa bay, đám kị mã bèn quay sang hướng tây tiến vào vùng Giang Châu. Một mũi do Nhan Hợp đích thân chỉ huy ập vào Hồ Biên, sau khi nhận được tin báo từ cửa miệng tên thám tử La Tiểu Hiệt.
Số là Tiểu Hiệt chưa chết, vết thương không đoạt mạng nhưng ra nhiều máu khiến hắn kiệt sức. Khi bọn tuần tiễu phát hiện thấy, hắn thều thào được một câu, “Cần cấp báo với Tả thừa Lý Hằng…” Viên đội trưởng cho băng bó tạm rồi khiêng Hiệt lên mình ngựa, sai hai tên kị mã tháp tùng hắn về quân doanh của Lý tướng quân. Dọc đường họ gặp đội truy kích của Nhan Hợp.
Được viên bá hộ địa phương dẫn lối, chúng tới căn nhà của ba anh em Thế Quang, đạp cửa xông vào nhưng chẳng có ai để bắt. Thấy bếp lửa còn than chưa lụi, nồi cơm đầy còn bốc hơi, biết nghi phạm vừa rời nhà không lâu, Nhan Hợp bèn dẫn quân khẩn trương truy kích về hướng biên giới, bỏ qua việc lùng sục vào các bản làng khác, đồng thời sai người quay về doanh báo cáo tình hình với chủ tướng.
Đến Tam Đầu, lấy đuốc soi đường, Nhan Hợp nhìn dấu chân ngựa biết Đái Tháp Nhã chia quân kéo lên Trạm Nhai và Pắc Pình, còn lối về Quế Khẩu không thấy dấu hiệu người ngựa đi qua.
Nhan Hợp cho rằng phải có nguyên do thì Tháp Nhã mới kéo lên các quan phòng hiểm trở kia, nên y cũng chia đôi số quân, một nửa đi Trạm Nhai, một nửa theo y đi Pắc Pình, coi như hướng nào đụng độ thám báo cũng có quân tiếp ứng.
Đi được chừng năm dặm, Nhan Hợp dừng ngựa đột ngột khi chợt nhớ đến một điều khác lạ mà lúc ban đầu nhìn thấy y chẳng hề nghĩ đó là dấu hiệu khả nghi. Lúc ở Tam Đầu, trong ánh đuốc bập bùng, Nhan Hợp loáng thoáng thấy một lùm cây bị gãy cành, nhưng cành gãy hình như không thấy có. Trên đường rừng thiếu gì cây gãy đổ, sao lùm cây gãy cành có vẻ không tự nhiên? Hợp muốn đích thân tìm hiểu, bèn lệnh cho binh sĩ tiếp tục tiến lên Pắc Pình, còn y dẫn theo năm kị mã quay về Tam Đầu.
Soi đuốc vào bụi cây khả nghi ở Tam Đầu, Nhan Hợp nhận ra vết chặt cành bằng dao sắc, bấy giờ y đã hình dung được phần nào động cơ của kẻ chặt, bèn ngắt một chiếc lá làm mẫu rồi cùng mấy tên lính vừa đi về hướng Quế Khẩu vừa soi mặt đường tìm kiếm. Quả nhiên như hắn đoán, có những chiếc lá rụng rải rác trên đường giống hệt chiếc lá vừa hái trên cây. Biết chắc có kẻ dùng cành cây xóa dấu chân ngựa, như vậy hướng đi đã xác định, nếu đuổi gấp có thể vây bắt được đối tượng. Song cả đội đã đi xa, chỉ với sáu người, Hợp nghĩ muốn tiêu diệt mười tên thám báo không phải dễ. Viên tiểu tướng quyết chơi ván cờ mạo hiểm, liền cử hai người phi ngựa lên Trạm Nhai và Pắc Pình điều quân quay lại hướng Quế Khẩu, còn y và ba kị mã tiếp tục bám theo dấu vết thám báo, với hy vọng binh lính ở quan phòng Quế Khẩu đã được báo động trực chiến.
Nhận được tin thám báo ở Mai Lâm đã tẩu thoát, Lý Hằng giận dữ, luôn mồm nhiếc móc đám mã bộ người Hán là một lũ ăn hại, không bắt nổi mấy con chuột nhắt An Nam. Hồi lâu sau lại có tin báo về cho biết Lâm Trung Đới bị giết chết, Nhan Hợp đã tìm ra hang ổ của bọn thám báo ở Hồ Biên, song chúng đã nhanh chân chuồn mất, hiện các đội đang tầm nã trên đường Tam Đầu hướng ra biên giới, Hằng lại nổi trận lôi đình, rủa xả đám quân dưới quyền chậm chạp như rùa bò nên mấy thằng giặc có lân bang mới có cơ trốn thoát.
Mất niềm tin vào đám tiểu tốt, Hằng cho rằng phải đích thân ra tay thì mới xong việc, bèn vận giáp phục gọn nhẹ, xách xà mâu, dẫn theo năm mươi kị mã to khỏe, phi thẳng đến Tam Đầu.
Lại nói về ba anh em Thế Quang, khi đến gần Quế Khẩu, nhìn qua màn sương đêm thấy đèn đuốc lập lòe phía trước, biết chúng tăng cường tuần tra canh gác, cả nhóm xuống ngựa, ẩn nấp sau mấy tảng đá lớn ngồi bàn tính phương án vượt quan phòng. Thế Quang quyết định men theo vách núi tiếp cận quan phòng để thám thính địa thế và cách bố phòng của địch. Lúc quay ra, chàng vắn tắt tình hình với các em, rồi nói:
– Cửa quan đã đóng, trên đường có tới bốn chục lính bộ và năm kị mã lăm lăm đao kiếm, nếu công bừa vào khó mà toàn mạng. Phải bày kế nghi binh may ra mới vượt thoát.
Chợt Phạm Thái chỉ tay về phía mấy ánh đuốc đang di chuyển ở khúc đèo phía dưới, nơi mà họ vừa đi qua. Tính theo đường chim bay từ đấy đến Quế Khẩu chỉ chừng năm dặm, nhưng theo đường đèo uốn lượn thì phải đến ba chục dặm. Họ biết quân Nguyên đang đuổi tới, nếu hai đầu thọ địch thì khó mà chống nổi, bấy giờ cả nhóm sẽ rơi vào tình thế hiểm nghèo.
Quan phòng Quế Khẩu án ngữ con đường độc đạo vắt ngang núi Phú Lĩnh, mặt đường rộng chưa tới ba trượng, một bên là vách đá lởm chởm, một bên là vực sâu, người ngựa muốn vượt núi buộc phải qua quan phòng. Ở chỗ đường thắt lại có chiếc cổng lớn bằng gỗ, mặt cổng quay về phía biên giới, sát cổng có một tháp canh cao tới bốn trượng. Bình thường cổng không đóng, trừ khi có biến động. Cách cổng chừng năm mươi bước là khu đất thoai thoải ăn lõm vào núi có hai dãy nhà dùng làm trại cho quân đồn trú.
Là huynh trưởng, người chịu trách nhiệm chính về nhiệm vụ thám báo và sự an nguy của cả nhóm, Thế Quang quyết đoán tức thời kế hoạch vượt quan, biết rất mạo hiểm song không còn cách nào khác:
– Ba anh em mỗi người một nhiệm vụ, phải làm thật tốt mới có cơ hội thành công. Trại giặc gồm hai dãy nhà, dãy lớn nhiều cửa là nơi ở của chúng, phía trước nhà có một tên lính canh cùng với một bó đuốc cắm trên cọc tre; dãy nhỏ chỉ có cửa đi, không có cửa sổ, chắc là kho chứa lương thảo và vật dụng, bên cạnh đấy là chuồng ngựa. Đỗ Thành đột nhập vào trại, hạ sát lính canh rồi dùng đuốc đốt kho, xong việc là nhanh chân thoát ra phía mặt đường chờ ngựa chạy qua, nhớ tuyệt đối không lộ diện, nếu ngựa không qua thì lẩn vào rừng núi lội bộ về nước. Huynh sẽ áp sát tháp canh, chờ Thành nổi lửa là diệt tên lính trên tháp, thấy kho cháy lớn, bọn tuần tiễu trên đường sẽ lao về cứu chữa, bấy giờ huynh động thủ hạ nốt hai tên gác cổng và mở toang cánh cửa. Phạm Thái chờ tín hiệu kho cháy, thấy đám lính nháo nhào chạy về trại thì vọt lên ngựa, dắt theo ngựa của các huynh, phi nhanh tới cổng, nếu kẻ nào cản đường phải giết bằng hết để vượt qua. Các đệ đã nắm rõ chưa?
– Đã rõ. – Anh em Thành, Thái cùng đáp lại huynh trưởng bằng giọng chắc nịch của người chiến binh chấp nhận đương đầu với sinh tử.
Thế Quang nắm chặt tay hai em, quả quyết huấn lệnh:
– Nào ta cùng hành động, không chần chừ nữa.
Đỗ Thành quàng đao sau lưng, cầm dao ngắn trên tay, luồn lách qua từng mô đất đá, âm thầm như con chồn ăn đêm mà không làm di chuyển một viên đá nhỏ có thể phát ra tiếng động khiến bọn tuần tiễu dưới đường để ý. Thế Quang cầm theo chiếc nỏ, lưng cài đoản đao, di chuyển hình vòng cung, tụt khẽ khàng xuống khe núi rồi bò lên như một con trăn gió rình mồi và trườn vào bụi cây gần kề ngọn tháp. Phạm Thái một tay nắm chặt dây cương hai con ngựa nâu, một tay vỗ về con ngựa ô và thầm thì với nó:
– Ngựa ô ơi, Thanh Khê tin tưởng mày lắm, nàng dặn ta phải cùng mày trở về quê nhà. Mày gắng giúp ta vượt qua ải này nhé.
Hình ảnh người con gái thương yêu hiện về trong tâm trí làm Thái ngơ ngẩn cả người. Băn khoăn trước hậu quả tồi tệ mà ông cháu Thanh Khê đang gánh chịu, lòng chàng trai bị dày vò ghê gớm bởi ý nghĩ không biết giờ này nàng ra sao, liệu có thoát khỏi nanh vuốt của bọn sai nha hung bạo? Còn ông nữa, nỗi khốn khổ của ông là từ con cả, con biết lấy gì đắp điếm vết thương đau trên da thịt của Người? Rồi chợt nhớ đến tình đồng đội cao đẹp, thực tại lại sống động trong trí óc trang nam nhi tuấn kiệt từng đứng trước Đại Vương mà thề nguyện “Trung quân vị quốc, bất quản nguy nan, hoàn thành điệp vụ”. Các huynh đã giành lấy phần nguy hiểm nhất, nhường cho mình nhiệm vụ dễ hơn, nhất quyết phải làm thật tốt để không phụ lòng hai anh. Bụng nghĩ thế khiến tim óc thêm phấn chấn, Thái căng mắt bao quát tình thế, chờ cơ hội hành động. Ánh đuốc đã biến mất sau khúc ngoặt trên đèo, như vậy đám quân đuổi theo chỉ còn cách không đầy mười dặm. Mà sao chưa thấy động tĩnh phía trại giặc, liệu Đỗ Thành có gặp trở ngại gì không? Lòng hồi hộp lo âu, Phạm Thái đứng ngồi thấp thỏm.
Bò vào tận hiên nhà lớn, bấy giờ Đỗ Thành mới biết nó được ngăn làm nhiều gian. Trong gian ngoài cùng có tiếng cười nói ồn ào, chàng nhìn qua khe cửa thấy một tên đội đang ăn uống với năm tên Mông Cổ. Thì ra viên chưởng quản quan phòng tiếp đãi bọn lính truyền tin cấp báo, điều này Thế Quang không lường được, vì huynh ấy tiếp cận mục tiêu từ xa. Nhiệm vụ trở nên khó khăn hơn, Thành quyết định làm khác đi so với phương án ban đầu, trước tiên phải hạ thủ gọn nhẹ tên gác cửa để tránh kinh động bọn bên trong, đồng thời ngăn chặn khả năng chúng lao ra truy sát.
Thành nhón chân áp sát gã lính canh từ phía sau, một tay thít vào cổ rồi bịt chặt miệng, một tay vung dao nhọn đâm xuyên ngực tên địch, khi người hắn nhũn ra, chàng kéo xác dựa lưng vào cột nhà như tư thế đang ngồi nghỉ. Xong một việc, Thành lặng lẽ cậy cửa căn nhà nhỏ, đúng như huynh trưởng phán đoán, đấy là kho chứa cỏ khô và lương thực. Chàng nhẹ nhàng ôm một đống cỏ chất bên ngoài cửa gian nhà có đám lính đang say sưa rượu chè, cũng không quên thảy dăm bó trước chuồng ngựa. Xong việc thứ hai, Thành rút bó đuốc trên cọc tre, nhanh tay châm vào các bộ cỏ trước nhà rồi chạy sang đốt chuồng ngựa, bó đuốc được chàng quẳng vào kho, chờ nó bùng lên mới lao ra cửa quan.
Thế Quang nấp trong bụi rậm chỉ cách tên gác cổng đứng bên phải không đầy mười bước chân. Chàng tìm chỗ thuận tiện để khi cần có thể hạ gục tên lính trên tháp canh đồng thời quan sát được động tĩnh từ phía cậu em đang đột nhập trại giặc. Vốn từng trải trận mạc, chàng biết mục tiêu đầu tiên của mình là tên địch trên tháp. Kẻ canh chòi tháp thường mang cung nỏ, vì xưa này đấy là vũ khí phòng thủ lợi hại nhất từ trên cao. Quân Nguyên nổi tiếng về khả năng cưỡi ngựa bắn cung, lúc phi ngựa chúng vẫn có thể buông tên trúng đích, huống hồ khi tĩnh tại. Nếu không diệt được tên này, Phạm Thái phi ngựa tới dễ trở thành mồi ngon của hắn. Căng thẳng chờ đợi Đỗ Thành ra tay, lòng nóng như lửa đốt, Thế Quang dõi mắt đăm đăm qua kẽ lá mà mãi vẫn chưa thấy dấu hiệu hành sự. Bọn lính truy đuổi đang áp sát phía sau, chẳng biết chúng có bao nhiêu tên nhưng thêm một tên kị mã kéo đến thì nhóm của chàng thêm một phần bất lợi. Cơ hội đang tuột dần, chậm trễ là thất bại.
Chợt ánh lửa bùng lên phía trại lính, trong chớp mắt thêm hai ngọn lửa nữa bốc cháy rừng rực soi sáng trưng một góc núi. Chỉ chốc lát, gió đông bắc thổi lửa cháy phần phật lan khắp tòa nhà lớn, ngọn lửa bốc cao dữ dội tạc lên nền trời dáng vẻ hả hê của vị hỏa thần đang nuốt chửng ngon lành mớ tre gỗ nhỏ nhoi do bầy người xếp đặt. Tiếng ngựa hí hoảng loạn vang rờn rợn rừng đêm. Tiếng la hét tuyệt vọng của mấy kẻ bị vây hãm trong hỏa ngục dội vào vách núi cũng khiến ma quỷ rùng mình.
Ánh lửa vừa lóe sáng, Thế Quang đã chĩa nỏ lên tháp canh rồi bật lẫy tức khắc. Mũi tên xuyên thẳng vào cổ họng tên lính, hắn ngáp được vài cái và đổ ập xuống. Chỉ chờ có thế, trên tay nắm chặt đoản đao, chàng phi thân khỏi bụi cây rồi hiện ra sừng sững như một vị thiên lôi từ trên trời nhảy xuống ngay giữa hai tên lính gác đang luống cuống không biết chuyện gì xảy ra, rồi với một chiêu tuyệt đao cuồng phong bạt vũ, đầu của hai kẻ vắn số đã lăn lông lốc trên đường. Loại xong đám lính canh, Thế Quang dùng hết sức bình sinh khẩn trương đẩy thanh gỗ dày đến sáu tấc bật ra khỏi mấy cái đai sắt, mở toang hai cánh cửa.
Khi lửa bốc lên, nghe tiếng kêu thét cầu cứu của viên chưởng quản và mấy tên Mông Cổ, đám lính đang tuần tiễu nhốn nháo lao về cứu chủ. Năm tên kị mã giục phi nhưng tới gần đám cháy thì mấy con ngựa hoảng loạn, khiến chúng không điều khiển nổi đành bỏ ngựa xuống bộ; đám lính thì cuống cuồng chạy về rồi quát lác nhau ỏm tỏi do không biết cách nào dập lửa, cảnh tượng chẳng khác gì đàn ong vỡ tổ mất phương hướng. Còn lại dăm đứa vẫn lăm lăm khí giới trên đường, chúng sợ mắc bẫy của gian tế.
Nhìn ngọn lửa cháy rực, Phạm Thái biết thời cơ đã đến, nhưng chàng vẫn nán đợi cho thật chín muồi. Chờ đám lính đổ xô về chữa cháy, thấy huynh trưởng đang nỗ lực mở cửa, Thái liền nhảy lên mình ngựa, tay trái cầm cương và sợi dây nối với hai con ngựa nâu, tay phải vung đoản đao, phi nước đại tới quan phòng. Ba con ngựa lao vun vút trên đường, tiếng vó câu nện xuống mặt đất thình thịch khiến mấy tên lính bị bất ngờ cứ trố mắt ra nhìn mà không phân biệt nổi địch ta. Rồi có thằng hét toáng “Quân giặc”, bấy giờ đã quá muộn, con ngựa ô đã ở ngay trước mặt chúng. Một tên lúng túng khua câu liêm loạn xạ, hòng ăn may móc trúng chân con ngựa đi đầu. Chú ngựa phản xạ nhanh nhẹn, co hai chân trước vọt lên cao, rồi dùng chân sau đạp lên lưỡi câu liêm làm tên lính mất đà ngã dúi dụi về phía người cưỡi ngựa, Phạm Thái tiện tay phạt một nhát dao vào vai hắn. Ba tên chắn ngang đường, chĩa giáo xỉa vào thân ngựa, một đứa đổ gục bởi trúng tên của Thế Quang từ giữa cổng bắn tới, một đứa bị lưỡi đao của Thái bổ thẳng vào đầu, một đứa bị con ngựa nâu hất tung người xuống khe núi. Hai tên còn lại hoảng sợ quá nên chạy dạt vào vách đá ẩn nấp.
Ngựa phóng tới cổng, Thế Quang nhún chân nhảy lên chiến mã của mình. Qua khỏi cổng một đoạn, đã thấy Đỗ Thành xuất hiện từ bụi cây ven đường. Ba anh em giục ngựa phi nước đại về phương nam, chẳng mấy chốc bóng họ nhạt nhòa sau màn sương.
Đám lính đang xúm xít tìm cách cứu người trong căn nhà cháy, thấy ngoài đường đánh nhau dữ dội, mấy tên lính kị nhảy lên ngựa quay ra tiếp ứng đồng đội. Ra đến nơi thì kẻ địch đã cao chạy xa bay, chỉ còn mấy cái xác nằm ngổn ngang giữa đường. Biết gặp phải đối thủ sừng sỏ, không dễ gì đương đầu với họ, lại không được ai ra lệnh, chúng chấp nhận kìm cương ngựa, chẳng dại lao vào bóng đêm truy đuổi.
Nhóm kị mã của Nhan Hợp trên đường truy kích thám báo, khi vừa qua khúc đèo cua tay áo đã thấy quan phòng Quế Khẩu cách chừng hai dặm phía trước đang bốc cháy rừng rực. Biết đã xảy chuyện chẳng lành, Nhan Hợp hò hét đám kị sĩ thúc ngựa nhanh hơn nữa. Ập đến nơi, y được bọn lính thú cho biết:
– Gián điệp An Nam đột kích trại, hỗn chiến với quân trấn thủ rồi tháo chạy trên đường Ma Nhai.
Hợp hỏi:
– Chúng có bao nhiêu tên?
Bọn lính trả lời:
– Chắc khoảng mười mấy đứa.
Hợp lại hỏi:
– Từ đây đến biên giới bao xa?
Chúng trả lời:
– Không đầy ba mươi dặm.
Nhìn ngọn lửa đang thiêu rụi lán trại, biết không thể cứu vãn được nữa, Hợp hạ lệnh dừng tay, chấn chỉnh đội ngũ, tiếp tục tầm nã địch quân. Đội kị mã trước sau được chín người tiên phong truy kích. Đám lính trấn thủ, trừ mấy tên ở lại giữ cổng và thu dọn chiến địa, còn lại hơn ba chục tên chạy bộ tiếp ứng. Cả bọn nhanh chóng lên đường đuổi theo nhóm thám báo của Thế Quang ở cách đấy không xa.
Theo lệnh của Nhan Hợp, chúng không dùng đuốc, để đối phương không nhìn thấy ánh lửa mà xác định được khoảng cách giữa hai bên.