Chương 3 Trịnh Đình Toản hiến kế, Yết Kiêu luyện thuật đục thuyền
Đông Bộ Đầu duyệt binh, Nguyễn Khoái rèn quân đánh thủy
Trịnh Đình Toản là sứ thần của Đại Việt mới được Nguyên triều thả về sau một thời gian bị giam lỏng ở Đại Đô. Nguyên do mùa đông năm Mậu Dần (1278), ông cùng Đỗ Quốc Kế thừa lệnh Thượng hoàng Thánh Tông đi sứ nước Nguyên để thoái thác việc ngài không thể sang chầu kẻ xưng xưng tự nhận là con trời. Hốt Tất Liệt nổi cơn thịnh nộ truyền lệnh giữ Chánh sứ Trịnh Đình Toản ở lại kinh đô Đại Nguyên, đồng thời buộc Phó sứ Đỗ Quốc Kế dẫn sứ thần Nguyên là Sài Xuân sang Đại Việt, mang theo chiếu dụ quốc vương An Nam phải đúc người vàng cống nạp thay thế. Vua ta cứ lần khân xin khất hết kỳ này đến kỳ khác cái yêu sách phi lý của Nguyên triều, còn gửi biểu chương quyết liệt đòi người bằng lời lẽ mềm mỏng mà kiên định, khiêm tốn nhưng đanh thép khiến chúng phải chấp nhận thả Đình Toản về nước.
Hưng Đạo ân cần thăm hỏi khách:
– Ta biết tin ngài mới về nên mừng lắm, cũng muốn gặp gỡ đàm đạo nhưng chưa dám quấy quả sợ làm phiền ngài tĩnh dưỡng sau chuyến đi ngàn dặm.
Đình Toản cảm kích giãi bày:
– Đa tạ tấm lòng của Quốc Công, trải mấy năm cá chậu chim lồng bởi trong tâm nặng trĩu nỗi niềm hoài hương nên hạ quan cứ đau ốm suốt, khi nghe tin được thả về thì thấy người khỏe hẳn, vượt đường trường muôn dặm đâu có ngại gì. Ngặt nỗi Nguyên triều nham hiểm cấp cho họ quan và hai tên đày tớ ba con ngựa già nua ốm yếu, khi chưa đến Châu Giang đã lăn ra chết cả. Thế là mấy chủ tớ đành cuốc bộ hơn nửa tháng trời mới đến được biên cương. Đặt chân lên đất Việt, ba con người mừng rơi lệ như kẻ chết đi sống lại, cùng hướng về xuôi mà bái lạy ân nghĩa của thánh thượng đã gia công cứu giúp bề tôi thoát kiếp đày ải. Lòng đã thề không đội chung trời với giặc Thát, bây giờ hạ quan cũng muốn đóng góp thiển ý của mình để Đại vương tính kế diệt trừ họa xâm lăng.
Hưng Đạo hỏi:
– Vậy ngài có cách gì giúp Quan gia đánh đuổi kẻ thù khi chúng phạm cõi?
Đình Toản trả lời:
– Do hạ quan có thời gian rong ruổi qua miền Giang Châu nên tận mắt chứng kiến đội ngũ thuyền chiến của quân Nguyên. Lần này chinh phạt phương Nam có lẽ chúng sẽ huy động thủy quân nên thuyền bè mới tụ hội đồng như thế. Thuyền của chúng to dài, chắc khỏe, có thể chở được nhiều người, nhiều lượng thảo nhưng xoay trở khó khăn, nếu đi ngược dòng thì khá chậm chạp. Thủy quân của giặc rất hùng hậu trong khi thủy quân của ta nhỏ yếu hơn nhiều, chúng ta cần đánh vào yếu điểm của chúng mới thắng được.
Hưng Đạo lại hỏi:
– Theo ngài nên dùng cách gì để diệt thuyền giặc?
Đình Toản đáp:
– Một con châu chấu to khỏe khó mà chống cự bầy kiến nhỏ bé bâu lại cắn xé. Thuyền ta nhẹ, chèo nhanh, xoay chuyển dễ, nếu dùng nhiều thuyền nhỏ đồng loạt áp sát mạn thuyền cồng kềnh mà đánh thì sẽ diệt được.
Hưng Đạo ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Ý kiến của ngài rất hay nhưng chỉ áp dụng được khi thuyền giặc đơn độc trên sông hoặc di chuyển một nhóm vài ba chiếc, nếu chúng đi cả đoàn vài chục, vài trăm chiếc thì phương pháp này không ổn.
Đình Toản lại nói:
– Hạ quan không theo nghiệp võ nên chỉ có thể nghĩ được đến thế. Đại vương là bậc võ công hiển hách chắc rằng sẽ tìm ra nhiều phương pháp triệt hạ đoàn thuyền chiến của giặc.
Hưng Đạo nghĩ bụng “Quả thật quân ta chưa một lần đối đầu với thủy quân của Nguyên Mông. Gợi ý của Đình Toản rất đáng để suy ngẫm” bèn nói:
– Thật cảm động trước tấm lòng của ngài đối với xã tắc, chính ngài đã mở mắt cho ta thấy cần chú trọng hơn nữa về phương pháp thủy chiến. Nhất định phải tìm tòi nhiều cách đánh sao cho thật hiệu quả để triệt tiêu lũ quái vật trên sông nước của giặc Thát.
Đêm ấy Hưng Đạo Đại Vương trằn trọc trên giường mà không tài nào ngủ được, cứ nghĩ đến buổi trò chuyện với Trịnh Đình Toản, ngài lại thấy day dứt trong lòng. Một viên quan văn nhỏ bé còn biết lo nghĩ về công tác thủy chiến, ta thân mang trọng trách thống lĩnh quân đội há lại xem nhẹ việc này hay sao? Không tính kế trước, chờ cho nước đến chân mới nhảy, chúng ồ ạt kéo vào bằng đường thủy, bấy giờ sẽ khó bề chống đỡ. Vương bật dậy khỏi giường, chong đèn đọc sách, tìm tòi trong cổ thư các sử liệu về thủy chiến khả dĩ vận dụng với hoàn cảnh bây giờ.
Trong trận Xích Bích, Khổng Minh và Chu Du dùng hỏa công đốt trụi thuyền của Tào Tháo, nhưng nếu đoàn thuyền không bị xích lại và không cầu được gió đông nam thì liên quân Tôn – Lưu đâu có thắng lớn. Ta không biết hô phong hoán vũ như họ Khổng, quân Thát chắc gì neo cột thuyền bè một chỗ để chờ ta nổi lửa, như vậy cách này khó áp dụng hiện thời. Song dù thấy hỏa công là một phép đánh lợi hại, phải tùy biến mà dùng trong từng trường hợp cụ thể.
Trận Bạch Đằng năm xưa Ngô Vương đại phá quân Nam Hán bằng diệu kế thủy triều và cọc gỗ, nhưng phương pháp này có điểm bất lợi là chỉ dùng được ở vùng cửa sông rộng rãi, nhiều bãi lau sậy, nước triều lên xuống hằng ngày. Song rõ ràng giặc Nam Hán đại bại bởi thuyền bè mắc cạn, bị cọc gỗ đâm thủng đáy khiến nước tràn vào nhấn chìm chúng xuống lòng sông, như vậy yếu tố thủy góp phần trọng yếu trong chiến thắng lẫy lừng của nhà Ngô, phải ghi nhớ điều này để nghiên cứu sáng tạo cho phù hợp.
Vương dùng bút viết chữ “hỏa” và chữ “thủy” rồi khoanh tròn từng chữ một. Lại nhớ đến cách ví von của Đình Toản “con châu chấu to khỏe khó mà chống cự bầy kiến nhỏ bé bâu lại cắn xé”, ngài mỉm cười rồi viết thêm chữ “quần” và khoanh tròn lại. Như vậy là có ba phương cách có thể áp dụng trong thủy chiến để tiêu diệt các hạm thuyền to lớn, cồng kềnh của giặc, từ đó sẽ phân tích lợi hại để áp dụng các phương cách sao cho đạt hiệu quả nhất.
Ngài tranh thủ viết tấu sớ gửi Quan gia xin được đóng thêm thuyền chiến và tổ chức tập trận thủy quân, để sớm mai cho người chạy ngựa về kinh dâng lên hoàng thượng.
Sau nhiều ngày trăn trở, suy đi tính lại, Hưng Đạo Vương gọi Yết Kiêu vào giao phó công việc:
– Ngươi hãy đi một chuyến dọc các vùng sông biển để tuyển mộ những người cường tráng, giỏi bơi lặn, có tinh thần trung dũng và nhiệt huyết đánh giặc. Thời hạn tối đa chỉ một tháng phải tuyển chọn được ít nhất là ba mươi, nhiều nhất là năm mươi tráng sĩ về đây.
Sở dĩ Vương giao trọng trách ấy cho Yết Kiêu mà không phải ai khác vì người nô bộc này là bậc kỳ tài trong thiên hạ về khả năng bơi lặn, rất chín chắn và kiên định, đã nhận việc là dứt khoát làm đến nơi đến chốn, bất kể khó khăn trở ngại, chấp nhận cả đổ máu hy sinh. Quả nhiên chưa đầy một tháng, Yết Kiêu dẫn về năm mươi trai tráng khỏe mạnh rắn rỏi, đều là ngư dân, quanh năm lênh đênh hải hồ, thuần thục mò trai lấy ngọc, săn kình lấy vây. Hưng Đạo rất hài lòng, bèn phủ dụ tân binh:
– Các anh em về đây đầu quân khiến ta rất cảm kích bởi mọi người đã tin tưởng mà giao phó số mệnh cho ta, chấp nhận làm bầy tôi trong đội ngũ phò vua giữ nước do ta thống lĩnh. Trước kia các anh em sống cuộc đời tự do tự tại như con cá dưới nước, như con chim trên rừng, nhưng nay đã tham gia quân ngũ thì phải khác. Ta sẽ không bạc đãi ai cả, nhưng muốn anh em thực hiện cho tốt mấy điều sau: thứ nhất phải tận trung với vua, chấp nhận da ngựa bọc thây vì sơn hà xã tắc; thứ hai phải tuyệt đối tuân thủ kỷ cương và quân pháp; thứ ba phải rèn luyện cho giỏi, mình đồng da sắt, tinh thông ngón nghề, tài trí quả cảm; thứ tư phải đồng cam cộng khổ, huynh đệ hữu ái, tương trợ lẫn nhau. Ai chấp nhận điều kiện của ta thì ở lại, ai không thể làm theo thì có thể ra về, ta sẽ không trách phạt còn cấp cho lộ phí.
Cả năm mươi con người không hề nhúc nhích, không một ai có ý định rời đội ngũ. Rồi họ đồng thanh hô vang:
– Chúng tôi nguyện chấp hành lời Đại Vương răn dạy, nguyện theo Đại Vương phò vua giúp nước.
Hưng Đạo cả mừng mà rằng:
– Ta rất vui trước tinh thần của mọi người. Nay cho các ngươi ba ngày để nghỉ ngơi và ổn định nơi ăn ở, sau đó sẽ bước vào tập luyện.
Hưng Đạo đặt phiên hiệu Kình Ngư đội cho nhóm thủy quân mới thành lập. Yết Kiêu lại được giao nhiệm vụ huấn luyện tân binh. Bất kể ngày mưa hay nắng, mùa hè hay mùa đông họ phải ngâm mình dưới nước nhiều canh giờ để tăng cường khả năng bơi lặn. Ban đầu chủ yếu luyện bơi sao cho nhanh và giảm thiểu tiếng động, dùng ống sậy để thở khi vận động ở độ sâu vừa phải. Về sau tập lặn dài hơi mà không cần ống thở. Cuối cùng học sử dụng rìu búa cạy ván đáy thuyền và khả năng tự vệ dưới nước.
Kế lấy rìu đục thuyền được Đại Vương vận dụng sáng tạo từ chiêu thức của Ngô Quyền dùng cọc gỗ bịt sắt đâm thủng thuyền giặc để dìm chúng xuống đáy sông, mà ngài hào hứng cho rằng “Coi như ta đã di chuyển cọc nhọn của tiền nhân tới mọi khúc sông có thuyền bè giặc lai vãng”.
Rồi ngài kêu người kiếm mấy thuyền cũ để Kình Ngư luyện tập. Theo gợi ý của chủ tướng, Yết Kiêu chia mỗi toán gồm năm người, hai người mang rìu, một người mang búa, cùng làm nhiệm vụ đục thuyền, hai người mang dao ngắn có trách nhiệm bảo vệ đồng đội, đề phòng kẻ địch cho quân xuống nước vây bắt đối phương. Yết Kiêu dẫn đầu toán quân miệng ngậm ống sậy bơi chìm dưới nước áp sát “thuyền giặc” rồi lặn xuống tìm chỗ nối giữa các ván thuyền mà dùng búa và rìu cạy cho khe ván toác ra. Ván chiến thuyền thường chắc và dày, song bằng tài trí và sức lực, cùng với khả năng nín thở lâu nên các đội viên Kinh Ngư đều hoàn thành tốt khóa tập “đục ván dìm thuyền”.
Thấy Dã Tượng mặt mày ủ rũ, hằng ngày đứng trên bờ nhìn đám thủy quân của Yết Kiêu tập luyện mà than ngắn thở dài, xem ra có phần không hài lòng, Hưng Đạo tinh ý đoán biết nguyên do nhưng vẫn làm ngơ. Cho đến khi gần mãn khóa tập, ngài mới kêu Dã Tượng lại hỏi:
– Ngươi làm sao mà rầu rĩ cả ngày, nếu trong người không khỏe thì ta cho nghỉ ngơi ít bữa?
Dã Tượng đáp:
– Bẩm Đại Vương, tiểu nhân chẳng ốm đau gì cả. Chỉ có điều trong bụng không vui nên thế.
Hưng Đạo lại hỏi:
– Ai làm ngươi không vui?
Dã Tượng phàn nàn:
– Tiểu nhân và Yết Kiêu tình thân như huynh đệ ruột thịt, nên không có chuyện ghen tức gì cả, chỉ có điều Đại Vương giao cho y hết thảy công việc còn tiểu nhân lại suốt ngày ngồi không nhàn rỗi, từ đấy sinh lòng buồn nản.
Hưng Đạo liền phán:
– Ai cho người ngồi không mãi, do chưa đến lúc dùng mà thôi. Bây giờ sắp hết khóa huấn luyện rồi, người lựa cho ta ba mươi gia binh khỏe mạnh, giỏi dùng cung tên và móc câu. Chuẩn bị năm thuyền nhỏ, bốn thuyền chất đầy cỏ khô và một vò dầu lạc.
Dã Tượng hớn hở đi làm nhiệm vụ, Vương mim cười nghĩ bụng “Bọn tiểu tử này đứa nào cũng sốt sắng tận tụy, cũng nên hậu đãi chúng tử tế”.
Mấy ngày sau vào một đêm không trăng, Hưng Đạo cùng các tiểu tượng và môn khách đứng trên bờ sông theo dõi Dã Tượng chỉ huy binh sĩ tập trận hỏa công. Giữa dòng sông tối đen có một chiếc thuyền lớn được định vị là “thuyền giặc”. Bất chợt từ bãi lau sậy phía thượng nguồn có năm chiếc thuyền nhỏ lao ra vun vút, mỗi chiếc có sáu tay chèo khua mái nhịp nhàng, đẩy thuyền lướt nhanh trên nước mà không hề gây tiếng động ồn ã. Bốn chiếc chất cỏ khô xuôi dòng chảy áp sát “thuyền giặc”, các móc xích quăng lên ngoắc vào mạn thuyền lớn, đuôi xích được cột nhanh vào tay chèo, những vò dầu mở nắp tưới đẫm đống cỏ, đội cảm tử xong nhiệm vụ liền khẩn trương rời thuyền xuống nước bơi vào bờ. Bấy giờ chiếc thuyền thứ năm đi sau một đoạn chớp thời cơ phát hỏa. Dã Tượng đứng trên mũi thuyền truyền lệnh “Buông chèo, đốt lửa mũi tên, nhắm thuyền cỏ xạ tiễn”. Sáu tráng sĩ đồng loạt bỏ chèo, một người thổi khí vào cái bếp than nhỏ, một người tưới dầu để lửa bùng lên, bốn người đốt mũi tên tẩm dầu rồi giương cung bắn vào thuyền cỏ. Mấy thuyền cỏ cháy rực, chớp nhoáng ngọn lửa lan nhanh sang thuyền lớn.
Nhìn lửa cháy phần phật thiêu rụi con thuyền cũ giữa dòng sông, ai nấy đều hả hê vui thích. Riêng Đại Vương bình thản nói “Phải khẩn trương hơn. Bất ngờ là yếu tố quyết định thành công. Sẽ cho thao dợt thêm vài lần nữa”.
Hài lòng trước tiến bộ trong huấn luyện của thủy quân, Đại Vương muốn ban thưởng cho các nô bộc có nhiều công lao nhất. Một hôm ngài cho gọi Yết Kiêu, Dã Tượng tới, mà truyền rằng:
– Hai người theo ta đã lâu, cũng lập được nhiều công trạng đáng kể. Nay ta muốn giải thoát thân phận gia nô cho các ngươi rồi tiến cử với triều đình để phong quan trước mà hưởng lộc.
Hai bậc tôi trung vội quỳ lạy Hưng Đạo mà đáp:
– Đại Vương là chủ nhân, chúng tôi rời bỏ ngài là bất trung, được Đại Vương nuôi dạy từ tấm bé, chúng tôi rời bỏ ngài là bất hiếu. Bầy tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu,
Vương ứa nước mắt cảm động trước tấm lòng của họ.
Hưng Đạo vẫn không quên chữ “quần” trong phép thủy chiến do ngài đề ra. Nhân một chuyến về kinh để bàn bạc kế hoạch duyệt thủy quân, Vương cho mời tướng quân Nguyễn Khoái đến tư gia của ngài ở Thăng Long. Chủ khách an tọa, Vương vào đề ngay:
– Tướng quân chỉ huy vệ Thánh Dực, việc huấn luyện binh sĩ chiến đấu trên mặt đất có lẽ là chuyện thường xuyên, nhưng đã bao giờ tổ chức cho họ tập dợt đánh nhau dưới nước chưa?
Nguyễn Khoái ngớ người trước một vấn đề ông chưa bao giờ nghĩ tới, bèn hỏi lại:
– Bẩm Quốc công Tiết chế, có phải ngài muốn biết quân của tiểu tướng có học đánh trận bằng thuyền?
Hưng Đạo trả lời:
– Đúng vậy.
Nguyễn Khoái đáp:
– Quân Thánh Dực trước nay chỉ được đào tạo đánh giặc trên mặt đất bằng bộ binh hoặc kị binh. Tiểu tướng thiết nghĩ quân ta cũng có lực lượng thủy binh với sở trường đánh trận bằng thuyền, nếu vệ quân cũng tham gia thủy chiến thì e rằng không kham nổi.
Vương bèn thủng thẳng nói:
– Hiểu như vậy cũng không sai. Nhưng nước ta nhiều sông ngòi, còn giặc Thát thì lắm thuyền chiến, nếu chúng kéo sang đông rồi theo các dòng sông mà đánh phá khắp nơi sẽ bất lợi lắm. Thủy quân của ta còn yếu, khi gặp chiến thuyền của giặc lại phải đợi huy động thuyền bè đến đánh thì không ổn rồi.
Bấy giờ Nguyễn Khoái mới vỡ lẽ, bèn hỏi:
– Vậy theo ngài chúng tôi phải làm sao?
Vương lại nói:
– Thủy quân sẽ là lực lượng chủ yếu trong thủy chiến, song vệ quân và lộ quân cũng nên tập luyện các phương pháp diệt chiến thuyền của giặc, như vậy dù chúng ở trên bộ hay dưới nước bất kể nơi đâu ta cũng có thể đánh. Một vị văn thần gợi ý cho ta phép dùng nhiều thuyền nhỏ lợi dụng đêm tối áp hai mạn thuyền lớn của địch mà đánh bất ngờ, khi lên được khoang thuyền giặc thì dao kiếm của vệ quân thả sức tung hoành. Cách đánh này không cần bơi lặn giỏi nên quân Thánh Dực có thể dùng được.
Tướng Nguyễn Khoái mắt sáng rỡ, đáp:
– Đa tạ Đại Vương chỉ giáo. Xưa nay vệ quân không thạo thủy chiến, nghe ngài giảng giải mới biết mình còn dở lắm, nhất định phải khắc phục thiếu sót này. Tôi sẽ bàn bạc với phó tướng Phạm Ngũ Lão tổ chức cho binh sĩ luyện tập cách đánh thuyền giặc theo phương pháp của ngài.
Hưng Đạo gật đầu hài lòng, còn dặn dò thêm:
– Tháng tám sẽ duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, khi ấy nếu quân Thánh Dực thao diễn thủy chiến có hiệu quả sẽ cho áp dụng rộng rãi ở các đơn vị vệ quân và lộ quân. Vậy là tướng quân còn hơn hai tháng để luyện quân sĩ, hãy chuẩn bị cho tốt.
Thừa lệnh Thượng hoàng và Quan gia, giữa mùa thu năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổ chức duyệt binh tại Đông Bộ Đầu, là bến cảng trên sông Hồng ở mé đông kinh thành Thăng Long.
Quân của triều đình và các lộ được huy động tới hai vạn, quân của các vương hầu từ khắp nơi kéo về có đến ngót vạn, vài trăm chiến thuyền đậu san sát bờ sông, các lán trại dựng trên bãi sông dài hơn dặm; cờ xí đủ màu sắc và kích cỡ tung bay rợp trời trong ánh nắng ban mai tô điểm thêm vẻ uy nghi hoành tráng của những phiên hiệu vệ quốc Đông A trước bầy lang sói phương Bắc đang chờ thời cơ kéo sang ăn tươi nuốt sống giang sơn Đại Việt. Các đơn vị vệ quân và lộ quân, các giang đoàn thủy binh, các lữ kị binh, các đội gia binh trang nghiêm trong những bộ sắc phục tươi mới, gươm giáo sáng lòa, cung khiên bóng lộn, hàng ngay lối thẳng trên bến dưới thuyền và trên lưng đoàn ngựa chiến làm tăng thêm khí thế oai phong của lực lượng chiến binh nước Nam luôn sẵn sàng quyết tử với kẻ thù xâm lược truyền kiếp đến từ bên kia biên giới. Hơn trăm vương hầu và tướng lĩnh giáp trụ đường bộ, cân đai rực rỡ, tuấn tú và uy dũng, tài ba và từng trải, ở trên khán đài với bộ ba trung tâm là Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, các vị còn lại theo thứ bậc mà chia nhau đứng hai bên, trở thành hệ thống đầu não quân đội Đại Việt. Phía trước mặt là một khu đất rộng lớn và bằng phẳng, là chỗ dành cho các đội ngũ quân sự diễu hành và trình duyệt lực lượng. Phía sau lưng là một tháp cao mười tám thước, được sơn son rực rỡ làm chỗ ngự xem duyệt binh của nhị vị hoàng đế, những lãnh tụ tối cao trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tự chủ của sơn hà xã tắc, biểu tượng bất diệt của tinh thần quốc gia – dân tộc.
Quân đội triều đình tham dự theo quy chế hội đủ các lực lượng, gồm mười hai vệ quân, mỗi vệ tuyển năm trăm tráng sĩ, mười hai lộ quân, mỗi lộ tuyển ba trăm binh sĩ, hai giang đoàn thủy quân mỗi đoàn năm mươi chiến thuyền, hai lữ đội kị binh mỗi đội năm trăm chiến mã. Gia binh vương hầu góp mặt theo nguyên tắc đại vương cử năm trăm quân, vương cử ba trăm quân, hầu cử một trăm năm mươi quân. Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu đã đến tuổi tham gia chính sự, trong lễ duyệt binh lần này không thể thiếu đội ngũ của họ.
Quân của Quốc Toản đứng xa khán đài nhưng đại kỳ “Phá cường địch – báo hoàng ân” lại có phần nổi bật, khiến mọi người ngoái nhìn với ánh mắt phấn khích. Ở trên đài cao, Thượng hoàng có vẻ tâm đắc với lá cờ nên dặn dò Quan gia “Thằng bé này là người có chí khí, bệ hạ nhớ lưu tâm đến nó”. Nhân Tông đáp “Thưa phụ hoàng, hai năm trước ở Bình Than nó với hoàng đệ Hoài Nhân cứ đời vào nghị chính mà không được. Năm nay chúng lớn cả rồi, con phải dặn Hưng Dạo Vương triệu đích danh đấy ạ”. Thánh Tông cười vui bảo rằng “Tốt lắm, bệ hạ không quên lớp trẻ khí phách thì lo gì thiếu người tài hội tụ dưới ngai rồng”. Quan gia kính cẩn thưa “Hồng phúc của hoàng nhi có được bây giờ cũng do phụ hoàng truyền dạy mà nên”.
Đầu giờ thìn, mở màn lễ duyệt binh. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cưỡi chiến mã đen tuyền phủ gầm xanh tua vàng trên yên cương xuất hiện từ đầu hàng quân. Ngài vận võ phục màu tía sẫm, đầu đội mũ trụ ngù đỏ, điều khiển ngựa tiến về lễ đài trong phong thái lẫm liệt uy nghi. Cưỡi ngựa bạch phía sau là các gia tướng Lương Bình và Tuấn Thọ cầm trên tay hiệu kỳ chữ nhật, cờ đỏ của Bành thêu bốn chữ vàng “Quốc công Tiết chế”, cờ vàng của Thọ thêu bốn chữ đỏ “Hưng Đạo Đại Vương”. Hàng sau là ba con chiến mã màu nâu của Yết Kiêu, Nguyễn Địa Lô và Dã Tượng, Yết Kiêu đi ngoài nắm long đao Quốc Công, Địa Lô đi giữa nâng ấn Soái phủ, Dã Tượng đi trong giương bảo kiếm Tiết chế. Hàng cuối là tám quân hiệu cầm cờ đuôi nheo, chia làm hai dãy đi bộ, ười mặc trang phục đồng màu với lá cờ của họ. Đến trước khán đài, Hưng Đạo và tả hữu tùy phải dừng ngựa, chắp tay hướng mõi mặt lên đài cao hành lễ. Vương hầu và ba quân tướng sĩ đồng loạt ngoảnh về phía nhị hoàng mà bái vọng. Hưng Đạo cất giọng hùng hồn khởi tấu:
– Phụng chỉ Thái thượng hoàng và Quan gia, nay đương tiết trung thu mây lành nắng đẹp, thần Quốc công Tiết chế tụ hợp tướng sĩ toàn quân phô diễn lực lượng dưới bệ rồng, thượng kính nhị vị hoàng đế chuẩn thuận và phát lệnh diễu binh.
Gần ba vạn con người đồng thanh hô lớn “Thượng hoàng vạn vạn tuế. Hoàng thượng vạn vạn tuế”. Tiếng rền dội tới tận kinh thành, trăm họ trong vùng còn nghe văng vẳng.
Nhân Tông hoàng đế ra dấu, một viên quan thị ở trên đài cao dùng cờ vàng phất ba lần. Hưng Đạo Vương nhận hiệu khai diễn, bèn quay về phía binh sĩ truyền lệnh:
– Lễ diễu binh bắt đầu.
Hai chiếc trống cái ở hai góc khán đài dong ba hồi chín tiếng ầm vang bến nước, hào hùng và trang trọng. Tiếng trống vừa dứt, Đại Vương ra chỉ dấu, tám quân hiệu từ phía sau theo hình vòng cung tiến lên trước, nơi đặt chiếc bục gỗ cao ba thước. Hai lính hầu đẩy chiếc xe chở giá gỗ kê một cái loa lớn cong hình trái bí có vành loa to hơn chiếc thúng, đầu loa cao ngang tầm người cưỡi ngựa, Quốc Công Tiết chế ghé miệng vào loa dõng dạc hô vang:
– Mười hai vệ quân, trung nghĩa kiên cường, phò tá triều vua, trấn thủ kinh đô, giữ yên xã tắc, trình diễn.Thập nhị vệ quân, trung nghĩa kiên cường, phù hoàng triều, trấn kinh sư, an ninh xã tắc, trình diễn.
Quân hiệu cờ trắng tách khỏi toán bước lên bục gỗ, tay cầm hai lá cờ đuôi nheo phất ngang dọc theo một quy ước định sẵn. Các vệ Tứ Thiên rùng rùng chuyển động theo hàng năm tiến ra trước lễ đài, bốn hiệu kỳ tả hữu tung bay phất phới, đội ngũ uy phong, bước chân đều đặn, giáo thương trùng trùng, đao kiếm tua tủa, hòa làm một rồi lại tách làm đôi, từ khối hình đắc thủ chữ điền田 chuyển hóa sang thế đội tung hoành chữ thập十, rất tinh nhuệ và quy củ.
Sau màn trình diễn lực lượng, hai ngàn chiến binh Tứ Thiên rút về vị trí xuất phát, nhường khoảng trống cho các đơn vị khác phô trương.
Tiếp đến là quân hiệu cờ vàng của các vệ Tứ Thánh rồi quân hiệu cờ đỏ của các vệ Tứ Thần. Mỗi phiên hiệu vệ quân tùy thuộc vào sự sắp đặt của tướng chỉ huy mà diễu binh theo đội hình chuyên biệt, nhưng đều rất bài bản và hào sảng, khiến nhị hoàng trên đài cao lẫn trăm quan tướng ở bên dưới cùng nức lòng thán phục.
Hưng Đạo lại hô vang:
– Mười hai lộ quân, sắt đá gan góc, đảm nhiệm quê hương xứ sở, phòng thủ biên thùy, ổn định bờ cõi, trình diễnThập nhị lộ quân, thiết thạch can trường, đảm hương xứ, thủ biên thùy, ổn định cương vực, trình diễn.
Quân hiệu cờ đen điều khiển mười hai lộ quân từ hai phía tiến về lễ đài, dẫn đầu mỗi lộ là một tráng sĩ giương cao lá cờ thêu tên địa phương, đội hình cánh trái là các lộ quận Long Hưng, Kiến Xương, Bắc Giang, Hải Đông, Hồng Châu và Khoái Châu, đội hình cánh phải là các lộ quân Thiên Trường, Quốc Oai, Trường Yên, Hoàng Giang, Thanh Hóa và Diễn Châu. Quân các lộ mặc sắc phục khác nhau, màu đen của rừng núi, màu lam của miền biển, màu nâu của trung du và màu lá của đồng bằng, những khuôn mặt sạm nắng gió hiên ngang trước hàng quân, những cánh tay rắn rải nắm chắc khí giới, cung tiễn giương cao, trường thương chĩa thẳng, đoản kiếm tuốt trần. Đến trước khán đài, mỗi lộ quân từ hàng năm chuyển thành hàng một, mười hai hàng quân xếp dài tít tắp cùng hướng về phía quân vương và bá quan, ba ngàn sáu trăm quân sĩ kết thành một binh đoàn lớn rồi chuyển động tại chỗ. Theo thống hiệu, sau ba tiếng gõ thì hàng quân đầu quay mặt lùi về phía sau cùng, còn các hàng quân sau lại tiến lên lấp vào khoảng trống ở phía trước. Cứ thế, lần lượt mười hai lộ quân thay nhau xuất hiện ở hàng đầu như những lớp sóng trào chất chứa ý chí và niềm kiêu hãnh Đại Việt.
Hưng Đạo lại hô vang:
– Hai lữ đoàn kị binh, oai phong trên ngựa chiến, tuần phòng phương nam bảo vệ phía bắc, ngăn chặn lang sói, bình định đất dữ, trình diễn.Nhị lữ kị binh, uy phong chiến mã, tuần nam vệ bắc, tiêu sài lang, bình hiểm địa, trình diễn.
Quân hiệu cơ lục phát lệnh, một ngàn người ngựa dàn hàng năm từ hai phía hùng dũng tiến vào, đi đầu cánh trái là quân kị cầm cờ tía Thiên Phong, đi đầu cánh phải là quân kị cầm cờ nâu Thiên Vũ, những kị sĩ hùng dũng tay khiển cương, tay nắm giáo, hông cài trường kiếm, lưng đeo cung tên, vó ngựa nhịp nhàng, đội hình tề chỉnh. Đến khu trung tâm, hai lữ đan vào nhau tạo thành những vệt sọc quân phục nâu tía thẳng tắp. Chợt trống hiệu khua vang, dải nâu nhịp nhàng chuyển động, đội kị sĩ hàng đầu thúc ngựa phi nước kiệu băng qua lễ đài để trở về nơi xuất phát, tiếp đến là dải tía nhưng chuyển động theo hướng ngược lại, cứ thế mười hàng kị binh lần lượt trình diễn thao tác điều khiển chiến mã trước quân vương và quan tướng.
Hưng Đạo lại hộ vang:
– Đày tớ vương hầu, trung gan tận tụy, ở dưới phục dịch chủ, ở trên theo giúp vua, thời bình làm tôi đòi, thời loạn làm binh sĩ, trình diễn.Gia đinh vương hầu, trung can tận tụy, hạ phụng chủ, thượng tòng đế, nô bình binh loạn, trình diễn.
Quân hiệu cờ nâu điều phối hai mươi tư đội gia binh vương hầu xuất phát, quân của các đại vương đi trước, tiếp đến là quân của các vương, cuối cùng là quân của các hầu; cơ man cờ xí, muôn màu binh phục, đa dạng khí giới, tuy thiếu chính quy nhưng chẳng hề ô hợp, dẫu đội ngũ chưa đồng đều nhưng không kém phần khí thế, lại còn rất hào hùng bởi thanh âm tù và, chiêng trống của các đoàn gia nô mặc áo lính.
Hưng Đạo lại hô vang:
– Hai giang đoàn, quân thủy tinh nhuệ, đông ven biển, tây thượng nguồn, ổn định nước non, trình diễnNhị giang đoàn, thủy quân tinh nhuệ, đồng hải biên, tây thường xuyên, yên định sơn hà, trình diễn.
Quân hiệu cờ lam tiếp quản bục gỗ, phất cờ ra lệnh cho mười hai vệ quân ở phía đối diện với khán đài di chuyển hàng dọc sang hai bên tả hữu, mở ra một khoảng không gian rộng lớn đủ để quân thần nhìn bao quát toàn bộ bến sông, nơi có một trăm chiến thuyền neo đậu. Theo hiệu có điều khiển, đội ngũ thủy bình trên các thuyền nhận lệnh xuất phát. Soái hạm Thần Phong dẫn năm mươi chiến thuyền chào ngược lên thượng nguồn, soái hạm Thần Vũ dẫn năm mươi chiến thuyền lái xuôi về hạ nguồn. Chốc lát, hai giang đoàn đã quay đầu chuyển hướng và giao nhau ngược xuôi giữa bến cảng; ngoài các tay chèo và khiển buồm, số thủy binh còn lại dàn hàng ngang trên mạn thuyền, những mặt người nâu bóng chai lì, những ngực trần cơ bắp cuồn cuộn, dao kiếm giương lên, thương giáo dựng thẳng, tỏ rõ khí thế hiên ngang và dũng mãnh của lớp chiến binh lão luyện sông nước.
Sau lễ duyệt binh, Thượng hoàng tấm tắc khen ngợi, Quan gia phấn khởi vui mừng, còn trăm quan tướng cùng mãn nguyện tự hào, họ hài lòng bảo nhau “Quân của ta nhất tinh nhì cường, củng cố thêm phần chí sẽ đủ sức đối chọi với lũ giặc Thát cường bạo”. Trước lúc tạ từ hai vua, Hưng Đạo Vương nói:
– Khởi bẩm nhị hoàng, tối mai là ngày mười sáu, thần xin kính rước hai vị ra đây mục kích quân Thánh Dực của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão thao dợt thủy chiến.
Các vương hầu đứng xung quanh xì xào bàn tán, vì không hiểu tại sao Hưng Đạo lại dùng bộ binh mà không phải thủy binh để tập trận thủy chiến. Nhân Tông thấy vậy bèn nói:
– Tiết chế chắc có lý do nên mới tổ chức việc này. Đêm nay các khanh vào cung đón rằm cùng ta và Thượng hoàng, tối mai chúng ta đến xem thử Hưng Đạo bố trận quân Thánh Dực đánh nhau dưới nước ra sao? Bấy giờ yêu cầu Hưng Đạo giải thích cũng chưa muộn.
Tối muộn, trăng mười sáu dát ánh bạc lung linh mặt nước, rọi tỏ chiếc thuyền chiến to lớn cồng kềnh đậu giữa dòng sông. Quân thần tụ hội đông đảo trên bờ chờ xem lính bộ trình diễn phương pháp đánh thủy. Chỉ có hai chiếc ghế dành cho nhị hoàng, vương hầu và khanh tướng đứng phía sau và hai bên tả hữu. Nhìn quanh không thấy một tên lính nào cả, Thánh Tông hỏi:
– Tướng sĩ Thánh Dực đâu cả rồi, sao chưa hành động?
Hưng Đạo đáp:
– Bẩm Thượng hoàng và Quan gia, họ đang ém quân để tạo yếu tố bất ngờ. Cũng đến lúc khởi sự rồi ạ.
Ngài yêu cầu tắt hết đuốc để không làm lóa mắt mọi người rồi vỗ tay truyền lệnh. Một tên lính hầu cầm chiếc đèn lồng được che kín bằng vải đen chạy ra sát mép nước và lật vải lên xuống liên tục để ánh đèn đỏ nhấp nháy nhiều lần, làm hiệu cho đội hình xuất kích.
Từ hai bên bờ sông phía thượng nguồn có nhiều chiếc thuyền thoi lao ra vun vút, mỗi chiếc có mười tay chèo nhắm hướng thuyền chiến giữa sông mà lướt tới. Đội hình từ bên này gồm năm chiếc do Nguyễn Khoái đầu lĩnh áp sát mạn phải thuyền lớn; đội hình từ bên kia cũng năm chiếc do Phạm Ngũ Lão chỉ huy áp sát mạn trái thuyền lớn. Tay chèo vừa buông là các móc câu được quăng lên, rồi các chiến binh lưng cài đoản đao leo thoăn thoắt lên mạn thuyền đối phương. Bấy giờ trên thuyền “địch” có tiếng hò la thất thanh, rồi từ dưới khoang thuyền, nhiều “tên giặc” xách khí giới lao lên chống trả. Hai bên đánh nhau kịch liệt, gươm đao loang loáng dưới ánh trăng vằng vặc, bóng người ngả nghiêng chồng chành trên bãi chiến trường dài không quá mười hai trượng, tiếng vũ khí va đập loảng xoảng vang rộn cả một khúc sông đêm. “Giặc” bị “tiêu diệt” hết, nhưng nhiều chiến binh Thánh Dực cũng “gục ngã” trên chiến thuyền.
Khung cảnh “trận đánh” y như thật, khiến các vua cùng bá quan rất thích thú và thán phục. Lúc ấy Hưng Đạo mới lên tiếng giải thích:
– Theo thông tin thần nắm được, quân Nguyên huy động rất nhiều thuyền chiến loại lớn hàng chuẩn bị chinh phạt nước Nam. Đại Việt có nhiều sông ngòi và bờ biển dài, dù kẻ địch có kéo sang bao nhiêu chiến thuyền cũng không thể kiểm soát hết, bấy giờ buộc chúng phải chia nhỏ đội hình, đấy là lúc ta sử dụng bộ binh để đánh tia chiến thuyền của giặc. Thủy binh ta yếu hơn giặc, sẽ có cách đánh khác, còn phương pháp này có thể dùng vệ quân, lộ quân hoặc gia binh diệt thuyền giặc ở mọi khúc sông, bến bãi mà không cần chờ thủy quân lâm chiến.
Thượng hoàng Thánh Tông rất tâm đắc với chủ ý của Hưng Đạo nên truyền dạy:
– Đây là một sáng tạo trong phương pháp thủy chiến của Quốc công Tiết chế, hoàng thượng cần chỉ dụ cho quân đội cả nước nghiên cứu học hỏi.
Nhân Tông đáp:
– Bẩm Thượng hoàng, con cũng vừa nghĩ tới việc này.
Hưng Đạo từ tốn nói:
– Thưa nhị hoàng, thực ra cách đánh này là do Trịnh Đình Toản gợi ý cho hạ thần. Sau khi được Nguyên triều thả về nước, Toản qua miền Châu Giang tận mắt chứng kiến giặc Thát tập hợp đồng đảo thuyền bè to lớn nên nảy ra sáng kiến dùng nhiều thuyền nhỏ bâu vào đánh phá thuyền lớn mà Toản gọi là hiện tượng “một con châu chấu to khỏe bị đàn kiến cắn xé” đấy ạ.
Hai vua và quần thần cười vang. Thánh Tông bảo:
– Khá khen cho người này. Triều đình cần ghi nhớ công lao của y.
Quan gia và các quan tướng da ran. Bấy giờ Trần Nhật Duật nêu thắc mắc:
– Quốc Tuấn có thấy nếu thủy quân giặc phát hiện thuyền của ta sớm hơn thì việc đánh chúng khó thành không?
Hưng Đạo trả lời:
– Ý của Chiêu Văn cho rằng trời sáng quá nên việc tiếp cận thuyền giặc dễ bị lộ chứ gì? Hôm nay trăng sáng nên Quốc Tuấn chủ ý mời nhị hoàng và mọi người ra đây chứng kiến cho rõ phương pháp đánh thuyền giặc, còn khi đánh thật thì ai dại gì chọn đêm rằm để tổ chức công kích. Những đêm trời nhiều mây, không trăng sao, có sương mù càng tốt, là lúc có thể bất ngờ áp sát thuyền giặc mà đánh.
Mọi người lại cười ồ vui vẻ. Nhật Duật chữa ngượng:
– Hưng Đạo huynh đúng thật là, giải thích rõ từ đầu thì ta đâu có hỏi.