Chương 4 Gối đầm lệ nóng, Hịnh tướng sĩ thức tỉnh nhân tâm
Mực trộn màu hồng, thích Sát Thát tỏ bày tráng chí
Đang miên man suy tưởng, chợt nhìn thấy trong màn mưa phùn lất phất ẩn hiện những ánh đuốc lập lòe, rồi tiếng huyên náo ngoài cổng thái ấp vọng vào, Hưng Đạo biết có chuyện lớn, liền bật dậy, thoăn thoắt bước ra ngoài hàng hiên đứng đợi. Thiên Thành phu nhân cũng vội vã theo chân chồng mà trong lòng không khỏi linh cảm mơ hồ về những điều nghiêm trọng.
Từ cổng thái ấp đến sảnh đường dài không dưới năm mươi trượng. Chốc lát đã thấy Lương Bành dẫn đầu đoàn chiến mã phi rầm rập vào sân. Đi cùng họ là một xe ngựa bịt mui kín mít. Các gia binh nghe tin đồng đội bị thương hớt hải mang cáng tre ra đón. Mui xe được mở ra, anh em xúm xít khiêng người ở trong xe lên cáng rồi mang vào nhà.
Phạm Thái đây rồi, tuy thương tích đầy người nhưng vẫn còn sống, mà sao không thấy bóng dáng Đào Thế Quang và Đỗ Thành đâu cả, Vương lo lắng biết đã xảy chuyện chẳng lành. Thái cố ngồi dậy để lạy chào chủ soái làm máu tứa ra loang đỏ bằng vải trắng quấn quanh ngực, vết thương khiến chàng đau đớn phải bấu chặt tay vào thành cáng. Hưng Đạo vội xua tay, mà bảo:
– Ngươi cứ ở yên kẻo thương tích lại rỉ máu. Ta miễn lễ cho. Hãy nằm nghỉ chốc lát rồi bẩm báo sau.
Lại thấy Lương Bành và các chiến hữu cùng quỳ mọc dưới chân ghế, đầu cúi sát đất, hai tay nâng đoản kiếm như muốn tạ tội trước Đại Vương, Hưng Đạo bèn hỏi:
– Lương Bình có gì muốn trình bày?
Bành ngẩng đầu đáp trong tiếng nấc nghẹn:
– Bẩm chủ soái, tiểu nhân đáng tội chết vì không làm tròn nhiệm vụ, không cứu được Thế Quang và Đỗ Thành. Tổn thất này đều do lỗi của tiểu nhân, nay xin chịu tội, còn các anh em dưới quyền chỉ là kẻ thừa hành, mong người ra ân tha cho họ.
Năm chiến binh quỳ phía sau đồng thanh lên tiếng:
– Bọn tôi tớ cũng có tội, xin người trừng phạt.
Vương thấy vậy bèn nói:
– Được rồi, hãy đứng lên cả, kể cho ta nghe sự tình đã xảy ra, bấy giờ mới xét công tội của từng người.
Lương Bành kể lại vắn tắt trận chiến ở Tà Pạc Nầm, cái chết oanh liệt của Thế Quang và Đỗ Thành, tinh thần trung dũng của lão Ma Văn Kế, cha con trai chủ Lô Viên Tả và các chiến binh miền núi. Đại Vương im lặng lắng nghe, nhưng mọi sắc thái cảm xúc đều bộc lộ qua nét mặt. Có lúc ngài cắn chặt vành môi để khỏi bật ra tiếng thở dài thương tiếc, có lúc ngài nhíu trán đăm chiêu như ý thức được một việc cần suy xét kỹ, lại có lúc ngài bừng bừng ánh mắt như muốn thiêu đốt thành tro bụi bầy ma quỷ đang lởn vởn đâu đó ngoài kia, lại có lúc ngài hả hê sảng khoái như người đang khát được uống một bát nước đầy.
Thiên Thành phu nhân ngồi bên cạnh chồng, nghe hết câu chuyện bên lẳng lặng đứng dậy đi vào nhà trong. Bà thấy lòng nặng trĩu, thế là đã rõ, cái giá xương máu của chiến tranh bắt đầu chảy, ngày mai đón nhận hung tin, Thị Hương chắc thê thảm lắm.
Đám gia binh, tôi tớ đứng ngoài cửa rưng rưng khóe lệ cảm thương hai chiến binh mãi mãi không trở về. Hưng Đạo cất lời, phá vỡ bầu không khí bị ai:
– Tì tướng Lương Bằng và các thuộc hạ nghe ta truyền dạy: các người đã làm tốt trách nhiệm của mình, trong hoàn cảnh như thế còn cứu được Phạm Thái là đáng khen rồi. Đào Thế Quang và Đỗ Thành bỏ mình vì xã tắc sẽ được ghi công đầu trong cuộc chiến vệ quốc. Trại trưởng Lô Viên Tả gửi con trai cho ta, các ngươi hãy tiếp nhận và rèn giũa nó thành một chiến binh trong đội ngũ.
Nói đến đấy, Vương đắc chí mỉm cười, rồi tiếp:
– Ta rất thích lời hô “Sát Thát”, rất ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa. Hãy coi đây là một khẩu hiệu đánh giặc trong cuộc chiến nay mai.
Mọi người rất hào hứng, ai cũng bàn tán sôi nổi cách thức thể hiện tinh thần “Sát Thát”. Hưng Đạo lệnh cho các tôi tớ giải tán, chỉ giữ lại đội của Lương Bành và mấy thủ tục thân tín nhất. Bấy giờ ngài mới hỏi Phạm Thái:
– Có thể báo cáo tin tức được chưa?
Phạm Thái đáp:
– Bẩm, rồi ạ.
Hưng Đạo ra lệnh:
– Không cần phải ngồi dậy. Cứ nằm yên mà nói.
Phạm Thái báo cáo thông tin địch tình mà chàng ghi nhớ nằm lòng:
– Nhà Nguyên huy động năm mươi vạn quân đánh Đại Việt. Ở hướng đông bắc, hơn ba chục vạn bộ binh và hai vạn kị binh do Trấn Nam Vương Thoát Hoan trực tiếp thống lĩnh, dưới trướng có nhiều tướng soái dày dạn trận mạc, dự định khởi binh vào ngày Đông chí, như vậy chỉ sau đấy dăm ngày tiền quân của giặc đã có thể đặt chân lên đất Đại Việt trên hướng Lộc Châu. Chúng chuẩn bị mười vạn thạch lương nuôi quân, dùng một ngàn xe ngựa, ba trăm thuyền lớn và năm ngàn phu để vận chuyển lương thực. Hồi mùa xuân chúng còn cử Hốt Đô Hổ và Ô Mã Nhi chỉ huy hai trăm chiến thuyền đem theo hai vạn quân vượt biển qua Chiêm Thành để tiếp ứng cho Toa Đô, lực lượng này sẽ đánh nước ta từ hướng nam. Ngoài ra quân Nguyên còn kéo sang mười hai cỗ cự thạch pháo dùng bắn đá phá thành rất lợi hại, có lẽ mục tiêu của chúng là kinh thành Thăng Long.
Hưng Đạo hỏi:
– Trung tâm hành khiển của Thoát Hoan ở đâu?
Phạm Thái đáp:
– Thoát Hoan có soái phủ tiền phương ở Khâm Châu, nhưng hành tỉnh Kinh Hồ mới là trung tâm đầu não của hắn.
Đôi mắt Đại Vương mở trừng trừng như mắc nghẹn khi phải miễn cưỡng nuốt cho hết mớ thông tin tồi tệ do Phạm Thái cung cấp. Những con số đáng gờm về lực lượng của quân Nguyên cứ nhảy múa trong đầu ngài như đang cố làm vỡ tung mọi tính toán được xếp đặt từ trước.
Thế là không còn úp mở gì nữa, giặc đã ấn định ngày động binh, chiến tranh là điều không thể tránh khỏi, tuy việc này đã đoán định được nhưng sao trong lòng ta vẫn có cảm giác hụt hẫng ghế gớm. Phải trấn tĩnh lại để suy xét kỹ càng, bấy giờ mới quyết những gì cần tiến hành cấp bách. Tiết Đông chí chỉ cách hai bảy ngày, quãng thời gian quá ngắn ngủi để vận động lực lượng chiến tranh. Cần tranh thủ từng ngày kẻo ta sẽ chậm chân hơn lũ giặc. Mà sao không thử níu kéo hòa hoãn? Dứt khoát phải đánh rồi nhưng thêm một ngày hòa bình là thêm một ngày chuẩn bị kỹ càng hơn cho cuộc chiến.
Như vén được bức màn âm u che kín tầm nhìn, hướng đôi mắt sáng quắc về phía các gia nhân trung tín, Đại Vương bình thản sai khiến:
– Tình hình cực kỳ nguy cấp, ta cùng các ngươi phải vào việc khẩn trương. Trong đêm nay cần cấp báo cho các môn khách, tì tướng và tả hữu hộ vệ tập trung về đại sảnh để nhận lệnh.
Các thủ tục nhanh chóng đi triệu tập mọi người. Vương lại truyền dạy:
– Phạm Thái đã hoàn thành trọng trách của mình, ta ghi nhận công lao này. Các chiến binh dưới quyền Lương Bành cũng mệt mỏi lắm rồi, ta cho về nghỉ ngơi. Hãy đưa Phạm Thái xuống trại, gọi lương y trong thái ấp đến chẩn trị ngay. Lương Bành ở lại chờ giao việc.
Nói rồi Vương sai gia nhận mài mực để thảo thư tín. Ngài tranh thủ thời gian chờ đợi mọi người tập hợp mà ngồi viết liền bốn lá thư.
Trời tối đen, từng cơn gió lạnh luồn lách qua khu vườn phả xấp ngửa vào những mặt người phờ phạc. Phạm Thái được các chiến hữu khiêng về khu gia binh. Bị vết thương hành, chàng lịm đi trong cơn đau đớn vật vã.
Nửa canh giờ sau, các môn khách, tì tướng và tả hữu thân cận đã tề tựu đông đủ ở đại sảnh An Quốc Đường. Trong ánh đèn sáng đỏ, khuôn mặt cương nghị của Quốc công Tiết chế ánh lên màu đồng rắn rỏi, ngài ngồi bất động trước án thư mà không mảy may để ý đến lời vái chào của mọi người. Vương đang dành toàn bộ tâm trí vào kế hoạch khởi động chiến tranh vệ quốc, một cuộc chiến sẽ rất tàn khốc mà người nắm cương vị thống lĩnh quân đội như ngài buộc phải tiến hành trong tình thế không còn con đường nào khác.
Phía sau lưng Hưng Đạo là Yết Kiêu và Dã Tượng, hai nô bộc trung can bậc nhất của soái phủ. Đứng ở dãy bên phải sảnh đường có mười lăm môn khách, những bậc nho sĩ toàn tài được Vương đối đãi như bằng hữu thân cận. Đứng ở dãy bên trái sảnh đường là mười tám tùy tướng và đội trưởng, những gia binh tài giỏi và tận tụy dưới trướng Quốc công Tiết chế. Tất cả mặc trang phục chỉnh tề, không ai bảo ai nhưng họ đều biết tình hình đang chuyển biến xấu nên cùng giữ thái độ im lặng, căng thẳng chờ đợi Đại Vương lên tiếng.
Bằng giọng trầm đầy biểu cảm, Vương thông báo ngắn gọn:
– Giặc Nguyên sắp kéo đại quân vào nước ta. Có thể chúng tiến đánh từ ba hướng, đông bắc, tây bắc và nam, tổng cộng quân số không dưới năm mươi vạn. Tình thế chiến tranh đã rõ ràng, không đầy một tháng nữa nước Nam sẽ tràn ngập lang sói. Chúng ta phải đánh thôi vì đây là lựa chọn duy nhất để bảo tồn sơn hà xã tắc. Mọi người hãy chuẩn bị tinh thần để bước vào cuộc chiến.
Ngài ngừng nói, nhìn khắp lượt tả hữu bên dưới như đang cân nhắc Công việc giao phó cho mỗi người, rồi dõng dạc sai truyền:
– Tùy tướng Tuấn Thọ nghe lệnh.
Trong hàng trái, vang tiếng hô “Có tiểu nhân”, Tuấn Thọ hùng dũng bước ra giữa sảnh khoanh tay đợi lệnh. Hưng Đạo chỉ thị:
– Ngươi điều động quân hiệu chạy ngựa trạm thâu đêm thông báo khắp các lộ tin tức giặc Nguyên sắp khởi binh và truyền lệnh triệu tập chỉ huy các lộ quân thượng triều trong hai ngày tới để họp bàn với Quan gia về quyết sách đánh giặc.
– Xin tuân lệnh. – Tuấn Thọ đáp lớn rồi lui vào hàng.
Đại Vương lại truyền:
– Tùy tướng Lương Bình nghe lệnh.
Lương Bành đáp “Có thuộc hạ” rồi hiên ngang bước ra đợi lệnh. Hưng Đạo nói:
– Ngươi vừa trở về nên sức lực giảm sút nhiều, nhưng việc này ta không biết giao cho ai khác, vậy hãy vì ta mà nỗ lực. Ở đây có hai phong thư, trong đêm nay người dẫn theo vài quân kị phóng đến phủ Thiên Trường để kịp giao thư cho Thượng hoàng lúc bình minh, thư còn lại giao cho Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải ở thái ấp của ngài. Khi gặp vương, nhớ chuyển lời ta muốn hội kiến với ngài vào đêm mai, trước lúc thượng triều vào sáng mốt.
Lương Bành bước tới nhận hai lá thư cho vào túi áo ngực rồi khẳng khái đáp “Xin Đại Vương hãy tin tưởng ở tiểu nhân”.
Hưng Đạo lại lên tiếng:
– Tùy tướng Nguyễn Hòa nghe lệnh.
“Tiểu tướng đợi lệnh”, một người trạc tuổi tứ tuần bước ra, khuôn mặt tinh anh, cử chỉ lịch lãm, ra dáng là người có học. Đó là Nguyễn Hòa, viên tùy phải được Đại Vương tín nhiệm, chuyên phụ trách công việc thư tín và giao hảo giữa An Quốc Đường với các vương hầu.
– Người điều hành tôi tớ chuyển thông tin chiến tranh tới mọi thái ấp trong nước, hẹn với các vương sớm sủa về kinh để sáng mốt họp với Quan gia bàn kế chống giặc, các hầu nắm trọng trách quân quyền cũng mời luôn thể, còn các hầu khác thì dặn chấn chỉnh đội ngũ, mài gươm sửa giáo cho tốt rồi chờ ta gửi lệnh điều binh. Riêng ngươi đích thân đến phủ đệ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc giao tận tay cho vương phong thư này và cố thuyết phục ông ta vào triều họp bàn.
Hòa bước lên nhận thư, khẽ đáp “Tiểu nhân sẽ nỗ lực làm tròn nhiệm vụ”. Hưng Đạo nói nhỏ với Hòa “Ngươi dặn người truyền tin bảo với các tiểu vương nhà ta thu xếp mai qua Vạn Kiếp để chia tay với thân mẫu rồi cùng ta lại kinh”.
Vương truyền tiếp:
– Tùy tướng Nguyễn Địa Lô nghe lệnh.
Địa Lô bước ra giữa sảnh, khoanh tay đáp “Tiểu nhân sẵn sàng”. Vương giao việc:
– Ngươi chia người cấp báo tình hình cho các vệ quân, yêu cầu triệu hồi tướng sĩ về trại đầy đủ, tăng cường vũ khí và lương thảo, án binh chờ ta điều động.
Ngài ra lệnh cho Yết Kiêu “sửa sang thuyền bè, trực chiến ngày đêm, tăng cường tuần tiễu trên sông từ thái ấp đến tận của biển”. Các tì tướng và tả hữu khác đều được giao nhiệm vụ; người chỉ huy tháo dỡ và chôn giấu các đồ vật quý giá trong tư dinh; người đốc thức vận chuyển lương thực lên núi cất giấu; người chỉnh trang quân ngũ và khí giới; người chuẩn bị phương tiện và nơi chốn để khi có lệnh sẽ tiến hành di tản phụ nữ, người già và trẻ em trong điền trang vào núi lánh nạn.
Sau khi giao phó nhiệm vụ cho các thuộc hạ, Đại Vương lại truyền lệnh:
– Canh thìn sáng mai, ngoài những người thi hành công vụ, tập hợp tất cả gia binh theo đội ngũ trước An Quốc Đường để tiễn biệt tử sĩ và nhận huấn thị. Bây giờ các ngươi khẩn trương vào việc của mình.
Mọi người cùng chắp tay bái biệt Đại Vương rồi nhanh chóng rời đại sảnh. Trong lán trại, các chiến binh lặng lẽ khoác áo tơi mà lầm lũi lên đường làm phận sự bất kể ngoài trời đang mưa cùng với những cơn gió thổi như roi quất rát mặt người. Giữa đêm tối mù mịt ở cái vùng bán sơn địa vắng lặng, hàng trăm bó đuốc bập bùng theo các chàng kị sĩ phi nước đại tỏa đi muôn hướng mang dáng dấp của một ngày đặc biệt: ngày khởi động cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân Đại Việt sau hai mươi bảy năm đất nước thái bình an lạc, cho dù lù xâm lược Nguyên Mông chưa tràn qua biên giới.
Điều động xong bầy tôi, lúc ấy Hưng Đạo Vương mới quay sang đám môn khách mà thổ lộ tâm tư bằng giọng trầm buồn:
– Bấy lâu ta với các bằng hữu vẫn ăn cùng mâm, đàm đạo cùng chiếu, ngặt nỗi thế nước lâm nguy, vận mệnh sơn hà ngàn cân treo sợi tóc, từ nay chẳng biết có được ngày nào anh em ta lại ngồi bên nhau uống chung một nậm rượu? Cuộc chiến sắp tới chắc chắn rất tang thương, nên ta không thể chu toàn sinh mệnh của mọi người. Vì vậy ai cần về nhà thu xếp cho mẹ già con thơ thì ta đành gạt nước mắt mà tiễn biệt. Sớm mai phu nhân sẽ cấp cho các vị lộ phí đi đường. Còn vị nào muốn ở lại dấn thân cùng ta vào cuộc chiến phò vua giữ nước thì Quốc Tuấn này hết lòng cảm kích mà nguyện cùng sống chết với huynh đệ giữa chốn sa trường.
Các môn khách bùi ngùi cảm xúc trước ngã rẽ bất ngờ trong cuộc đời vốn dĩ đang yên lành của kẻ sĩ nương thân đợi thời dưới bóng Đại Vương. Tâm can bị giằng xé, họ ngơ ngác nhìn nhau mà phân vân không dám quyết nên đi hay ở. Bỏ đi thì không đành, lại có phần hổ thẹn trước thịnh tình đối đãi của gia chủ lâu nay. Ở lại cũng cam go, dũng khí tuy có đôi chút nhưng thân phận thừa văn thiếu võ lấy bề nào kham nổi việc binh đao?
Hưng Đạo nhìn thấu lòng người, ngài nhẹ nhàng khích lệ:
– Đừng ngại ngần gì, chiến tranh sắp ập đến, ai cũng có quê nhà và gia đình để lo toan. Các bằng hữu hãy về định xá thu xếp hành lý để mai còn lên đường. Khi nào tàn cuộc chiến, cánh cửa điền trang lại rộng mở đón tiếp anh em về đây vui vầy với ta.
Có sáu người nhỏ lệ bái biệt Đại Vương ra đi, chín người khăng khăng ở lại cùng đồng cam cộng khổ với thống lĩnh quân đội trong cuộc chiến ngày mai. Hưng Đạo mừng thầm, một người mà ngài rất muốn ở lại đã nhất quyết không ra đi.
Đại Vương sai gia nhân dâng trà mời mọi người. Họ ngồi quanh án thư bàn bạc chính sự.?
Vương tỏ bày tâm trạng:
– Thật đáng mừng khi số đông huynh đệ ở lại cùng ta trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế này. Các vị đã tạm quên việc nhà mà ngồi đây toan tính việc nước thì lẽ nào Quốc Tuấn không coi mọi người là mưu sĩ của mình? Nay cần tiến hành một việc hệ trọng, Thì Kiến có thể đảm đương việc này, chẳng hay để có sẵn sàng công du một chuyến xa xôi cách trở?
Trần Thì Kiến bấy giờ đang độ tuổi thanh xuân, tuấn tú và tráng kiện, lanh lợi và túc trí, lại giỏi ăn nói nên được Đại Vương đối xử như con cháu trong nhà. Chàng quả quyết đáp lời:
– Đại Vương cứ giao phó. Được ngài tin tưởng giao việc là niềm vinh dự lớn lao, Thì Kiến có sá gì thân này.
Hưng Đạo mừng rỡ, dặn dò cụ thể:
– Đệ cùng bốn vệ sĩ phóng ngựa xuyên đêm về kinh, đến tư gia Học sĩ Đinh Củng Viên giao cho ngài lá thư này. Dặn ngài cấp báo với hoàng thượng và đề nghị người cử sứ sang Nguyên ngay trong ngày. Nếu Quan gia thuận thì đệ tháp tùng sứ đi Bắc, không đến Đại Đô mà đến hành khiển Kinh Hồ. Thoát Hoan nắm quyền sinh sát trong cuộc chinh chiến nước Nam, đến đó thương lượng với y là được. Trên đường đi truyền đạt với sự chú ý của ta: không mang thông điệp đầu hàng hay chấp nhận mọi điều kiện của giặc, mà gắng trì hoãn ngày chúng động binh, kể cả việc úp mở về khả năng ta sẽ nhượng bộ để giặc lầm tưởng Đại Việt run sợ đang tính chuyện tiếp rước quan quân thiên triều vào cai trị. Làm cách nào cũng được, miễn sao kéo dài thời hạn xuất quân của giặc. Phải tận dụng từng giờ từng khắc kẻo hỏng việc.
Kiến sốt sắng tạ từ, khẩn trương lên đường làm nhiệm vụ. Vương tiễn ra cửa, còn dặn dò thêm “Vất vả cho đệ lắm. Nhớ tranh thủ nghỉ ngơi khi Học sĩ vào triều. Ta tin tưởng để đi chuyến này sẽ được việc”. Thì Kiến đáp “Tiểu đệ quyết không phụ lòng tin của Đại Vương”.
Ngài quay vào án thư, đề nghị các môn khách hiến kế chống giặc. Phạm Lãm cho rằng “Cần lập phòng tuyến đông bắc”. Hưng Đạo nói “Điều này ta cũng đã nghĩ tới”. Ngô Sĩ Thường có ý kiến “Nên sớm tính kế hoạch di tản khỏi Thăng Long, đề phòng giặc công phá bằng cự thạch pháo”. Vương vỗ tay tâm đắc “Đúng ý ta. Phải biết né tránh sức mạnh của chúng, kẻo sau cuộc chiến kinh sư chỉ còn là một đống gạch vụn”.
Đã sang canh tý, trời đêm càng buốt giá khiến các môn khách ngồi thu mình co ro trên ghế, Hưng Đạo yêu cầu mọi người về nghỉ, mai có nhiều việc phải làm. Môn khách ra về, giữa sảnh đường trống rỗng chỉ còn lại một chủ một tớ. Thấy Đại Vương cứ cắm cúi viết mà chẳng sai khiến gì mình, Dã Tượng cố tình đằng hắng mấy lần mà dường như không thể kéo ngài ra khỏi dòng suy tưởng. Vương biết ý bèn giả vờ hỏi:
– Sao người chưa về, còn đứng đấy làm gì?
Dã Tượng mặt buồn so, đáp:
– Ai cũng được ngài giao việc, còn tiểu nô chưa được giao nên vẫn đứng đây chờ lệnh.
Vương làm bộ ngạc nhiên:
– Thế à. Vậy mà ta cứ nghĩ đã dặn người ngày mai tháp tùng ta lai kinh rồi.
Dã Tượng hồ hởi ra mặt, bái tạ chủ nhân ra về.
Nô bộc vừa đi thì Thiên Thành phu nhân từ sau nhà bước ra. Bà đến ngồi bên cạnh chồng mà không nói năng gì, đôi mắt u hoài nhìn bâng quơ quanh nhà. Hưng Đạo hỏi vợ:
– Giờ này phu nhân chưa ngủ sao?
Bà chẳng trả lời chồng mà lại hỏi:
– Không có cách nào hòa hoãn à?
Vương ngẩng mặt nhìn trùng trùng tấm hoành phi đại tự “An Quốc Đường” treo trên đầu, mà rằng:
– Hòa hoãn gần ba mươi năm rồi còn gì. Kẻ bị o ép không thể cam tâm nhịn nhục hơn nữa, kẻ đi bắt nạt không thể kìm nén dục vọng tham tàn lâu hơn, tất yếu phải chiến tranh thôi. Thời buổi quốc thái dân an chẳng còn, muốn có lại thì phải đánh cho tan ảo mộng đô hộ nước Nam của lũ Mông Thát.
Thấy Thiên Thành phu nhân mặt mày ỉu xìu, Vương hiểu lòng bà đang lo nghĩ điều gì nên ngài cố tình chuyển hướng an ủi lệch trọng tâm:
– Ta đã sắp đặt hết rồi, nếu tình hình nguy cấp thì bọn tôi tớ sẽ đưa bà tới nơi an toàn. Kim ngân, vật dụng quý giá cũng sẽ cho chôn giấu hết.
Phu nhân nhìn chồng thở dài:
– Tôi thì nói làm gì, tiền bạc là vật ngoài thân, tôi cũng không thiết. Chồng và các con đều làm tướng triều đình, nay mai tất cả phải ra trận, làm vợ làm mẹ ai mà bình thản cho được. Tôi chẳng muốn phô cái mặt rầu rĩ để khiến vương mủi lòng đâu, nhưng phải chi ngài hiểu bụng vợ mà kêu ba thằng tiểu tử về thăm mẹ trước lúc xuất chính thì tôi mãn nguyện lắm.
– Mai chúng nó sẽ về thăm bà. Như vậy bà an lòng rồi chứ? – Vương nghĩ thầm trong bụng: “Đáng buồn thay, đàn bà là kẻ khổ tâm nhất trong cuộc chiến, họ mòn mỏi trông con đợi chồng có khi suốt cả cuộc đời.”
Phu nhân đã tươi tỉnh hơn, bấy giờ lại trở về với thói quen cằn nhằn của nữ giới:
– Giờ thì ông đi ngủ được rồi đấy. Cứ thức khuya như vậy thì lấy đâu tinh thần sáng suốt để điều binh khiển tướng.
Vương đành bỏ dở bài huấn thị tướng sĩ đang viết, cầm theo tờ bản thảo lặng lẽ vào thư phòng. Những hôm công việc bận rộn, ngài đều ngủ lại ở nơi chốn riêng. Bà cũng về phòng mình, không làm phiền ông nữa.
Nằm trằn trọc mãi rồi thiếp trong cơn mộng mị, thế mà lòng lại ngập tràn đau xót trước viễn tượng ngoại xâm giày xéo quê cha đất tổ, chém giết đồng bào, đốt phá làng mạc, Vương giật mình tỉnh giấc, trên má nhòa lệ nóng, chiếc gối kê ướt đẫm nước mắt, ngài bật dậy, ngồi nhìn trân trên ngọn đèn leo lét trên bàn. Trống điểm canh năm, trời còn tối mịt, nhưng lòng không yên ổn thì làm sao ngủ cho được, ngài quay ra bàn cầm bút viết tiếp bản huấn thị tướng sĩ. Lửa hận bốc ngùn ngụt tâm can, thôi thúc Vương thảo những dòng chữ căm hờn lên trang giấy.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm giận chưa được xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng.Dư thường lâm xan vong thực, trung dạ phủ chẩm. Thế tứ giao di, tâm phúc như đảo. Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. Tuy dư chi bách thân, cao ư thảo dã. Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, diệc nguyện vi chi.”
Ngài viết một mạch kín ba tờ giấy, những con chữ chứa chan tình người, lòng trung nghĩa, đức hy sinh và những lời khuyên răn kẻ dưới quyền vừa nhẹ nhàng bao dung, vừa cụ thể và thực tế; những con chữ chất ngất bi thương và uất hận trước tham vọng tàn bạo của những kẻ chuyên đi bắt nạt người khác, cậy quân mạnh tướng hùng mà hiếp đáp các dân tộc nhỏ yếu; những con chữ hội tụ dũng khí kiên cường bất khuất của quân dân Đại Việt không cam tâm khom lưng quỳ gối làm tôi đòi cho ngoại bang, sẵn sàng cầm vũ khí, chấp nhận đổ máu hy sinh để giữ vững cơ đồ xã tắc và nền móng tự chủ của nước nhà.
Nhìn ra ngoài, trời đã chạng vạng, áng bình minh không qua nổi mây mù dày đặc nhưng cũng đủ hắt qua khe cửa hẹp một chút ánh sáng nhỏ nhoi. Cảm nhận những ngày u ám còn dài, bất chợt Vương lấy thanh bảo kiếm treo trên vách, rút gươm khỏi vỏ, chĩa ra phía cửa rồi gầm lên dữ dội:
– Ta thề với lòng mình sẽ thống lĩnh quân dân nước Nam đập cho tan tành bóng đen hắc ám ngoài kia, để ánh trời lại chiếu rọi huy hoàng trên non sông này.
Tim óc như được khai sáng, quyết sách chống giặc hiện rõ mồn một trong đầu, Vương lẩm nhẩm từng câu từng chữ sao cho dễ nhớ, dễ hiểu. Ngày mai, trước toàn thể quân thần, ngài sẽ trình bày chủ ý của mình, hy vọng rằng sẽ được số đông ủng hộ. Lòng đã thanh thản hơn nhiều, Vương mở cửa bước ra hàng hiên, lặng lẽ nhìn các gia binh đang tất bật dựng cờ, kê bục để chuẩn bị cho lễ khai quân.
Trời âm u rét mướt lại thêm lất phất mưa phùn làm cho khung cảnh buổi sớm ở thái ấp Vạn Kiếp muôn phần ảm đạm. Lá đại kỳ Quốc Công Tiết chế màu đỏ trên ngọn đài cao ở góc sân cứ rủ xuống vì nước mưa cũng đủ khiến lòng người se sắt lại. Nhưng chẳng vì thế mà không khí buổi lễ kém phần long trọng.
Gần hai ngàn gia binh tề tựu trên sân gạch rộng lớn của An Quốc Đường, mỗi đội ngũ một màu sắc phục theo hàng lối chỉnh tề cùng với đủ loại binh khí đánh trận. Phụ nữ, người già và trẻ em từ các gia đình tá điền kéo đến đông đảo bên rìa khoảnh sân. Chồng, con và cha của họ đang đứng trong kia, góp mặt trong đội quân vệ quốc dưới trướng vị Đại Vương kiệt xuất. Các tì tướng mặc giáp trận dàn ngang trên hàng đầu. Phía trước họ là chiếc ghế dài dành cho mẹ, vợ và con trai của Đào Thế Quang. Thị Hương mặc áo tang trắng ngồi đỡ bà mẹ già đau yếu đã hoàn toàn suy sụp từ lúc nhận hung tin về đứa con độc nhất. Cậu bé Thái Bình đầu chít khăn tang ngơ ngác nhìn quanh mà không hiểu vì sao người ta lại tụ tập đông đúc thế? Chiếc bàn thờ đơn giản ở giữa sân đặt linh vị đề tên hai chiến binh tử trận trên biên giới; một bát hương nghi ngút khói nồng, mấy nhành hoa dại trầm mặc trong chiếc bình gốm xanh và đĩa cam vàng đọng nước mưa ướt lạnh.
Đúng giờ thìn, Đại Vương từ sảnh đường bước ra. Ngài mặc vẽ phục màu tía, đầu đội mũ chóp có ngù, hông đeo bảo kiếm, bên ngoài khoác tấm choàng nâu đỏ. Đi bên cạnh là Thiên Thành phu nhân. Tháp tùng phía sau có Yết Kiêu, Dã Tượng và các môn khách trong nhà.
Nhìn thấy gia đình của Thế Quang, ngài và phu nhân tiến đến. Bà mẹ định vái chào, Vương cản lại, ngài nói:
– Lão bà không cần đa lễ. Ta thành thật chia sẻ đau thương về sự mất mát này. Đào Thế Quang không chỉ là hiếu tử của bà, tôi trung của ta, còn xứng danh một tráng sĩ vì nước bỏ mình trong cuộc chiến chống giặc phương Bắc. Sử sách sẽ không quên tên con trai của bà.
Người mẹ già xúc động chẳng thốt nên lời, dùng bàn tay run rẩy quệt nước mắt rồi gật đầu biểu thị lòng cảm tạ ơn nghĩa của Đại Vương.
Ngài lại quay sang Thị Hương, bảo rằng:
– Ngươi hãy nén buồn thương để nuôi dạy thằng bé nên người. Nếu có khó khăn gì thì trình bày với phu nhân.
Thiên Thành phu nhân cũng lựa lời an ủi tì nữ cũ:
– Con còn mẹ già và con nhỏ, cuộc sống của họ trông cậy vào con cả. Chiến tranh đã gần kề, sẽ còn nhiều gian nan, con phải vững vàng lên.
Thị Hương sụp lạy vợ chồng Đại Vương, đáp tạ trong nước mắt giàn giụa:
– Chúng con đội ơn người và phu nhân.
Hưng Đạo đến bên bàn thờ, thắp thêm một cây hương cho nghĩa sĩ trận vong. Toàn quân chắp tay cúi đầu mặc tưởng đồng đội hy sinh. Đại Vương hướng tới hàng quân, nói lớn:
– Tướng sĩ phủ đệ Vạn Kiếp nghiêng mình đưa tiễn vọng linh Đào Thế Quang và Đỗ Thành, những chiến binh dũng cảm đã xả thân vì sự tồn vong của vương triều Đông A và giang sơn Đại Việt. Hôm nay không có mặt thân nhân Đỗ Thành nhưng lòng ta vẫn tri ân họ, những bậc cha mẹ đã sinh ra một con người trung nghĩa.
Mưa nặng hạt. Phu nhân bảo gia đình Thế Quang theo bà vào sảnh đường. Hưng Đạo quay lên bục gỗ dưới mái hiên rồi lệnh cho quân hiệu dong ba hồi trống cái. Tiếng trống vừa dứt, đã thấy đám tôi tớ khiêng ra tấm đại tự An Quốc Đường vốn được treo giữa sảnh nhiều năm, rồi chuyền tay cho các môn khách đứng hàng ngang phía sau Vương. Bức hoành phi được môn khách nâng lên cao, lại hạ xuống và quay mặt chữ vào trong. Bấy giờ Hưng Đạo dõng dạc tuyên bố trước đội ngũ:
– Tướng sĩ Vạn Kiếp nghe đây. Ta đã cho hạ tấm biển An Quốc Đường xuống. Kể từ giờ Sông núi chẳng còn bình yên, niềm vui non nước an hòa đành phải gác lại để nuôi dưỡng ý chí đánh tan lũ giặc đang lăm le tràn vào bờ cõi. Quân Nguyên sắp kéo sang, chiến tranh ở ngay trước cửa, ta tuyên bố cuộc chiến bắt đầu. Từ đêm qua, hàng trăm đồng đội của các ngươi đã vượt muôn trùng mưa gió mà tỏa đi khắp nơi để thông báo tin giặc động binh. Hãy vì Đông A mà cầm chắc khí giới, hãy vì nước Nam mà liều thân đánh đuổi ngoại xâm. Các người có quyết tâm cùng ta chăng?
Hàng ngàn tiếng hô vang dội đất trời “Chúng tôi quyết tâm cùng Đại Vương phò vua đánh giặc cứu nước”. Trống lại nổi lên từng hồi giục giã hòa chung tiếng hò reo cổ vũ chồng con của đám đồng lương dân đứng ngồi nhấp nhô bên ngoài. Chờ sự huyên náo lắng xuống, Vương ban huấn thị:
– Nay có lời phủ dụ tướng sĩ, các ngươi hãy lắng nghe rồi truyền thông điệp của ta tới những người còn khả năng cầm vũ khí, để sao cho tướng Đông A thêm mạnh tinh thần, để sao cho quân nước Nam thêm bền ý chí, để sao cho những ai còn mê muội vui thú đời thường lại chẳng màng nỗi nhục phiên thuộc sẽ sớm tỉnh ngộ mà rèn gươm luyện giáo cho giỏi rồi theo ta đánh giặc phen này.
Hưng Đạo ngưng lời, giơ tay làm hiệu. Một tên lính hầu mang tới cuộn giấy, ngài mở ra rồi cất giọng trầm hùng đọc lớn.
– Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế, Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoát chặt tay để cứu nạn cho nước...Dư thường văn chi: Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. Dự Nhượng thon thản nhi phục chủ thù; Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn...
Ta cùng các người sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Trông thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình; đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Cậy thế Hốt Tất Liệt để buộc đời ngọc lụa; giả hiệu Vân Nam Vương để vơ vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng. Thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, tránh sao cho khỏi tai họa về sau.Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu; Trưởng ư gian nan chi tế. Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ. Trao hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình; ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ. Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chế thảng hố. Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai.
Lời hùng hồn như thác lũ thét gào, giọng bị thiết tựa lệ buồn xa xót, có những chữ oán cừu chất ngất muốn thiêu đốt tan tành cả khối hờn căm, có những câu thương tổn đằm đằm muốn cắt bỏ đứt lìa mẩu thịt ung thối, từ minh triết sáng bừng nhật nguyệt soi thấu tinh thần, ý cảm hóa dạt dào sông biển ngấm vào tâm trí... Từng câu chữ của Đại Vương được neo giữ trong tim óc làm lay động phần hồn của lớp lớp tráng sĩ Vạn Kiếp và thân nhân của họ. Rồi ngài đọc đến đoạn hịch văn:
“Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, nếu các ngươi cứ điềm nhiên không muốn ra nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên quân địch, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời đất này nữa?Mông Thát nãi bất công đái thiện chi thù; nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vị niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm; nhi hậu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch; Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu, Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?”
Như trùng dương cuộn sóng, ngàn người chung một ý chí, cùng đồng thanh hô vang “Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù. Sát Thát! Sát Thát!”. Trong khí thế sục sôi náo nhiệt, chẳng ai để ý trời đã tạnh mưa từ lâu, mây đã mỏng đi nhiều đủ cho mấy tia nắng hắt vàng xuống mặt đất. Lá cờ lớn được hong khô, tung bay phần phật trong gió đông.
Từ ngoài cổng xuất hiện một đội kị binh, mọi người nhìn ra biết đấy là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo Đại Vương. Nghiễn cùng mười tùy từng trở về Vạn Kiếp theo lệnh triệu hồi của cha. Phụ tử đang chào hỏi nhau thì lại thấy một tốp kị mã phi tới. Đó là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, người con trai thứ hai của Vương. Chốc lát lại thấy một toán khác xuất hiện. Người cưỡi ngựa đi đầu là Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, con trai thứ ba của Vương. “Hổ phụ sinh hổ tử”, các con của Hưng Đạo đều tài giỏi và trí dũng hơn người, trong cuộc chiến nay mai, bậc làm cha như Tiết chế hơn bao giờ hết rất cần ba người con kề vai sát cánh với mình chống giặc phương Bắc.
Nghe gia nhân báo tin các con đã trở về, Thiên Thành phu nhân mừng rỡ khôn xiết, vội ra sảnh đón con. Đại Vương ý nhị đi lo công việc, để mấy mẹ con thoải mái trò chuyện. Trong niềm vui ẩn hiện nỗi buồn, phu nhân cố nén cảm xúc mà dặn dò hiếu tử:
Các con nỗ lực cùng cha dẹp yên cuộc tao loạn này. Mẹ chẳng mong ước gì hơn ngoài việc đứa nào cũng trở về toàn vẹn. Được như vậy mẹ sẽ vui sống đến tuổi già.
Anh con cả Quốc Nghiễn thay mặt các em đáp tạ:
– Chúng con ghi nhớ lời dặn dò của mẹ. Mong mẹ yên lòng mà giữ gìn sức khỏe.
Nửa canh giờ sau Đại Vương bước vào cười nói như không:
– Bốn mẹ con hàn huyên thỏa thích rồi chứ? Bây giờ đã quá ngọ, bà sai gia nhân dọn bữa để cha con tôi ăn uống rồi còn lên đường cho kịp.
Phạm Thái tỉnh lại bởi tiếng huyên náo bên ngoài vọng vào trại binh. Nhìn quanh chẳng có ai trong nhà, nhưng chàng biết chắc mình vẫn nằm trên chiếc giường quen thuộc. Khu trại cách phủ đệ Vạn Kiếp nửa dặm, với nhiều dãy nhà ngang xây tường gạch, lợp mái lá dùng làm nơi ăn ở của đội ngũ gia binh trong thái ấp. Nhiều năm trước, khi được bổ sung vào lực lượng bảo vệ Hưng Đạo Vương, chàng đã ở trong chính căn phòng này cùng với chín đồng đội khác. Nhìn cơ thể vận bộ y phục mới, sờ túi cạp quần chẳng thấy kỷ vật của Đỗ Thành, trên ngực cũng không còn chiếc nanh hộ mệnh của cụ Tào tặng, Thái gượng ngồi dậy, hoảng hốt kêu lên:
– Có ai không?
Từ ngoài của một nữ nhân chạy vào, tươi cười nói với Thái:
– Huynh tỉnh rồi à, còn đau không?
Lúc ấy Thái mới chợt nhớ nãy giờ cử động nhiều nhưng không còn đau đớn như trước, có lẽ vết thương đang lành. Chàng hỏi:
– Cô là ai, sao lại ở đây?
Người con gái trả lời:
– Muội là thị nữ trong phủ, được Đại Vương cử đến chăm sóc cho huynh mấy ngày rồi. Ngày nào cũng phải đắp thuốc, băng bó và đút cháo cho huynh, cực lắm đấy.
– Đa tạ. Nhưng ai thay... thay... y phục...
– Cái đấy là việc của đàn ông. – Cô gái vừa nói vừa cười – Muội chẳng thấy gì cả.
Phạm Thái hơi đỏ mặt, chàng chữa ngượng:
– Tôi chỉ hỏi để biết mấy món đồ...
– Không mất đâu. Họ đưa cho muội giữ. Biết là vật quý, muội cất trong tủ kia kìa.
Nói rồi, cô đến mở chiếc tủ gỗ cũ kỹ trên đầu giường lấy ra hai món kỷ vật giao lại cho Phạm Thái. Miếng ngọc bội vẫn còn nguyên vẹn, riêng chiếc nanh lợn lòi có một vết cắt sâu hóm. Chợt nhớ trong trận chiến trên bờ sông Nậm Thí, chàng bị một nhát kiếm chém ngang ngực nhưng không để lại thương tích đáng kể, thì ra chiếc nanh đã hứng nhát chém hộ mình. Thái ngồi thừ mặt, tay mân mê bảo bối cứu mạng mà lòng thì ngậm ngùi thương nhớ ông cháu Thanh Khê bây giờ chẳng biết ra sao ở chốn núi rừng hẻo lánh?
– Huynh có sao không?
Thái ngước nhìn thiếu nữ, nói khẽ “Không sao” rồi hỏi lại:
– Ngoài kia có chuyện gì mà náo nhiệt thế?
Cô gái trả lời:
– Mọi người đang thích chữ “Sát Thát”10 lên cánh tay, ai cũng thích cả nên bốn, năm ngày nay làm hoài vẫn không hết người.
“Thì ra mình mê man nhiều ngày rồi”, bụng nghĩ thầm còn ánh mắt sáng rỡ lên, Thái hào hứng bảo:
– Tôi muốn ra ngoài kia, nhờ cô đỡ một tay.
Cô gái có vẻ chần chừ, nhưng thấy bộ mặt sốt sắng quá, đành miễn cưỡng dìu gã trai ra cửa.
Ở ngoài sân, bên trong mấy túp lều vải dùng làm nơi nghỉ ngơi khi luyện võ, mọi người tủm năm tụm bảy từng nhóm đang thích chữ cho nhau. Những tay áo vén cao, những vai trần hở bắp, người chưa xăm thì nôn nóng chờ đến lượt, kẻ xăm rồi thì hớn hở xuýt xoa, họ cười nói vô tư và bình phẩm vui vẻ. Mực mài trên đĩa, đầu kim quấn vải thấm đẫm mực đen rồi đâm vào nét chữ được viết sẵn trên cánh tay, bắp tay hoặc bờ vai tùy theo ý muốn của mỗi người. Máu tứa ra chỗ kim đâm vào da, sắc đỏ hòa với sắc đen lợn cạn, cảm giác đau nhói chẳng là gì đối với những con người cùng chung lời thề giết sạch lũ Mông Thát. Tráng chí Đại Việt thấm vào máu đỏ một lần và vĩnh viễn ở mãi trên da thịt nam nhi như dấu khắc của thời đại anh hùng, thời đại quyết sống mái với kẻ thù phương Bắc.?
Thấy Phạm Thái được thiếu nữ dìu một bên đang dò dẫm tiến lại, các đồng đội hồ hởi đón chào. Mọi người vui mừng khi chàng đã hồi phục phần nào, ai cũng vỗ về, ai cũng hỏi han, quân ngũ là gia đình, chiến hữu như ruột thịt, Thái cảm động đến ứa nước mắt. Lúc chàng đề nghị được thích chữ, các huynh đệ can “Hai tay vẫn còn băng bó, chờ lành hẳn đã”. Thái đặt tay lên ngực trái, bảo “Thích ở đây”.
Lại một lần Phạm Thái đổ huyết. Máu trộn mực kết sắt son của lòng tận trung báo quốc, máu nguyền rửa hận cho huynh đệ bỏ mình trước cửa ngõ giang sơn. Kể từ đấy, ý chí “Sát Thát” đập chung nhịp với trái tim trong lồng ngực chàng trai đến trọn đời.
Chiều hôm ấy, Thái nhờ đồng đội dìu đến nhà Đào Thế Quang. Chàng thắp hương trên bàn thờ huynh trưởng mà khấn thầm “Mong đại ca hãy an nghỉ, gia đình của huynh đã có đệ và các anh em bao bọc”, rồi đến quỳ trước mẹ Thế Quang, khấu đầu nức nở:
Con giữ được mạng này cũng nhờ có Quang huynh và Thành huynh cản bước giặc. Họ đã không thể trở về khiến lòng con đau xót vô kể mà thấy mình có lỗi với ruột thịt của các huynh. Mẹ và chị cứ trách mắng cho nhẹ lòng, con đáng bị như vậy lắm.
Lão bà xua tay, miệng thì lẩm bẩm “Con không có lỗi. Không được trách mắng con”. Thị Hương vội đỡ Phạm Thái dậy, kìm nén cảm xúc để nói ra lời:
– Hai anh quyết tử giúp em toàn mạng trở về cấp báo hung tin là lẽ thường tình của huynh đệ quân ngũ. Em đừng tự dằn vặt mình nữa, hãy chữa lành thương tích thì mới có thể ra trận trả thù cho các anh.
Từ biệt gia đình huynh trưởng, lòng Phạm Thái đã nhẹ đôi chút, nhưng vẫn canh cánh nỗi niềm về một nơi phải đến trước khi chiến tranh bùng nổ. Chàng chỉ cầu mong sớm bình phục để có thể xin phép thượng cấp lên đường đến Thăng Long mà tạ lỗi với cha mẹ của Đỗ Thành và hôn thê của huynh ấy. Mấy ngày sau, Thái được cấp một khoản ngân phí, chàng gửi một nửa cho gia đình Thế Quang, nửa còn lại cất dành cho dịp biếu cho cha mę của Thành huynh.
Từ lúc bái biệt Hưng Đạo Vương lên đường, Trần Thì Kiến cùng bốn tráng sĩ đội mưa gió cưỡi ngựa thâu đêm, về đến kinh thành thì trời đã tang tảng sáng. Trong nhóm tháp tùng, có người biết tư gia Đinh Củng Viên. Họ gõ cửa nhà Học sĩ khi gia nhân trong nhà còn chưa thức dậy. Hồi lâu sau có lão bộc ra mở cửa. Dụi cặp mắt ngái ngủ nhìn mấy con người mặt mũi bọt bạt, áo quần sũng nước, lão hỏi như quát:
– Có việc gì mà mới sáng sớm đã đập cửa ầm cả lên?
Thì Kiến lễ phép đáp:
– Thưa cụ, chúng tôi được Hưng Đạo Đại Vương sai đến gặp Học sĩ đại nhân báo tin khẩn cấp.
Nghe nói vậy, lão bộc bèn đổi giọng, mà rằng:
– Ối giời, vậy mà tôi lại vô phép. Xin quý vị vào nhà đợi, tôi sẽ bẩm báo với đại nhân ngay.
Đưa khách vào nhà, chẳng kịp trà nước gì, lão lật đật đi gọi chủ nhân. Bấy giờ Hàn lâm học sĩ đã tỉnh giấc nhưng chưa rời khỏi giường, nghe gia nhận thông báo có người của Hưng Đạo Vương đến tìm về việc cấp bách, linh tính biết có chuyện dữ, ngài bèn bật dậy, vội vàng chỉnh trang áo xống ra tiếp khách.
Thì Kiến thi lễ và xưng danh rồi trao cho gia chủ phong thư của Đại Vương. Quan Hàn lâm học sĩ đọc thư mà mồ hôi toát đầy mặt, ngài bặm môi như cố nén cảm xúc căng thẳng để hỏi chàng trai:
– Hưng Đạo Vương còn dặn dò gì thêm không?
Thì Kiến trình bày về những điều Vương căn dặn. Củng Viên bảo:
– Cậu và tùy tùng theo lão bộc ra nhà sau tranh thủ tắm rửa nghỉ ngơi, để chiều nay còn có sức mà lên đường. Hưng Đạo dặn ta đề nghị với hoàng thượng cử cậu làm tham mưu cho sứ bộ sang Nguyên. Bây giờ ta phải thượng triều gấp.
Chàng trai trẻ vô cùng kinh ngạc, nghĩ thầm trong bụng “Đại Vương xét người như thần, ngài đã xếp đặt đâu vào đấy, trước cả khi mình bộc lộ ý định ở lại với ngài. Dưới trướng người tài ba như thế thì có chết cũng xứng đáng”.