Chương 5 Vó ngựa miệt mài, Trần Phủ nhọc nhằn hoãn chiến
Miệng hùm nạt nộ, Thoát Hoan quyết liệt khai binh
Được thị thần bẩm báo có Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ Đinh Củng Viên xin triều kiến, Nhân Tông hoàng đế đang dùng bữa sáng với Bảo Thánh hoàng hậu, liền hỏi:
– Có việc chi cần thiết mà Củng Viên đến quấy rầy vào lúc này?
Quan thị đáp:
– Tâu bệ hạ, thần chỉ được nghe Học sĩ nói phải thông báo với hoàng thượng tin tức khẩn cấp do Hưng Đạo Vương gửi đến.
Nhân Tông bèn buông đũa, mặt biến sắc mà tự thán “Giặc động binh rồi sao? Xã tắc lại một phen điêu đứng sao?”. Hoàng hậu nghe vậy cũng bỏ dở bữa ăn, thẫn thờ nhìn vua rồi nói khẽ “Cha của thiếp báo tin gấp là tai họa rồi. Cầu trời Phật phù hộ cho bệ hạ thoát khỏi nạn này”. Nhà vua lật đật lên điện. Bảo Thánh hoàng hậu cùng đám thị nữ hoảng hốt lui về hậu cung.
Đinh Củng Viên đại vua ở chính điện, thấy ngài đi vào với bộ mặt căng thẳng, vội quỳ mộp khấu đầu bái kiến. Nhân Tông liền xua tay, bảo:
– Lễ vậy đủ rồi, có điều gì khẩn cấp thì nói ngay?
Củng Viên lồm cồm nhổm dậy, hổn hển nói:
– Khởi bẩm hoàng thượng, Hưng Đạo Vương sai người cấp báo: giặc Nguyên nhất quyết động binh, chúng huy động năm mươi vạn quân do Trấn Nam Vương Thoát Hoan thống lĩnh sẽ tràn sang vào tiết Đông chí nhằm ngày mười lăm tháng mười một, tức hai sáu ngày nữa. Chúng sẽ đánh ta ở phía bắc và phía nam, đem cả cự thạch pháo để công phá Thăng Long. Tiết chế đã báo động toàn quân và mời các vương hầu, tướng lĩnh về kinh sư. Thái thượng hoàng cũng đang trên đường về. Thần khẩn cầu hoàng thượng sáng mai thiết triều để bàn kế cứu nước.
Nhân Tông thẫn thờ một hồi, rồi lại hỏi:
– Vậy vương có kế gì chưa?
Củng Viên đáp:
– Vương dự kiến trình quyết sách đánh giặc lên bệ hạ vào buổi chầu ngày mai. Nhưng ngài ấy xin hoàng thượng cử sứ sang Nguyên trong ngày hôm nay để tìm cách trì hoãn chiến tranh.
Nhân Tông thắc mắc:
– Chúng đã quyết đánh, ta sẽ quyết chống thì trì hoãn gì nữa? Hay là Hưng Đạo muốn nhân nhượng?
Củng Viên trình bày:
– Ý của vương không phải vậy, mà chỉ muốn tìm cách kéo lùi ngày giặc động binh, chậm ngày nào tốt ngày đó, quân ta sẽ có thêm thời gian để bài binh bố trận.
– Vậy theo người nên cử ai đi chuyến này?
– Khởi bẩm, nên cử Trung đại phu Trần Phủ làm chánh sứ, Thiếu Khanh Trần Quân làm phó sứ. Họ đều là bậc trung tín, tính tình mềm dịu, ăn nói khéo léo, ứng đối linh hoạt, còn trẻ khỏe nên có thể gánh vác trọng trách. Ngoài ra Hưng Đạo xin tiến cử môn khách của ngài là Trần Thì Kiến đảm nhiệm tham mưu cho sứ thần, mong hoàng thượng chuẩn tấu.
– Ta chấp thuận. Cho triệu hồi Trần Phủ và Trần Quân thượng triều ngay.
Vua truyền lệnh dứt lời, đã thấy quan thị lon ton đến bên ngài nói khẽ:
– Bẩm, sau khi người giải quyết xong công việc, Bảo Thánh hoàng hậu xin được diện kiến.
Nhân Tông buồn bã nghĩ “Hậu cung có lẽ đang nóng ruột. Đoán già đoán non gì nữa, chiến tranh đang ở trước mắt, ngày một ngày hai giặc sẽ tràn ngập quan ải. Không biết sao đây, quân Thát động như thế lấy gì mà chống đỡ? Rồi ra xã tắc ly loạn, sinh linh lầm than, phận quần hồng yên thân sao được, từ hậu đến tì chắc một phen chìm nổi trong kiếp nạn”.
Chiều chưa xế bóng, đoàn sứ giả Đại Việt vội vã rời Thăng Long, nhắm hướng đông bắc mà tới. Chánh, phó sứ của triều đình mang theo năm hộ vệ. Trần Thì Kiến giữ lại ba tùy tùng, cho một người ở lại chờ Hưng Đạo Vương thượng kinh để báo cáo tình hình. Mười bốn con ngựa nhưng chỉ có mười một người, ba con dùng chở lễ vật và hành lý.
Được hôm thời tiết khô ráo và lặng gió nên đoàn người không gặp trở ngại gì đáng kể. Họ đến xứ Lạng thì trời đã tối mịt. Khi dừng chân tại ải Lộc Châu, các sứ dò xét tình hình, được quan trấn thủ Lê Đĩnh thông báo:
– Bên ải Tây Phong của Nguyên đã đóng cửa nhiều ngày, chúng tăng cường lực lượng và tuyệt đối không cho ai qua lại. Nghe tin giặc sắp tràn qua, binh lính cũng vài phần nao núng, đã có mấy đứa đào ngũ, nay chỉ còn hơn hai chục người. Quan trên xuống lệnh phải thiết lập trận địa mai phục ở hẻm Khâu Cấp Lĩnh để cản bước giặc, bản chức đã kết hợp với dân binh địa phương bố trí cung tên và đá hộc trên sườn núi. Nhưng khi giặc tràn qua, với lực lượng nhỏ yếu thế này, khó lòng mà cầm giữ được vài canh giờ.
Trần Phủ trấn an:
– Ta phụng mệnh Quan gia sang Nguyên để trì hoãn chiến tranh. Kết quả ra sao chưa biết nhưng sẽ cố đẩy lùi ngày giặc kéo sang. Ông hãy tranh thủ thời gian mà làm thêm nhiều cung tên, vận chuyển thêm đá lên núi.
Lê Đĩnh đáp:
– Hy vọng các ngài đi chuyến này được việc. Giặc càng chậm sang thì chúng tôi chuẩn bị càng tốt, người dân cũng có thêm thời gian mà tìm chỗ lánh nạn và cất giấu lương thực. Chứ như mấy ngày vừa qua ở đây xáo động lắm, người ta hoảng sợ thật sự khi biết tin có tới mấy chục vạn quân Nguyên sẽ kéo sang. Hôm qua nghe nói có bản hơn trăm người đã bỏ lại nhà cửa, ruộng nương rồi lùa gia súc vào rừng lẩn trốn.
Ai cũng thấy lòng đeo đá, như mình có phần trách nhiệm để xảy ra tình cảnh ấy. Con đường trước mắt còn nhiều chông gai, thời gian hòa bình sắp cạn, thân mang trọng trách đi thuyết giặc nếu để chậm trễ thì cơn lốc binh đao sẽ cuốn phăng tất tật. Mọi người đều rã rời, nhưng vẫn hối hả lên đường. Họ phóng ngựa về phía quan ải của Nguyên rồi dừng lại cách Tây Phong một quãng, Trần Thì Kiến một mình cầm đuốc tiến đến gần cánh cổng đóng kín. Quân giặc trên ải quát tháo hỏi tên, hỏi việc. Kiến ở dưới nói to:
– Chúng tôi là sứ thần, theo lệnh của quốc vương nước Nam sang Nguyên có công vụ khẩn cấp.
Ở trên ải, một giọng ngạo nghễ vọng xuống:
– Nước ta và nước các người đã đoạn giao, chẳng có việc gì phải qua lại cả.
Thì Kiến nhã nhặn đáp:
– Đây là việc hệ trọng, liên quan đến chuyện hòa hoãn, nếu hỏng việc mà dẫn tới xung đột thì chúng tôi sẽ mang tội với quốc vương còn các vị cũng phải mệt nhọc chuyện binh đao. Vậy có nên bế quan chăng?
Đám người Nguyên ở trên cao bàn tính một hồi rồi trả lời:
– Bây giờ đã muộn, dứt khoát cửa ải không mở trong đêm. Các người hãy lui về cách nửa dặm mà nghỉ ngơi. Bọn ta sẽ cấp báo với quan trên, nếu được chấp nhận thì sáng mai sẽ cho qua. Nhược bằng từ chối thì kẻ nào còn lai vãng gần quan ải sẽ bị tiêu diệt.
Chẳng còn cách nào khác, Thì Kiến đành quay ngựa thoái lui. Đoàn người dựng lều trên bãi đất trống nghỉ tạm. Tám tùy tùng chia nhau canh gác, mỗi ca túc trực hai người. Tranh thủ trước khi ngủ, bộ ba sứ thần bàn bạc về kế hoạch thuyết giặc. Trần Thì Kiến trình bày với chánh, phó sứ chủ ý của Hưng Đạo Vương về chuyến công vụ đặc biệt này.
Trung thị Đại phu Trần Phủ tuổi ngoài bốn mươi, mặt rỗ hoa, dáng người nhỏ nhắn, tính tình điềm đạm, thường thay vua soạn biểu chương, tấu sớ gửi Nguyên triều. Trần Quân tuổi ngoài ba mươi, khôi ngô tuấn tú, giỏi văn chương và lý số, vốn đỗ đầu thái học sinh năm Bảo Phù thứ ba được cử làm tri châu Lý Nhân, về sau thăng Thiếu khanh. Trần Phủ nói:
– Ý của Đại Vương, ta đã rõ. Nhưng làm sao khiến giặc lùi ngày động binh, nếu ta không tìm ra một lý do thuyết phục?
Thì Kiến đáp:
– Đối thủ của ta không phải Nguyên triều ở Đại Đô mà là Trấn Nam Vương và bọn Võ phu của hắn. Theo tiểu bối có lẽ nên dùng kế này...
Kiến trình bày mưu kế của mình với hai vị sứ thần. Trần Phủ nhận xét:
– Chước này có thể dùng được. Hoàng thượng đã dặn dò “Tìm mọi cách để níu chân giặc”. Hưng Đạo Vương cũng muốn ta khiến giặc tưởng bở mà chần chừ chinh phạt.
Trần Quân bấm đốt ngón tay rồi đề nghị:
– Theo ý hạ quan, chúng định khởi binh ngày Đông chí, ta cứ giả và không biết gì rồi biện giải như thế... như thế... cốt làm chúng nhụt chí mà trì hoãn tiến quân.
Quân giải thích cặn kẽ ý định của mình. Trần Phủ gật đầu hài lòng:
– Rất cao kiến. Hãy tạm thống nhất như vậy, mọi cái sẽ tùy cơ mà ứng biến.
Đến cuối giờ tị, cửa ải Tây Phong được mở để đoàn sứ giả Đại Việt trình công văn và làm chiếu khán nhập Nguyên. Được một tùy tùng thông thuộc địa hình dẫn đường, mọi người nhất trí bỏ bữa ăn trưa, hối hả phi ngựa vượt đèo núi, hẹn khi xẩm tối tìm chỗ dừng chân rồi ăn uống luôn thể.
Nhưng dự tính của họ không thuận lợi như mong muốn. Tại quan phòng Quế Khẩu cả đoàn bị ách lại dù đã trưng đầy đủ thông hành. Viên đội chỉ huy quan phòng hạch sách:
– Là phái bộ nhược quốc sang Đại Nguyên thì tất phải biết thủ tục đi đường. Mấy ngày trước có bọn An Nam qua đây cướp bóc đốt phá, chúng và các người cùng thờ một chủ, vậy các người phải thay chủ bồi hoàn cho bọn ta.
Thấy xa xa có một khu trại tan hoang đổ nát, gỗ gạch cháy nham nhở đen ngòm cả một góc núi, mọi người nhìn bằng ánh mắt hể hả nhưng vẫn giả đò nghi hoặc trước nguyên cớ “bắt vạ” của tên đội. Trần Phủ ôn tồn lý giải:
– Chúng tôi là phái bộ nước Nam sang Đại Nguyên giao hảo, mới đặt chân tới quý quốc chưa được một canh giờ thì làm sao mà biết được chuyện của mấy hôm trước. Thêm nữa, nếu đúng là người nước tôi đốt phá quan phòng thì cũng không thể bắt vua tôi bồi hoàn, vì đây là chuyện cá nhân, không phải chú ý của nhà vua.
Tên đội đuối lý, bèn giở giới nói càn:
– Nếu không bồi hoàn thì nạp lệ phí qua quan phòng. Mấy người muốn được việc của mình thì ta cũng muốn được việc của ta. Kinh phí chưa được cấp, muốn làm cái nhà tạm cho binh lính cũng phải có ngân lượng.
Trần Quân thắc mắc:
– Tôi đã mấy lần theo sứ bộ sang quý quốc nhưng chưa lần nào phải nộp phí này, tại sao bây giờ phải nộp?
Tên đội đáp:
– Trước khác nay khác. Xưa bang giao ôn hòa, nay hiềm khích căng thẳng. Không nạp thì không qua. Mỗi người hai lạng, mười một người vị chi hai mươi hai lạng bạc.
– Chúng tôi làm gì có nhiều tiền để mà chi từng đó. – Thì Kiến nói.
Hắn bắt bẻ lại:
– Ba con ngựa thồ chở đầy hành lý, chẳng lẽ không có từng đó, hay là để ta cho người dỡ xuống kiểm tra?
Đoàn sứ bộ nước Nam bắt đầu nóng mặt, nhìn thái độ căng thắng của mọi người, Trần Phủ khẽ lắc đầu hàm ý giữ bình tĩnh, rồi từ tốn nói:
– Hành lý là quà tặng Trấn Nam Vương, đến chúng tôi còn không dám động vào. Nếu chuyến đi chậm trễ, bị Nam Vương trách phạt thì đâu chỉ chúng tôi có lỗi.
Tên đội đánh xuống nước, hạ giá:
– Được rồi, sẽ cho qua khi nạp đủ mười lượng. Không chịu mất ngân lượng thì chờ tới giờ dậu hãy qua. Bây giờ không có người mở cổng, lính tráng còn phải lo dựng lán trại để có chỗ trú ngụ tạm thời.
Cực chẳng đã, ba vị sứ giả đành chấp nhận móc hầu bao lấy mười lạng bạc từ lộ phí do triều đình cấp để hối lộ cho viên đội trấn thủ quan phòng của vương quốc Đại Nguyên. Thế là mất đứt một canh giờ, đoàn phái bộ lại hối hả lên đường khi mặt trời đã chếch non tây.?
Sang ngày hôm sau, một đợt giá rét ùa về, mười một chiến sĩ nước Nam vẫn đội mưa gió mà dấn thân qua vùng núi đèo heo hút, họ đi miết đến khi tối mịt vẫn không thấy quán trọ hay bản làng nào để dừng chân. Đường đèo khúc khuỷu, bùn đất lầy lội khiến bầy ngựa chùn bước, mọi người phải xuống bộ, tay nắm dây cương mà ra sức kéo ngựa của mình vượt qua dốc núi cheo leo. Rồi các tùy tùng lại quay xuống chân đèo, kẻ đẩy người lôi ba con ngựa thồ lên đỉnh dốc. Mưa nặng hạt làm mấy bó đuốc tắt ngấm từ lâu, cả đoàn lại tiếp tục mò mẫm giữa bóng đêm tù mù mà lê từng bước một, trong khi ai cũng đói cồn cào và run cầm cập vì mưa lạnh.
Đi thêm một đoạn gặp lối mòn lát đá phẳng phiu dẫn tới một mái nhà lẻ loi bên sườn núi, đoàn người phấn khởi phi ngựa đến và dừng chân trước ngôi nhà sàn đã đóng cửa cài then. Một tùy tùng biết tiếng Thổ xuống ngựa, đứng dưới chân cầu thang gọi lớn:
– Có ai trong nhà không?
Sau tiếng kẹt cửa, ánh sáng hắt ra từ bếp củi bên trong phản chiếu bộ mặt dữ dằn của người đàn ông trung niên vận trang phục dân tộc màu đen. Ông ta đứng chắn ngang cửa, trên tay lăm lăm thanh mã tấu, cất giọng hỏi cộc lốc:
– Các người là ai, gọi có việc gì?
Viên tùy tùng trình bày:
– Chúng tôi là người nước Nam được cử sang Nguyên đàm phán, vì lỡ độ đường nên đành gõ cửa xin gia chủ cho nương náu qua đêm, chứ không có ý gì khác.
Chủ nhà nhìn một lượt đoàn lữ khách bên dưới, thấy họ không có vẻ là hạng người bất hảo, bèn dịu giọng trả lời:
– Nhà chúng tôi bé nhỏ chật chội, lại có đàn bà con nít, e rằng không đủ chỗ để các vị nghỉ ngơi. Nếu quay ra đường lớn, đi thêm chừng mười hai dặm là đến thôn Lúng Chải, ở đấy sẽ có chỗ cho mọi người.
Nghe gia chủ nói vậy, Thì Kiến tiến lại, đề nghị:
– Quả tình chúng tôi rất đói và lạnh, mấy con ngựa cũng kiệt sức rồi. Xin không làm phiền gia đình ở trên, mọi người chỉ cần một bữa ăn và ít rơm cỏ khô để lót ổ ngủ trước chuồng ngựa dưới sàn cũng được. Mọi phí tổn chúng tôi sẽ thanh toán đầy đủ.
Người đàn ông lưỡng lự một hồi, rồi bảo:
– Thôi đành vậy, miễn các vị không chê. Cột ngựa lại rồi lên cả đây mà hong khô quần áo. Còn chỗ ngủ sẽ sắp xếp sau.
Ai cũng hồ hởi ra mặt, nhanh chóng dắt ngựa vào chỗ khuất gió, dỡ hành lý xuống rồi theo gia chủ lên nhà. Trong nhà, ngoài người đàn ông còn có bà vợ và hai bé gái trạc chín, mười. Cả ba ngồi dúm dó bên bếp lửa, lấm lét nhìn đám khách bằng ánh mắt hoang mang. Lần đầu tiên căn nhà bé nhỏ của họ đột ngột xuất hiện ngần ấy người đàn ông xa lạ.
Hai vợ chồng trao đổi bằng tiếng địa phương, bà vợ đứng dậy soạn sửa bữa ăn. Nhóm khách ngồi vòng trong vòng ngoài quanh bếp lửa. Áo quần ẩm ướt được hơi nóng hong khô dần, những gương mặt bắt đầu hồng lên, cảm giác mệt mỏi đã vơi bớt trong từng cơ thể đàn ông tráng kiện. Nồi thịt dê hầm khoai môn nghi ngút khói, làm mấy cái bụng đói cồn háo hức thèm thuồng. Mỗi người được một tộ to, họ dùng thìa gỗ múc ăn xì xụp như thể trong đời chưa bao giờ được thưởng thức một bữa ngon lành đến thế. Thỉnh thoảng mấy người khách lại ngước nhìn gia chủ bằng ánh mắt hàm ơn.
Trong lúc khách còn mải mê giải quyết cái dạ dày trống rỗng, ông chủ xuống nhà dọn dẹp dưới sàn để có chỗ cho khách nằm ngủ. Rơm khô được rải xuống nền ẩm lạnh, phía trên lót mấy manh chiếu đan bằng cỏ lác. Bà mẹ và hai đứa con ngồi một góc chăm chú theo dõi đám người ăn uống nhiệt tình mà không khỏi buồn cười, những nụ cười thân thiện dành cho những vị khách hiền lành và chẳng hề khách sáo.
Ông chủ quay lên nhà khi mọi người đã xong bữa, nhìn bộ dạng hài lòng của họ, ông bảo:
– Nhà chật nên không đủ chỗ cho mọi người. Ba vị thủ lĩnh mời ngủ lại trên này. Tám người ngủ ở dưới, tiện thể còn trông nom hành lý và bầy ngựa.
Trần Phủ ái ngại, bèn nói:
– Chúng tôi không dám làm phiền ông bà, để thầy trò ngủ tất ở dưới cũng được.
Chủ nhà đáp:
– Tất cả xuống dưới thì cũng không có chỗ mà nằm. Không phiền hà gì đâu, ba vị cứ ở trên này cho rộng rãi.
Mọi người cùng vui vẻ nghe theo sự sắp đặt của ông chủ. Các tùy tùng đa tạ thịnh tình tiếp đãi của gia đình rồi xuống nhà nghỉ ngơi. Thiếu phụ giục hai bé gái lên chiếc phản ở góc nhà nằm ngủ. Ba sứ giả cũng muốn được chỉ chỗ để ngả lưng, lại không dám hỏi khi thấy vợ chồng người chủ vẫn ngồi yên bên đống lửa, chẳng nói năng gì nhưng cứ lúng túng nhìn khách. Là người nhạy bén tâm lý, biết họ có điều muốn giãi bày, Trần Quân hỏi:
– Chẳng hay nhà ta đang vướng bận chuyện gì, chúng tôi có thể giúp đỡ được không?
Được lời như cởi tấc lòng, người chồng lên tiếng:
– Vợ chồng tôi chỉ là hạng dân tầm thường nên không dám thăm dò chuyện đại sự giữa hai nước. Nhưng vì có một chút liên lụy tới gia đình, đành liều mạng hỏi các vị về mục đích sang Nguyên? Nếu không thể nói rõ thì chúng tôi cũng không phiền trách.
Các sứ giả nước Nam rơi vào tình thế khó xử, ba người nhìn nhau như ngầm trao đổi về thái độ của chủ nhà, rồi Trần Phủ hỏi lai:
– Có thể cho biết gia đình có liên lụy gì tới việc này công cán của chúng tôi?
Bà vợ có vẻ nôn nóng, vội nhanh nhảu trả lời:
– Chẳng giấu gì các ngài, vợ chồng tôi có đứa con trai lớn, năm nay mười tám tuổi, tháng trước nó bị bắt phu, nghe nói sắp phải vận chuyển lương thực theo đoàn quân đi đánh trận phương Nam. Chúng tôi lo lắm, gươm đao nào có phân biệt phu với lính.
Người chồng tiếp lời vợ:
– Lúc nãy các vị bảo sang Nguyên để thương lượng, nếu hai nước hòa giải sẽ không có chiến tranh thì con chúng tôi sẽ được về nhà.
Nghe vợ chồng chủ nhà thổ lộ nỗi niềm, các sứ vô cùng bối rối. Họ sang Nguyên để tìm cách kéo giãn thời gian giặc động binh, chứ không hề có mục đích cầu cạnh hòa bình bằng cái giá ô nhục. Song không thể nói thật với gia chủ, như thế khác nào dội gáo nước lạnh tanh vào ngọn lửa hy vọng đang sáng leo lét trong tâm hồn của những người tốt bụng. Nhưng chẳng ai đành lòng nói dối người cho mình ăn nhờ ở đậu, thành thử cả ba vị khách cứ ấp úng mà không thốt được một lời. Cuối cùng Thì Kiến lên tiếng:
– Đúng là chúng tôi đi đến hành khiển Kinh Hồ cầu kiến Trấn Nam Vương để thương thảo về việc hoãn binh. Nước Nam không muốn chiến tranh nên có thể nhượng bộ mấy phần, nhưng nếu người Nguyên cứ o ép quá mức thì kết quả không biết ra sao? Xin ông bà hãy hiểu cho nỗi khổ của chúng tôi mà không nỡ trách móc.
Nỗi âu lo lại thấp thoáng trên khuôn mặt chủ nhà. Người chồng lại hỏi:
– Vậy vợ chồng tôi có chút hy vọng không?
Đã xác định được cách thức gỡ rối, Trần Phủ đáp:
– Chúng tôi không quản ngại đường xa sang Nguyên với lòng thành hoãn chiến, nhưng quyền quyết định lại phụ thuộc phần lớn vào thiện chí của người Nguyên. Về phần mình chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để trì hoãn chiến tranh.
Trần Quân phụ họa thêm:
– Mong ông bà đừng tắt hy vọng. Cầu cho con của hai người sớm trở về bình an.
Niềm tin le lói được khơi gợi từ các sứ thần Đại Việt khiến vợ chồng chủ nhà tươi tắn hẳn lên, họ hồ hởi dọn chỗ để ba người nằm nghỉ. Dù ai cũng mỏi mệt, song cơn buồn ngủ không lấn át nổi tâm trí phiền não của mấy vị khách phương Nam. Họ cảm thấy áy náy khi chưa thật lòng với gia chủ, những lương dân chỉ cầu mong có cuộc sống yên lành, để con em của họ không phải ra mặt trận.
Sáng sớm hôm sau, khi đoàn sứ bộ soạn sửa ra đi, đã thấy vợ chồng chủ nhà và hai bé gái đứng chờ ở dưới sân. Ông chủ tay dắt dây cương con ngựa của mình, bà vợ ôm chiếc túi vải to tướng, còn hai cô bé mỗi đứa nắm một quai của chiếc giỏ đựng đầy những quả mận màu nâu đỏ. Trần Phủ cảm tạ tấm lòng hiếu khách của chủ nhà và xin gửi lại một lạng bạc để thanh toán chi phí ăn ngủ. Gia chủ dứt khoát không nhận, sứ bộ khăng khăng trả, đôi bên đùn qua đẩy lại mãi, cho đến khi người đàn ông bộc bạch:
– Bữa ăn chẳng đáng giá gì, còn chỗ ngủ thì không tốn kém, làm sao chúng tôi dám nhận tiền của các vị? Chỉ mong hòa giải thành công, chứ xảy ra chiến tranh thì khốn khổ lắm. Nếu mọi việc tốt đẹp, các vị nhớ về ngang qua đây, để chúng tôi được đón mừng.
Đoàn sứ bộ bùi ngùi cảm xúc, cùng bái biệt gia đình họ để lên đường sớm sủa. Bà vợ biết bao thức ăn phòng khi lỡ độ đường, hai bé gái tặng giỏ mận để giải khát. Ông chủ còn bảo:
– Nếu các vị quay ra đường cũ mà đi tiếp thì mất nhiều thời gian. Để tôi đưa đi lối tắt, chỉ mất bảy, tám dặm đường đèo gập ghềnh là ra đến đường tốt, các vị đỡ được nửa ngày đường.
Mọi người mừng rỡ hối hả theo người đàn ông lên đường. Họ băng qua thửa rừng tạp đến một lối mòn vắt ngang núi, ông chủ nhà dặn thêm “Theo đường mòn để sang bên kia núi rồi nhắm hướng đông bắc đi tiếp, nếu khẩn trương và không gặp trở ngại thì ba ngày nữa các vị sẽ đến Hồ Quảng”.
Trung tâm hành tỉnh Kinh Hồ nằm trên hạ lưu sông Tương, là một khu thị tứ lớn của miền Giang Nam thời ấy. Sứ bộ Đại Việt đến thành lúc xế chiều, nhưng cửa thành đóng kín, phải chờ ngoài cổng để bọn lính gác đi bẩm báo.?
Hơn một canh giờ sau, đoàn của Trần Phủ mới được phép vào thành, theo chân viên tùy phái về dịch quán trú ngụ. Tuy chỉ là đô thị địa khu nhưng có tới dăm vạn hộ sinh sống trong thành nên phố xá rất sầm uất, hàng quán buôn bán tấp nập cả ngày.
Dịch quán của hành tỉnh tọa lạc tại một khuôn viên rộng rãi với ba dãy nhà khang trang bao bọc khu vườn trồng nhiều hoa cỏ đẹp và lạ. Trong dịch quán có nhà bếp cung cấp bữa ăn hằng ngày được phân loại theo vai vế của khách. Không phải là Đại Đô, nên khách ở dịch quán Kinh Hồ trước nay đều là quan chức Nguyên triều đi công cán, lần đầu tiên có khách dị quốc đến ở, đấy là phái đoàn nước Nam.
Bầy ngựa của sứ bộ được nuôi nhốt trong chuồng cách dịch quán vài trăm thước. Cơm ăn và dầu đèn của khách thì không tốn ngân lượng, còn cỏ cho ngựa và công nuôi chúng thì phải trả phí. Các sứ bảo nhau “Người Nguyên kỳ quái thật, cái tốn kém thì cho không, cái nhỏ nhặt thì tính toán”. Chánh sứ Trần Phủ hỏi viên tùy phái:
– Ngày mai chúng tôi có thể yết kiến Trấn Nam Vương?
Y trả lời:
– Việc này tôi không biết đâu. Khi nào được yết kiến sẽ có người thông báo.
Đoàn sứ ta ngụ tại dãy nhà ngang bên cánh phải khu vườn, ba vị có chức vụ ở phòng riêng, tám tùy tùng ở trong hai phòng chung. Sau khi tắm rửa và cơm nước, mọi người tranh thủ mở lễ vật để chỉnh trang cho nghiêm túc. Dăm tấm lụa, mươi lạng yến sào, một bao quế chi, hai bộ da hổ, mấy cái gạc nai và một cặp chim trĩ nhồi bông, cũng chỉ là những món quà tầm tầm chiếu lệ, tuyệt nhiên không có vàng bạc châu báu. Lâu nay vua ta vẫn hành xử thế, các ngài viện đủ lý do để khước từ nạp cống phẩm quý hiếm; vàng thoi bạc nén dùng để nuôi quân, trữ lượng chứ dứt khoát không giao cho bọn người lòng lang dạ sói. Vì có vét sạch kho mà dâng cho vua Nguyên thì họ vẫn không buông tha nước Nam, vẫn nhất quyết buộc dân ta phải khuất phục dưới gót sắt cường bạo. Cống phẩm cho hoàng đế nhà Nguyên đã chẳng nhiều giá trị huống hồ quà cáp cho Trấn Nam Vương.
Sang ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, các sứ ngày nào cũng lễ bộ chỉnh tề từ lúc mặt trời mới mọc cho đến tận chiều tà nhưng chẳng thấy ai đến mời đi yết kiến Trấn Nam Vương. Mọi người thấp thỏm đợi chờ, lòng dạ thì như lửa đốt mà vẫn cố làm mặt bình thản trước ánh mắt soi mói của bọn người Nguyên. Xem ra chúng đoán biết người Nam đang muốn tranh thủ thời gian nên cố tình giở trò bầy hầy, ra vẻ không thiết tha tiếp xúc với sứ giả nhược tiểu, cho đến khi ta mềm nẫu người vì chán nản, bấy giờ chúng sẽ tha hồ bắt chẹt. Tối ấy, Trần Phủ tập hợp mọi người để bàn kế đối phó, ông nói:
– Người Nguyên đang thách thức sự kiên nhẫn của chúng ta. Nếu thời bình ắt ta mặc kệ, họ dây dưa không buồn tiếp thì ta cứ thủng thẳng ăn ngủ và đọc sách, chẳng việc gì phải vội. Nhưng bây giờ thì khác, tình thế chiến tranh đã hình thành, ở nhà chắc Quan gia đứng ngồi không yên, nên chúng ta nhất quyết phải tìm cách vượt qua ải này.
Thì Kiến lên tiếng:
– “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, mình giống ngư ông đang ngồi buông câu trên sông, cá chưa ăn mồi thì mặc nhiên mà chờ cho đến khi chúng muốn ăn, còn nếu nóng vội làm mặt nước nhiễu động thời cá sẽ bơi đi hết. Theo tại hạ, ta cũng giả bộ bất cần, mọi người vui vẻ vào ra, tụ hội đàn ca hát xướng cho rôm rả, ắt chúng sẽ “cắn câu”.
Trần Quân đề nghị:
– Hạ quan để ý thấy đám khách trú tại dãy nhà lớn ở giữa không phải bọn tầm thường, nếu không là hoàng thân quốc thích thì cũng đại quan Nguyên triều, sáng chúng kéo nhau đi, chiều lại kéo nhau về, chắc hằng ngày vẫn gặp Thoát Hoan. Như ý các vị, ta cứ nhiệt tình mà vui, rồi thể nào cũng đến tai Trấn Nam Vương, bấy giờ xem ai là kẻ sốt ruột trước?
Trần Phủ quyết:
– Nhất trí như vậy. Nếu sáng mai ta vẫn không được tiếp kiến, thì chiều sẽ tổ chức uống rượu ngâm thơ cho thật náo nhiệt, các anh em cứ cười đùa tự nhiên. Thì Kiến tìm mua một cây cổ tranh và một cây sáo trúc. Ta cũng có chút ngón nghề về cổ tranh, còn các huynh đệ có ai biết thổi sáo không?
Một tùy tùng cho biết có sở trường thổi sáo, còn thổi được nhiều khúc nhạc nổi tiếng. Mọi người cả mừng, cùng đồng lòng bày trận đấu trí với kẻ thù tại hang ổ của chúng.
Ở vị trí trung tâm, dãy nhà giữa trong khu dịch quán bề thế và trang trọng nhất. Khi đoàn sứ bộ đến, đã có một nhóm người Nguyên tá túc ở đấy từ nửa tháng trước. Nhìn trang phục và cung cách ăn ở, có thể khẳng định địa vị cao sang của chủ nhân đám này. Về sau họ được biết, đó là gã thân vương Tích Lệ Cơ và tùy tùng của hắn.
Được Hốt Tất Liệt phái đến hành tỉnh Kinh Hồ đôn đốc việc lương thảo, họ Tích nhận lệnh trước ngày khởi binh phải thu năm vạn thạch bổ sung vào số mười vạn thạch đã tích trữ được để có đủ mười lăm vạn thạch lượng phục vụ cuộc chiến phương Nam. Thời hạn sắp hết mà mới gom góp chưa được hai vạn thạch, chỗ này thì nại kho tàng đã cạn còn vét của dân cũng chẳng được là bao, chỗ kia thì vin do mưa nhiều làm đường sá lầy lội lại thiếu xe chở nên khó đáp ứng kịp thời. Tích Lệ Cơ lo đến rộc người mà vẫn không nghĩ ra cách gì để bù đắp chỗ thiếu hụt. Biết hoàng đế chẳng ưa mình nên mới giao cho việc đi mót thóc ở cái vùng quanh năm thiếu đói, họ Tích thừa hiểu làm không xong thì mắc tội, nhưng chẳng lẽ để thiên tử có cớ trừng trị cái thân già chỉ còn da bọc xương này sao?
Trở về dịch quản trong tâm trạng bực dọc, lại nghe thấy từ hàng hiên dãy nhà ngang vọng tới tiếng đàn sáo dạo khúc Nghê Thường véo von, dìu dặt. Vốn chẳng có tâm trí mà để ý đến bọn khách ở bên kia, bây giờ thấy họ phủ phê vui sướng nên Lệ Cơ có phần khó chịu. Rồi nghe tiếp giọng ngâm thơ lanh lảnh:
Chiều ngắm Kinh Hồ bóng xế lan Vườn hương vui mãi thú tạo nhàn Đáy ly vẫn đợi sao sa xuống Lòng rộn cười theo tiếng rượu tràn.Kinh Hồ thưởng ngoạn ánh tà huy Hương viên nhàn tọa lộng vô thì Pha lê đẳng hậu lưu tinh lạc Tống tửu tâm khoan tiếu mãn trì.
Tích Lệ Cơ vô cùng kinh ngạc, không hiểu bọn này là hạng người nào mà thi ca sảng khoái đến thế, từ dùng rất tinh xảo, ý thơ bộc lộ phong cách tao nhã còn ẩn chứa thái độ ung dung tự tại của bậc nho sĩ chẳng màng sự đời, không vướng bận chuyện thiên hạ? Y bèn kêu tổng quản dịch quản đến hỏi chuyện. Viên tổng quản khúm núm thưa gửi:
– Bẩm đại nhân, bọn người này là sứ thần An Nam, nghe nói đang chờ yết kiến Trấn Nam Vương để thương lượng việc hoãn binh. Nhưng lệnh từ trên xuống không cho tiếp xúc, nên tại hạ cứ phải lẩn tránh suốt.
Lệ Cơ thắc mắc:
– Lạ thật. Sang điều đình hoãn chiến thì thái độ phải khác, sao chúng còn bàng quan mà ung dung xướng ca?
Viên tổng quản đáp:
– Hạ quan chẳng biết vì sao? Bề trên thì chưa thấy gọi, còn họ thì chẳng hề lo âu hay sốt ruột, mà cứ vui vẻ suốt ngày. Không hiểu do quen sống vô tư hay có dụng ý gì khác?
Tích Lệ Cơ nghĩ “Dứt khoát bên trong chứa cơ sự. Hay là bọn An Nam có niềm tin sẽ chiến thắng Đại Nguyên, mục đích chúng cử sứ sang chỉ cốt thăm dò chứ không thật lòng lo ngại chiến tranh? Nhưng trì hoãn cuộc chiến được ngày nào thì tốt cho ta ngày ấy, phải tận dụng cơ hội này thôi”. Lòng khấp khởi vui mừng vì đã có chỗ bấu víu để tránh và không làm tròn trách nhiệm, viên quý thích của Hốt Tất Liệt chỉ mong đêm chóng qua để sáng mai đi gặp Thoát Hoan.
Sáng hôm sau, khi nghe Tích Lệ Cơ trình bày xong, Thoát Hoan nhìn A Lý Hải Nha thăm dò. Viên Bình chương nheo cặp mắt một mí ra vẻ khinh mạn, rồi nói:
– Tích gia chớ có lo ngại. Tại hạ và Trấn Nam Vương đã bàn kỹ chuyện này rồi. Bọn An Nam giảo hoạt lắm, có khi trong lòng đang run sợ nhưng vẫn cố bình thản ca hát để ta lầm tưởng chúng có thừa dũng khí chống đối. Cứ để chúng chờ thêm mấy ngày nữa, khi nào bộc lộ sự hoang mang lo lắng, bấy giờ ta ép gì mà chẳng được.
Lệ Cơ lý sự:
– Bẩm Trấn Nam Vương, theo ý hạ quan, bọn này không hề nguy tạo, nếu chúng đang lo nghĩ việc hoãn binh thì lòng dạ nào mà làm thơ với ca hát cả đêm. Ta đang ở thế thượng phong, cứ cho gọi chúng đến lúc ấy tha hồ mà đe nẹt, nếu chúng thật lòng thần phục thì ta hoãn đánh, nhược bằng ngoan cố thì ta sẽ khởi binh thảo phạt.
Thoát Hoan lưỡng lự một hồi mới quyết:
– Sáng mai cho bọn An Nam vào diện kiến. Tập hợp đông đủ võ quan, dùng một trăm vệ sĩ cường tráng nhất sắp xếp đội hình từ ngoài vào trong để chúng thấy được uy vũ của ta mà khiếp hãi trong lòng.
Tòa hành khiển Kinh Hồ ở vị trí trung tâm thành trì, có khuôn viên đồ sộ và hoành tráng bậc nhất thành nội, với dãy tường đá cao vút và cửa cổng bề thế như một cung khuyết của các tiểu quốc. Bên trong là một cái sân rộng lát gạch đỏ, hai bên trồng nhiều cây bụi được tỉa tót công phu. Đi qua sân là đại sảnh đường có chiều ngang hơn trăm thước, với mái cong lợp ngói mũi hài xám xịt và bậc tam cấp lát đá xanh vuông vức, với những cột gỗ một người ôm đen bóng và hệ thống rui kèo chạm khắc tinh xảo. Nội thất bày biện theo phong cách du mục truyền thống pha trộn với kiểu bài trí công đường thời Tống, hoành phi câu đối được gắn trên nền thảm Ba Tư và da thú Mông Cổ, các bình sứ Trung Hoa xen kẽ trên kệ với mấy con chim quý nhồi bông, bộ bát đại bảo khí trên giá lưỡng long kê dưới sàn đối lập với dãy cung kiếm cổ truyền của người Thát treo trên vách.
Giữa đại sảnh đặt án thư thiết mộc chân quỳ và trường kỷ phủ da hổ, là nơi độc tọa của Trấn Nam Vương Thoát Hoan, viên thống soái đạo quân chinh phạt An Nam nay mai. Vương nhỏ con, tuy có khuôn mặt nho nhã của thư sinh, nhưng với đôi mắt xếch sáng quắc thì người giỏi nhân tướng cũng đoán biết đây là kẻ có cá tính, hành xử quyết đoán và thích điều khiển người khác. Có lẽ vì thế, nên tuy là con trai thứ chín và tuổi đời mới trạc ba mươi, Thoát Hoan đã được vua cha giao toàn quyền hành khiến cuộc Nam chinh lần này.
Đoàn sứ bộ Đại Việt dừng ngựa trước hành dinh của Trấn Nam Vương. Trần Phủ đi đầu, hai tay nâng quốc thư. Phía sau có Trần Quân và Trần Thì Kiến trong cương vị trợ thủ. Tám tùy tùng xếp hàng hai bưng theo lễ vật phủ khăn lụa điều. Nhìn quang cảnh bày quân phô tướng của người Nguyên, Phủ nghĩ thầm trong bụng “Bọn này định hù dọa kẻ yếu bóng vía đây. Vậy thì uổng công thôi”, rồi ông ung dung dẫn đoàn bước lên bậc thềm vào đại sảnh.
Thoát Hoan ngồi chễm chệ trên trường kỷ giữa nhà, đằng sau có bốn hộ vệ mặt mũi dữ tợn như đao phủ trên pháp trường. Mười hai võ quan và bốn văn quan bệ vệ đứng hai bên quay mặt về phía cửa mà nhướng mắt gườm gườm như hổ đói chực nhảy ra xâu xé bẩy nai tơ. Trong cùng có hai hàng tinh binh với bốn chục tráng sĩ mặc giáp trụ kim khí, kẻ gươm người giáo lăm lăm trên tay, trông giống lính tráng ra trận hơn là đám quân hầu tô điểm khí thế trang nghiêm ở chốn thương nghị chính sự.^?thoathoan-img
Các tùy tùng dừng lại phía dưới. Ba sứ bộ bước tới, Trần Phủ đứng giữa sảnh hô lớn:
– Chính sứ Trần Phủ, phó sứ Trần Quân và tham mưu Trần Thì Kiến phụng mệnh quốc vương nước Nam sang hành tỉnh Kinh Hồ yết kiến Trấn Nam Vương và trình thư ủy nhiệm. Chúng tôi xin được bái chào đại vương.
Dứt lời, ba sứ ta cùng chắp tay cúi đầu hướng về phía Trấn Nam Vương mà bày tỏ thái độ kính trọng. Đột nhiên Thoát Hoan đập bàn quát nạt ầm ĩ:
– Sứ giả An Nam vô lễ, tại sao chỉ lập bái mà không phục bái?
Đám tướng lĩnh dưới trướng cũng hùa theo mà trợn mắt ngoặc mồm đòi sứ ta phải quỳ, nhưng Trần Phủ không hề đổi sắc mặt, vẫn cùng hai trợ thủ đứng trơ trơ giữa sảnh. Đợi cho cơn thịnh nộ lắng xuống, bấy giờ ông lại lên tiếng:
– Người hiểu lễ xưa nay đều rõ, kẻ làm tôi chỉ lạy vua của mình. Nước Nam đã quy phụ Đại Nguyên, bầy tôi đến Đại Đô ắt phải quỳ lạy thiên tử. Ngài là vương nội quốc Đại Nguyên nên thứ bậc không cao hơn vua nước tôi, vậy cho phép sứ bộ miễn quỳ lạy.
Thoát Hoan biết mình đuối lý đành chuyển hướng sang vấn đề khác:
– Để giữ hòa khí hai bên, ta tạm thời miễn bái phục cho các người lần này. Bây giờ hãy trình bày cho rõ sang đây vì việc gì?
Trần Phủ đáp:
– Trước xin dâng lên ngài thư của quốc vương nước tôi, sau xin thay mặt quốc vương gửi tặng ngài một số sản vật quý hiếm của nước Nam để bày tỏ thâm tình hòa hiếu của tiểu quốc với đại quốc.
Thoát Hoan ra hiệu, một vệ sĩ bước xuống nhận thư đem lên cho y. Trần Phủ vẫy tay, tám tùy tùng giở khăn lụa, từng người một nâng cao khay gỗ đựng quà tiến lên phía trước phô diễn sản vật cho người Nguyên thấy, rồi lại lui xuống trao quà cho đám lính đem đi cất. Thoát Hoan chẳng buồn nhìn, y giả bộ đang chăm chú đọc thư. Thực ra y biết tỏng lễ vật của An Nam xưa nay toàn là đồ vớ vẩn.
Sau thủ tục lễ nghĩa, Nam Vương gọi Tích Lệ Cơ lên, bảo đọc thư của vua An Nam cho chư tướng cùng nghe. Trong thư có đoạn viết:
“ ...trước nay nước tôi vẫn một mực tận tụy với Đại Nguyên, ba năm triều cống một lần không sai hẹn lần nào. Việc trợ quân lương đánh Chiêm Thành thì vượt quá khả năng của bản quốc, mấy năm nay mùa màng thất bát nên lương thực rất thiếu thốn, sức người cũng suy kiệt, chẳng lẽ đem quân ốm yếu theo các ngài để làm vướng chân tướng sĩ Nguyễn triều sao? Việc lặn lội sang Đại Đô để bái vọng cửa khuyết thì tôi cũng đã tính đến, năm nay chưa thuận đi tất vài năm nữa sẽ đi, khi nào quốc thái dân an tôi sẽ vui vẻ lên đường, vừa có dịp diện kiến thiên tử để tỏ bày chân tình, vừa tiện thể chiêm ngưỡng phong cảnh tươi đẹp của quý quốc. Vậy mà tâm ý của tôi lại bị hiểu sai, cho rằng nước tôi bất phục, bất kính Đại Nguyên, vốn là điều xưa nay chẳng hề có. Cũng vì không rõ lòng tôi, nên nghe nói ngài nhận lệnh thiên tử định kéo quân sang trừng phạt tiểu quốc.
Chỉ vì sự hiểu lầm nhỏ nhặt mà phải động binh tốn kém, dùng đại quân mà đánh nước yếu thì khác gì đem dao mổ trâu để lóc vẩy con cá nhỏ; đấy là chưa kể việc giết chóc lẫn nhau làm sinh linh điêu đứng, máu xương của nhân dân hai nước lại đổ xuống vô ích. Chi bằng hãy ngồi lại để sáng tỏ lòng nhau mà bàn tỉnh việc hòa thuận. Nên tôi quyết sai bọn Trần Phủ ba người sang diện kiến ngài để đôi bên tháo gỡ khúc mắc, việc thương thảo thế nào thì họ sẽ thay tôi trình bày với ngài... ”
Nghe xong thư. A Lý Hải Nha đứng ở hàng đầu, nói như quát:
– Toàn lời lẽ ngụy biện. Xin đại vương chớ có mềm lòng.
Hữu thừa Khoan Triệt đứng lên cạnh cũng lớn tiếng:
– Người An Nam không đáng tin. Đừng thương lượng gì nữa, đại vương cứ phát lệnh, chúng tôi cưỡi ngựa một đêm là đến Long thành, đóng cũi quốc vương của họ giải về Đại Đô.
Vạn hộ Lý Bang Hiến ở phía sau có thái độ ôn hòa hơn:
– Cũng nên nghe sứ của họ trình bày, nếu biết thân phận mà quy phục thì nên chiếu cố, nhược bằng tìm cách thoái thác nghĩa vụ, bấy giờ đại vương cho xuất quân sang trừng phạt cũng chưa muộn.
Thoát Hoan giơ tay ra hiệu im lặng, rồi lên giọng kẻ cả:
– Mấy người nghe rõ rồi chứ? Tướng soái của ta bất bình An Nam đã lâu, chỉ muốn đánh cho rồi chứ không thiết nghị đàm gì nữa. Nhưng cứ cố chấp thì không đẹp mặt nước lớn đối với chư hầu. Nếu các người thay mặt cho vua An Nam mà chấp nhận những điều khoản trước kia thiên tử đã quy định thì ta sẽ bãi binh.
Trần Phủ lên tiếng:
– Các điều khoản của đại quốc vượt quá khả năng của một nước nhỏ yếu, nếu ngài buộc chúng tôi phải thi hành ngay một lúc thì e rằng không gánh nổi. Chi bằng ta thương lượng thời gian, điều gì làm được ngay thì chúng tôi sẽ làm điều gì chưa làm được ngay thì từng bước làm sau.
Thoát Hoan hỏi:
– Ngươi hãy trình bày rõ, điều gì làm được ngay, điều gì chưa làm được, để xem thử có đáng chiếu cố không?
Trần Phủ đáp:
– Trong thư đã nói rõ, việc vua nước tôi sang chầu thì xin khất vài năm nữa, khi nào trong nước yên ổn sẽ sang. Việc trợ binh đánh Chiêm thì hiện nay chúng tôi không đủ sức. Việc triều cống vẫn theo lệ cũ. Việc cho con em sang làm con tin thì ngặt nỗi vua tôi còn trẻ, mới sinh con gái, chưa có con trai, dăm năm nữa khi nào sinh con trai sẽ gửi sang Đại Nguyên. Việc biên tịch dân số phải mất nửa năm mới xong. Việc thuế khóa xin hoãn vài năm, nước tôi mất mùa, dân tình đói khổ lắm. Việc đặt quan Đạt lỗ hoa xích thì xin miễn, nước tôi đã quy phụ, vua tôi là dòng chính thống của An Nam quốc vương đời trước, danh chính ngôn thuận xứng đáng là người cai trị nước Nam, hà cớ gì phải thêm người khác cai trị, như thế là chồng chéo lên nhau.
Thoát Hoan giận tím mặt, mà rằng:
– Nãy giờ ta chịu khó nghe người trình bày, nhưng trước sau chỉ thấy vin cớ để mà thoái thác. Không thương lượng gì nữa, về bảo với vua của người chuẩn bị thành trì cho vững, chờ đại quân ta kéo sang.
Trần Thì Kiến vội lên tiếng:
– Trình đại vương, tôi có ý kiến này, xin người lắng nghe: việc ngài muốn đánh nước Nam là chuyện thừa sức, nhưng chiến tranh ắt có đổ máu, nếu dân nước tôi thiệt hai thì người nước ngài cũng thiệt một. Chánh sứ không đủ quyền hạn để quyết định những điều lớn lao nên phải hứa hẹn như vậy. Chi bằng hai bên sắp xếp một cuộc hội kiến trên biên giới giữa quốc vương chúng tôi với ngài, bấy giờ mọi vấn đề sẽ được giải quyết nhanh chóng.
Đây là ý tưởng mới, ngoài dự kiến của Thoát Hoan, nên y không trả lời ngay mà chờ xem thuộc cấp bên dưới nói gì. Lý Hằng vốn từng đối đầu với chiến binh An Nam, trong lòng cũng ngại cuộc chinh phạt này, lên tiếng trước:
– Theo ý tại hạ, nếu vua của họ thật lòng hội kiến thì đại vương nên thử một chuyến, biết đâu hoà giải được thì tốt, ta vẫn ràng buộc được nước Nam mà không nhọc công chinh chiến.
A Lý Hải Nha không hài lòng với cách nghĩ của Lý Hằng, y nói:
– Chủ kiến của Lý tướng quân xem ra không ổn. Nếu quốc vương An Nam bày cớ để trì hoãn chiến tranh chứ không thật lòng quy thuận, khác gì ta mắc mưu của họ mà tự làm hỏng kế hoạch hành binh.
Vạn hộ Bột La Hợp Đáp Nhĩ phụ họa theo:
– Đúng vậy, cứ kéo đại quân sang, muốn hội kiến thì ngồi giữa kinh đô của họ mà nói chuyện, nếu vẫn ngoan cố thì tức thời làm cỏ nước Nam.
Tích Lệ Cơ vốn hy vọng có thể hoãn chiến được ít lâu để y có đủ thời gian huy động lương thực, nên ngả theo chủ ý của Lý Hằng:
– Nếu kéo đại quân vào nước người tất xảy chuyện chém giết, cướp phá, lúc ấy người ta đã căm tức mình thì đời nào chịu nhún nhường quy phục nữa. Làm như thế chẳng thể hiện được uy phong thuận thiên của quân đội Đại Nguyên, còn mang tiếng là kẻ ý mạnh hiếp yếu. Các tướng việc gì phải nóng vội, cứ theo ý của Lý tướng quân xem sao.
Bấy giờ Thoát Hoan mới tỏ thái độ:
– Giả sử ta chấp thuận hội kiến thì các người dự định thế nào?
Thì Kiến trình bày:
– Đúng một tháng nữa, mỗi bên chỉ mang theo một ngàn quân tướng, hội kiến tại cửa ải Tây Phong.
Thoát Hoan bác bỏ:
– Không được, một tháng nữa thì quá lâu, ta không hứng thú chờ đợi lâu như thế. Ta hẹn vào ngày mười lăm tháng mười một, nếu thuận thì cho người cấp báo với ta trước năm ngày. Nhược bằng từ chối hay dây dưa trì hoãn thì ta sẽ kéo quân sang hỏi tội quốc vương An Nam.
Trần Phủ đáp:
– Ngài cho thời hạn như vậy sợ không thực hiện nổi, hôm nay là ngày cuối tháng mười, từ đây đến lúc ấy chỉ còn mười lăm ngày. Nếu không gặp trở ngại gì thì chúng tôi cũng phải mất mười ba, mười bốn ngày đi đường về nước, vậy làm sao mà kịp tổ chức hội kiến?
Khoan Triệt căn văn:
– Các người là rùa hay sao mà đi chậm thế?
Trần Phủ trả lời:
– Chúng tôi chỉ là mấy quan văn tầm thường, không quen phi ngựa suốt đêm như chiến tướng các ngài.
Bấy giờ Trần Quân mới nói:
– Thời hạn ngài quy định đúng vào dịp Đông chí. Tại hạ được biết, ngày Đông chí không thuận lợi cho việc hội họp, yến tiệc hay đi xa. Theo Dịch lý, tiết Đông chí thuộc quẻ Phục, âm khí rất nặng, dương khí của năm cũ đã tàn lụi, còn dương khí của năm mới vừa manh nha. Thời điểm ấy sức sống của trời đất yếu ớt nên mọi công việc hệ trọng khó thành công, huống chi là việc hòa đàm giữa hai nước.
Đám tướng soái Nguyên nhìn nhau phân vân, vì theo kế hoạch đấy là ngày chúng khởi binh Nam tiến. Thoát Hoan gọi A Lý Hải Nha, Khoan Triệt, Lý Hằng và Tích Lệ Cơ lên bàn bạc. Các sứ ta tin rằng chúng đã cắn câu, bình thản ngó lơ sang hướng khác. Hồi lâu sau, có lẽ họ đã nhất trí được với nhau, Thoát Hoan phán:
– Ta chấp thuận lùi ngày hội kiến vào mồng một tháng chạp, như vậy các người còn một tháng để chuẩn bị. Nếu hội kiến bất thành thì đừng trách ta quá tay, đại quân thiên triều sẽ triệt hạ nước Nam, trừ những kẻ phục thuận mà quy hàng.
Thế là đã thành công, đoàn sứ bộ của Trần Phủ hoãn chiến được mười lăm ngày, một quãng thời gian vô cùng quý giá đối với quân dân Đại Việt, người trong nước có thể chuẩn bị tốt hơn việc phòng tránh và chống trả cuộc xâm lăng rầm rộ của Nguyên Mông. Các sứ khẩn trương về dịch quan thu dọn hành lý rồi lên đường về nước ngay trong ngày. Ở nhà đang nôn nóng trông đợi tin tức, lúc đi mất hơn sáu ngày, lúc về mọi người bảo nhau cố gắng rút ngắn còn năm ngày. Trên đường về dù rất mệt mỏi nhưng ai cũng phấn khởi, phần vì được trở về nhà, phần vì hứng thú với việc khiến bạn Nguyên mắc nỡm về một cuộc hội kiến xin hàng của vua quan Đại Việt.