Chương 6 Cửa Thiên An, Hưng Đạo trình quyết sách
Điện Biên Hồng, bô lão bạch lòng dân
Vừa tới kinh sư, Hưng Đạo Vương sai ngay Dã Tượng:
– Đến tư dinh của Chiêu Minh Vương xem ngài ấy đã lên chưa? Nếu lên rồi thì mời ngài sang hội kiến.
Nghe tùy tùng cho biết Trần Thì Kiến cùng chánh sứ Trần Phú và phó sứ Trần Quân đã lên đường sang Nguyên từ buổi chiều. Hưng Đạo rất hài lòng, ngài bảo với thuộc hạ “Hoàng thượng biết chọn mặt gửi vàng, ta tin ba người này sẽ hoãn chiến thành công. Được đâu hay đấy, họ đã bỏ công sức phiêu lưu một chuyến thì chúng ta cũng nên nỗ lực tranh thủ thời gian”.
Lại nghe Nguyễn Hòa đến, Vương cho gọi ngay vào để hỏi chuyện. Viên tùy tưởng thưa bẩm:
– Tiểu nhân đích thân đến thái ấp của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nhưng không được tiếp, người nhà bảo “Vương ốm nặng, không tiếp khách”. Tiểu nhân nói “Muốn giao thư của Hưng Đạo Vương tận tay Chiêu Quốc Vương”. Gia nhân vào bẩm báo rồi quay ra nói “Không tiếp. Muốn giao thư thì đưa tôi mang vào. Còn không muốn giao thì đem về, Vương không rảnh đọc”. Cực chẳng đã, tiểu nhân đành phải giao thư cho hắn.
Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng nghe thấy thế bèn tỏ thái độ bất bình:
– Người này khinh lờn cha quá, dứt khoát có ý đồ đen tối. Phụ vương để con cắt cử người giám sát ngày đêm, hễ y định giở trò gì thì ngăn chặn ngay.
Hưng Đạo lắc đầu, ngài nói:
– Không thể làm thế, vuốt mặt phải biết nể mũi chứ. Dù sao Chiêu Quốc cũng là em Thượng hoàng, chưa xin phép người thì chớ có làm càn.
Chẳng phải Hưng Đạo không đoán được lòng dạ Ích Tắc nên không dùng biện pháp ngăn chặn. Chẳng qua ngài không thể lộng quyền mà có hành vi thô bạo đối với ruột thịt của nhị hoàng. Cũng vì nghĩ đến tình nội tộc, nên vương đã gửi tâm thư với lời lẽ chân thành cởi mở, hy vọng Chiêu Quốc nghĩ lại. Tuy việc lay chuyển tư tưởng của người khác còn khó hơn dời núi, nhưng ngài vẫn trông chờ mấy ngày hòa bình còn lại, Ích Tắc sẽ hồi tâm chuyển ý. Khi sai Nguyễn Hòa đến gặp Chiêu Quốc, vương định “bắt mạch” thái độ của y. Nhưng Chiêu Quốc đã láu lỉnh né tránh.
Gia nhân vào báo, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đã đến. Hưng Đạo cùng ba con trai ra bậc thềm đón chờ. Nhìn bộ dạng của Thái sư, Hưng Đạo biết ngài ấy đang rất lo lắng. Không chờ Quốc Tuấn mở lời, Quang Khải đề cập ngay vào vấn đề chính:
– Nhận được cấp báo, ta tháp tùng Thượng hoàng lập tức hồi kinh. Dọc đường đi người trăn trở lắm, lo sức nước không chống nổi đạo quân Thát hùng mạnh. Ngài có chủ ý gì chưa, trước mắt cần phải tiến hành những việc gì để đối phó với giặc?
Hưng Đạo điềm tĩnh đáp:
– Vó ngựa Nguyên Mông từng xéo nát nhiều nước, chúng hùng mạnh và thiện chiến thật, nhưng vẫn có cách đánh lại. Ta đã phác thảo sơ bộ quyết sách chống giặc, ngày mai sẽ dâng lên nhị hoàng. Ngặt nỗi trong triều lắm kẻ đớn hèn, thể nào họ cũng lên tiếng bài bác, dễ khiến tâm tư các vua dao động. Nếu trên dưới mỗi người mỗi ý thì chưa đánh cũng thua. Ta rất cần sự ủng hộ quyết liệt của huynh, để phe chủ chiến vượt qua ải đình thần mà đem ý chí chống giặc truyền ra ngoài, cho người trong nước có chỗ dựa tinh thần mà hăng hái lên.
Rồi Hưng Đạo trình bày với Chiêu Minh những ý chính trong quyết sách do ông đề ra. Thái sư ngồi nghe mà tươi tỉnh hẳn, nhìn nét mặt thấy rõ ngài rất tâm đắc với đường lối đánh giặc của Tiết chế. Tuy trong đầu còn đôi chút lấn cấn nhưng Quang Khải vẫn bày tỏ nhiệt tình để Hưng Đạo yên lòng:
– Ta sẽ hỗ trợ toàn diện, song phần quyết định vẫn phụ thuộc vào lý lẽ của huynh. Phải đủ mạnh thì mới bẻ gãy được miệng lưỡi của bạn như thần và thuyết phục được nhị hoàng.
Hưng Đạo Vương cảm tạ sự đồng lòng của Chiêu Minh trong cuộc chiến đình thần ngày mai. Quốc Tuấn tiễn Quang Khải ra tận cửa, lúc chỉ có hai người, ông thổ lộ với Thái sư:
– Theo ta biết, Chiêu Quốc có dấu hiệu muốn lội ngược con đường chúng ta sẽ đi. Có người đề nghị nên tìm cách khống chế y để không gây tác động lớn. Nếu làm vậy không chỉ Thượng hoàng đau lòng còn khiến dân tình hoang mang khi thấy nội bộ hoàng gia mất đoàn kết, chống đối lẫn nhau. Nhưng lờ đi thì hậu quả không biết ra sao?
Quang Khải nhíu trán thở dài:
– Con người Chiêu Quốc ta hiểu lắm. Hắn là kẻ có tài nhưng tham vọng quá nên tâm địa u ám. Khi còn tại thế, phụ hoàng từng căn dặn “Bàn tay ta có năm ngón, Hoảng là ngón dài nhất, Khải là ngón kế bên, Tắc là ngon nhỏ nhất. Dù dài hay ngắn cũng từ một bàn tay mà ra cả. Chớ vì ngón út ít dùng mà phế nó đi, nếu đứa nào có ý đồ ấy thì chẳng những khiến tay ta bị cụt mà chúng bay cũng què quặt tâm hồn”. Vì lời di huấn của tiền đế mà Thượng hoàng không nỡ khắt khe với hắn, nhưng người rất buồn bực bởi nghe nói Ích Tắc ít vào chầu Quan gia, nếu có đến thì luôn tỏ thái độ bất mãn. Ta là huynh đệ ruột thịt nên nhiều khi cũng đành nín nhịn.?
Hưng Đạo lại nói:
– Lúc nãy ngài kể, trên đường về kinh Thượng hoàng trăn trở lắm. Quả tình điều này khiến ta rất lo lắng. Nhiều năm nay ta và huynh không ít lần được nghe các vua bày tỏ ý chí quyết chiến với giặc. Nhưng những lần ấy giặc còn ở xa, chưa bộc lộ trắng trợn dã tâm chinh phạt Đại Việt, tinh thần của bậc chí tôn không có chỗ thể hiện. Bây giờ thì khác hẳn, giặc đã vào tới cửa, cuộc chiến sẽ nổ ra nay mai nên dễ khiến người ta hoảng hốt, chỉ sợ nhị hoàng lung lạc ý chí rồi bị bọn đớn hèn trong triều tác động thêm, lúc ấy sẽ bất lợi lắm.
Quang Khải lặng người, rồi đáp:
– Một cây đuốc khó mà soi tỏ đường hướng cho vua, đành chờ nghị định ngày mai vậy. Có thêm nhiều người cương quyết thì chắc rằng tinh thần của Thượng hoàng sẽ cứng rắn lại.
Họ chia tay nhau trong tâm trạng không vui. Việc nước bộn bề trăm mối, giặc dữ sắp kéo sang, kế hoạch điều binh khiển tướng cũng chưa đâu vào đâu, vậy mà hai vị lương đống nước nhà vẫn thấp thỏm âu lo bởi sự yếu mềm của con tim xã tắc, lại còn ngổn ngang dằn vặt về một phần xương thịt có nguy cơ ung thối.
Buổi sớm thời tiết dễ chịu, trời không mưa và nắng nhẹ, nhưng quang cảnh kinh thành lại có phần ảm đạm. Nhiều hàng quán không mở cửa, đôi ba nhà đang lịch kịch thu dọn đồ đạc, người qua lại trên đường thưa thớt, mà xem ra ai cũng có vẻ hoang mang thiểu não, còn điệu bộ thì hớt hải vội vã như muốn lẩn tránh một cơn lốc dữ dội đang thổi tới.
Ngày trước, mỗi lần thượng kinh, khi ngang qua các phường, đám lính phải hò hét khản cổ để dẹp đường cho hiệu Đại Vương, bây giờ bốn kiệu cùng qua một lúc lại không gặp bất cứ sự vướng víu nào. Khung cảnh đông vui náo nhiệt đâu rồi, chẳng lẽ cư dân Long thành đã biết tin giặc sắp tràn sang? Ngồi trong kiệu, Hưng Đạo buồn bã nhìn ra ngoài mà không khỏi tiếc nuối những tháng ngày bình yên đang có dấu hiệu tàn lụi ngay giữa kinh đô Đại Việt.
Kiệu qua cửa Đại Triều ở phía tây hoàng thành rồi dùng trước điện Thiên An. Phụ tử Hưng Đạo Vương sửa sang áo mũ cho tế chỉnh, cha trước con sau cùng tiến vào hành cùng dành cho việc Quan gia tiếp chầu. Nhiều vương hầu, khanh tướng đến trước đang xầm xì bàn tán, thấy Hưng Đạo xuất hiện bên im bặt rồi cất tiếng chào hỏi theo lệ. Nét mặt mọi người đều căng thẳng, nhiều người trông ủ dột như nhà có tang; có văn thần cứ lấm lét nhìn đồng liêu như kẻ mất hồn; lại có võ tướng đứng thu lu một góc như sợ bị ai đó chỉ mặt gọi tên. Nhưng cũng có những người khí phách, ánh mắt cương nghị rực ý chí bất bình, bàn tay nắm chặt như muốn bóp cho tan khối hờn bóng rẫy.
Tiết chế đứng ở hàng đầu. Phía sau là các trọng thần trong triều; thấy có mặt Đinh Củng Viên, Nguyễn Thuyên, Lê Văn Hưu và Nhân Túc Vương Trần Toản. Các con của Hưng Đạo đứng ở hàng giữa cùng với Trần Bình Trọng và Trần Khánh Đư. Thái sư Trần Quang Khải mới đến, đứng bên cạnh Hưng Đạo và Nhật Duật. Chỗ của Quốc Khang và Ích Tắc còn trống, chưa thấy họ xuất hiện. Trừ mấy người ở xa chưa về kịp, hơn trăm vương hầu và quần thần đã hội đủ dưới bệ rồng, chờ nhị hoàng thiết triều.
Kinh đô Thăng Long do nhà Lý xây dựng trên nền thành Đại La thời Bắc thuộc. Được thiết kế cấu trúc tam trùng, gồm ba lớp thành bao bọc nhau. Lớp ngoài cùng là kinh thành, bên trong có dân cư quần tụ theo hoạt động nghề nghiệp, tuy phố phường chưa định hình rõ rệt nhưng cũng có những đường ngang lối dọc với các khu chợ và các tiệm buôn bán. Lớp thứ hai là hoàng thành, nơi có các cung điện dành cho hoạt động triều chính, các vườn hoa và hồ nước để hoàng thượng và quần thần ngự lãm, các đền chùa phục vụ cho đời sống tâm linh của vua quan. Lớp trong cùng là cấm thành, dùng làm nơi ở của nhà vua và hậu cung của ngài.
Điện Thiên An nhìn ra sân chầu Long Trì, thông thường chính điện là nơi nhà vua thiết triều, nhưng thỉnh thoảng vào mùa hạ, khi trời oi bức quá, các vua lại đổi giờ chầu sang xế chiều rồi cho bày ghế ra ngoài sân để vua quan đàm luận. Trong điện đặt ngai rồng cao hơn nền nhà ba bậc, khi có Thượng hoàng dự chầu thì đặt thêm một ngại nữa bên cạnh. Trên phương diện chính thống, ngai của Quan gia nhỉnh hơn ngai của Thượng hoàng, song nhiều khi ngai lớn phải phục tùng ý chỉ của ngai nhỏ.
Chiêu Quốc Vương Ích Tắc đến dự chầu, khiến Hưng Đạo và Quang Khải cùng bất ngờ. Họ cứ nghĩ y cáo bệnh nằm nhà, chờ thời cơ làm điều sai quấy. Không mang bộ mặt của người bị ốm, còn có vẻ tự đắc hơn lệ thường, Chiêu Quốc phớt lờ chẳng chào hỏi anh ruột lẫn các vương có tư tưởng chủ chiến. Quốc Tuấn nghĩ “Ích Tắc coi đây là phiên chợ chiều, không lâu nữa sẽ giải tán cả nên bất chấp nghi lễ. Cũng chẳng sao, buổi chợ nay tàn thì sớm mai sẽ có phiên chợ mới, bấy giờ rác rưởi đã được dọn sạch”.
Đã qua giờ thìn vẫn chưa thấy các vua xuất hiện, bá quan có phần mỏi mệt, nhiều người uể oải quá mà quên cả thể thống, cứ vặn lưng, bẻ cổ suốt. Hình như ai cũng thiếu ngủ nên mới ra nông nỗi thế. Cũng chẳng thể trách họ, vạn sự đang yên lành bỗng dưng nghe tai họa chết chóc sắp đổ xuống đầu, ai ngủ ngon mới là kẻ bất thường. Nghe nói các vua tiếp chầu muộn cũng vì cơ sự cả; đường sá xa xôi, vó ngựa gập ghềnh mà trong lòng thì bất ổn nên Thượng hoàng xuống sức làm mệt; còn quan gia mất đứt nửa ngày vỗ về các ái khanh của ngài, bởi từ hậu tới phi cứ bấn cả lên khi biết tin giặc giã sắp tràn qua.
Rồi nhị hoàng cũng lên điện, vương hầu khanh tướng quỳ mộp mà tụng câu “vạn tuế”, nhưng âm lượng có phần trầm hơn và kém khí thế hơn bình thường. Hai vua an tọa, quần thần chắp tay đứng chầu, Quan gia nhìn khắp lượt quan tướng, đằng hắng mấy cái rồi lên tiếng:
– Chắc các khanh đã nắm được thông tin, trẫm không cần nhắc lại nữa. Giờ điều cần bàn là tìm đối sách để chế ngự mối họa này.Sáng qua trẫm đã sai Trung đại phu Trần Phủ và Thiếu Khanh Trần Quân khẩn cấp sang Nguyên tìm cách hoãn chiến. Nhưng đấy chỉ là kế tạm thời. Các khanh phải giúp trẫm tìm ra kế sách lâu dài để bảo toàn cơ nghiệp của nhà Trần ta.
Mọi người chưa ai dám bày tỏ thái độ, họ còn chờ Thượng hoàng mở lời, bấy giờ sẽ đoán ý của ngài mà nói. Thánh Tông quá hiểu cung cách ứng xử của đình thần, ngài bảo:
– Như thế là bệ hạ muốn các ngươi bàn bạc cho kỹ hướng thoát hiểm. Trước mắt chỉ có hai hướng, đó là hòa hoặc chiến. Hòa thì có thể giữ mạng, giang sơn tránh được họa tàn phá, nhưng nhục nhã và bị thua thiệt đủ đường, thậm chí vương triều này cũng không còn. Chiến ắt đổ máu, điêu tàn và tang tóc; đánh mà thua thì mất hết, quân thần bị đày sang Nguyên còn Đại Việt thành châu quận phương Bắc; đánh mà thắng sẽ oanh liệt, xã tắc được vẹn toàn, sử xanh ghi dấu muôn đời. Vậy các ngươi hãy trình bày xem nên hòa hay chiến, hòa thì làm sao cho đỡ ô nhục với tông miếu và có lợi cho nước nhà, còn chiến thì làm cách nào để thắng?
Đình thần lúng túng nhìn nhau, Quan gia không muốn bộc lộ ý định của người, Thượng hoàng nói rõ về tình thế và hậu quả, nhưng chủ ý của ngài định hòa hay chiến thì chưa biết. Bậc chính trực không ngại nói thẳng, Chiêu Minh Vương lên tiếng trước:
– Khởi bẩm nhị hoàng, chúng ta phải đánh thôi, dứt khoát không thể hòa để rồi mất vương triều, như thế là có tội với tiên đế, có tội với tiền nhân đã gây dựng nên giang sơn này.
Nhân Túc Vương Trần Toản hỏi vặn:
– Chiêu Minh đòi đánh, vậy hãy nói rõ ta lấy gì mà đánh với năm mươi vạn quân Thát, dùng kế sách gì để khỏi thua?
Chiêu Minh đáp:
– Ta có mười lăm vạn quân, sẽ tuyển thêm dăm vạn trong mấy ngày tới, còn có vài vạn quân vương hầu và hàng triệu người dân có thể cầm vũ khí đánh giặc. Kế sách đánh giặc đã có...
Khi nước lụt sắp tràn về, thường mạnh ai nấy chạy, người ta bất chấp trật tự mà cố kiếm cho mình một lối thoát thân tốt nhất. Chốn đình thần xưa nay không có chuyện cướp lời, tranh nói, vậy mà nó đã xảy ra trong buổi nghị đàm hôm ấy. Không chờ Thái sư nói dứt, như có tín hiệu khơi mào, nhiều người nhao nhao phản ứng, người này kêu rêu “Giặc đông gấp ba, đánh sao lại chúng?”, kẻ kia phàn nàn “Quân Thát thiện chiến, quân ta ô hợp, đánh gì mà đánh”, có đại thần còn mỉa mai “Ngài bảo huy động dân chúng đánh giặc thì khác nào xua người ta vào chỗ chết”. Hình như họ đang ra sức phơi bày tư tưởng phản chiến của mình cốt làm vừa lòng ai đó, để ngộ nhỡ mai mốt thời thế đổi thay còn giữ được cái thủ cấp trên cổ.
Phe ủng hộ Thái sư cũng không vừa, tiếng gầm ghè và những lời thô thiển từ cửa miệng các chiến tướng làm choáng ngợp cả không gian nghị định nghiêm cẩn, nào là “hèn mạt”, “ô danh”, nào là “giá áo túi cơm”, “tham sống sợ chết”... Chẳng mấy chốc chốn quan trường thành cái chợ vỡ, áo mũ xênh xang cũng điêu trác không kém mấy mụ hàng tôm hàng cá. Không bên nào chịu nhường bên nào, nhưng bên chủ hòa có phần lấn lướt. Dĩ nhiên đám nho sĩ áo thụng uốn lưỡi giỏi hơn đám chiến tướng binh giáp gò bó.
Chiêu Minh đỏ mặt tía tai vì tức giận, Hưng Đạo rỉ tai Thái sư, khuyên ngài giữ bình tĩnh, hẵng chờ xem Quan gia xử lý ra sao? Quả nhiên hoàng thượng chịu không nổi nên quát ầm lên:
– Cãi vã đủ rồi. Các ngươi không xem ai ra gì cả. Nhà chưa cháy đã lòi ra lắm chuột thế? Kẻ nào còn to mồm vô lối thì ta sẽ đuổi cổ ra ngoài.
Đình thần nín khe, có lẽ bấy giờ họ mới sực tỉnh để nhận biết vua vẫn là vua, tôi vẫn là tôi, triều đình Đại Việt chưa hề rã đám. Nhân Tông nói tiếp:
– Ta đã rõ cả rồi. Một nửa muốn hòa, một nửa muốn chiến. Nay bên hòa có kẻ nào giỏi lý lẽ hãy trình bày chủ ý cho ta và Thượng hoàng nghe thử?
Ích Tắc mở miệng hùng biện:
– Khi Tần vương hùng mạnh, nước Hàn liệu sức không chống nổi, Hàn vương An đã xin quy thuận nên tránh được họa sinh linh đồ thán, nước Triệu khăng khăng cự tuyệt khiến thành Hàm Đan bị tàn phá, vua Triệu là U Mục Vương thành tù binh, quân sĩ và dân thường chết vô số kể. Chẳng những Hàn, Triệu cả Ngụy, Sở, Yên, Tề cũng bị Tần vương thôn tính, nước lớn mạnh chinh phục nước nhỏ yếu là chuyện thường tình xưa nay. Trước sau cũng mất nhưng Hàn không bị tan hoang và giết chóc, Triệu cũng mất nhưng thành tan, dân chết, vua tù đày. Há đấy chẳng phải là kinh nghiệm xương máu để ta suy ngẫm hay sao? Huống hồ nay đã khác xưa. Trước kia mất nước là liệt độ, chẳng còn đất đai, lãnh thổ của mình; bây giờ ta không chống lại mà cam kết thực hiện một số điều cho phải lẽ thì Nguyên có thu phục cũng chỉ là hình thức, họ vẫn để cho bệ hạ cai quản nước Nam chứ không có ý phế bỏ. Khẩn mong nhị hoàng soi xét để giữ được nước lại tránh được họa binh đao vô ích.^?️[^134-img]
Lê Văn Hưu hỏi:
– Chiêu Quốc Vương cho rằng Triệu ngoan cố chống Tần nhưng bị thua nên chuốc họa tàn khốc, có phải hàm ý nói nếu ta chống Nguyên bị thua cũng gặp nạn tương tự, còn nếu ta chấp nhận đầu hàng thì vua tôi và dân chúng sẽ thoát nạn?
Ích Tắc đáp:
– Đúng vậy.
Văn Hưu lại hỏi:
– Thế ngài có biết chuyện mấy chục năm trước khi người Thát đánh Tây Hạ, vua Tây Hạ là Lý Hiển đã chấp nhận quy hàng nhưng vẫn bị giết hại, thành trì, cung điện bị đốt phá tan tành, lăng miếu bị đào bật di cốt, quá nửa dân trong thành bị quẳng vào lửa hoặc bị chôn sống?
Câu hỏi của Văn Hưu làm Ích Tắc ngớ người, ú ớ không biết nói gì. Các quan tướng xầm xì bàn tán, nhiều người rùng mình trước cách miêu tả ghê rợn của vị Hàn lâm học sĩ kiêm sử gia. Ở tít hàng cuối có người mở mồm bao biện cho Ích Tắc:
– Chiêu Quốc đại nhân không phải là người viết sử nên không nắm được những chuyện gần đây, vốn không có trong thư tịch. Nhưng Lê học sĩ nói một mà không nói hai, trước đó Tây Hạ đã chiến tranh với Thát, tuy vua Tây Hạ cùng đường phải xin hàng song vẫn khiến quân Thát giận dữ, nên mới ra thế.
Mọi người quay lại nhìn, thì ra đó là Trần Lộng tước Chương Hoài Thượng Hầu, một viên tướng trẻ trong tổn thất, thông minh hiếu học nhưng gian hùng. Lộng vừa dứt lời đã thấy Trần Bình Trọng cười ầm lên rồi nói:
– Tên là Lộng nên cách nói cũng lộng ngôn lắm. Người chê Lê học sĩ không nói hết chuyện, còn người đã nghĩ hết óc chưa? Chúng ta có khác gì Tây Hạ, trước kia tiên đến từng đánh cho bọn Ngột Lương Hợp Thai chẳng còn manh giáp, bây giờ nếu ta xin hàng thì cũng bị giặc Thát trả thù hèn hạ. Vậy có ai còn muốn hàng không?
Trần Lộng nín thinh, đám chủ hòa im thin thít. Phe chủ chiến xem ra hả dạ nên bộ mặt người nào cũng đắc chí lắm. Hưng Đạo Vương mừng thầm trong bụng, ngài chờ nhị hoàng mở lời hỏi, bấy giờ sẽ lên tiếng. Từ đầu buổi chầu đến giờ vương chưa nói câu nào, chẳng qua ngài có chủ ý, cứ để mọi người nói thả cửa, phe muốn đánh đâu dễ bị bọn muốn hàng lấn át, khi lũ ươn hèn nao núng thì ngài sẽ làm nốt phần việc của mình, như vậy vừa không mang tiếng cậy quyền Tiết chế mà “cả vú lấp miệng em” lại ra đòn đúng thời điểm khiến lũ cầu hòa không có cơ hội ngóc đầu dậy.
Đúng như Vương dự đoán, Quan gia yêu cầu Hưng Đạo lên tiếng:
– Tiết chế nghĩ sao về việc này?
Hưng Đạo chắp tay, mắt nhìn thẳng các vua, giọng dịu hẳn xuống, mà rằng:
– Mấy hôm trước, để truyền tin giặc động binh, các tôi tớ của thần đã bỏ mình trên biên giới. Nhiều thổ dân hy sinh để cứu người mang tin. Năm chục con dân nước Nam đánh một trận ngang tài ngang sức với hơn trăm giặc Thát, làm chúng tổn thất nặng nên không dám tràn qua đất ta bắt người. Trận ấy, dân ta chỉ bằng một nửa giặc, nhưng họ chiến đấu bảo vệ đồng bào nên tinh thần cao gấp mười giặc. Chẳng lẽ chúng ta thua kém người dân sao? Chỉ cần có dũng khí như người sơn cước thì hai mươi vạn vệ quốc quân không ngán gì năm mươi vạn giặc Thát. Chúng đâu quá tài giỏi như nhiều người lầm tưởng, dân binh còn đối đầu được, huống chi chiến binh. Thái sư nói rất đúng, trăm vạn dân có thể cầm vũ khí, thuổng cuốc và dao rựa cũng sắc bén lắm, chớ coi thường sức mạnh của họ. Thần thỉnh cầu nhị hoàng cho đánh, dứt khoát phải đánh. Còn ai vì quá lo sợ mà muốn hàng thì hãy tỉnh ngộ, kẻo về sau hối không kịp.
Lực lượng chủ chiến ào ào cổ vũ Hưng Đạo Vương. Trần Nhật Duật hét khản cả tiếng “Quốc Tuấn nói chí lý, dứt khoát phải đánh”. Trần Khánh Dư cao giọng giễu cợt “Kẻ nào muốn hàng xin Quan gia cứ tống cổ về cho đi bán than, lúc ấy mới biết thân”. Mọi người phì cười trước gợi ý hài hước của Nhân Huệ. Hưng Trí Vương đứng bên cạnh đùa giỡn “Sự tích bán than của ngài nên chép vào quốc sử”. Nghe em nói thế, Hưng Vũ Vương bảo “Chú đừng khơi chuyện cũ nữa, mọi cái qua rồi”. Khánh Dư liếc nhìn Quốc Nghiễn bằng ánh mắt hàm ơn. Nhân Huệ biết cựu tình địch là người độ lượng, chẳng chấp nên chuyện đã qua, nhưng mỗi lần gặp mặt nhau, trong lòng ông không khỏi hổ thẹn.
Ích Tắc cụp mặt xuống để che giấu sự thất vọng, phe chủ hòa đang bị dồn vào chân tường, nhưng y chưa biết cách nào gỡ bí. Thái sư Trần Quang Khải thấy tình thế đã thuận lợi, để chứng tỏ lực lượng chủ chiến có kỷ cương, ngài nói lớn:
– Chúng ta thể hiện ý chí quyết chiến là cần thiết, nhưng không nên quá kích động kẻo làm tổn hại tôn ti triều chính. Nhờ uy vũ của tiên đế phù trợ, dũng khí đánh giặc đang sôi sục trong tâm can đình thần, xin nhị hoàng cao minh hãy dẫn dắt quân dân Đại Việt dấn thân vào trận máu lửa này.
Thượng hoàng giơ tay làm hiệu, có ý bảo mọi người im lặng, rồi ngài hỏi:
– Ta biết nhiều người muốn đánh, nhưng không thể mạnh ai nấy đánh, vậy ai có kế sách gì hãy lên tiếng cho ta và bệ hạ được biết?
Thái sư đáp:
– Bẩm nhị hoàng, Tiết chế có soạn kế đánh giặc, thần cũng được tham vấn, vậy xin để Hưng Đạo trình bày cho Thượng hoàng và Quan gia xem xét.
Tuy Nhân Tông đã gật đầu chấp thuận, nhưng Quốc Tuấn còn đang cân nhắc về cách trình bày quyết sách. Vừa kịp lúc Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang và Chương Hiến Hầu Trần Kiện từ Hoan Ái ra đến nơi, quân thần bận nghi lễ xưng tụng, Vương có thêm thời gian để suy xét cẩn trọng hơn. Ngài vốn băn khoăn là nên tóm tắt sơ lược hay giải thích chi tiết? Nếu sơ lược thì sợ các vua và đình thần khó thông, nếu chi tiết quá ngộ nhỡ có kẻ phản trắc truyền tin cho giặc thì khác nào bày đường cho chúng triệt ta. Cuối cùng Vương cho rằng “Cứ vượt qua ải đình thân đã, rồi tùy cơ mà lèo lái”.
Hai vua và quần thần đã sẵn sàng nghe, Vương bắt đầu trình tấu:
– Khởi bẩm nhị hoàng, được bệ rồng tín cẩn giao phó trọng trách Tiết chế, hạ thần đã nhiều ngày trăn trở về đường lối chống giặc, làm sao đập cho tan cuộc xâm lăng của chúng, giúp vương triều vượt qua đại họa này. May nhờ tiền nhân chỉ lối và thần vũ của tiên đế soi sáng, bầy tôi đã tìm ra quyết sách gồm bảy điểm với hai mươi tám chữ. Đó là “Ngụy nhẫn hoãn chinh. Gia tăng phòng tuyến. Nhất quốc đồng tâm. Tị kinh thượng sơn. Quân dân hiệp lực. Du binh chế cường. Tầm cơ tứ chiếnVờ nhịn hoãn chiến; Tăng cường phòng thủ; Cả nước đồng lòng; Rời kinh lên núi; Vua và dân hợp lực; Dùng nhanh chế mạnh; Chờ thời phản công.”.
Nhân tông phán:
– Khanh hãy giải thích cụ thể từng điểm để các quan bàn nghị cho thấu đáo.
Hưng Đạo phụng mệnh, lý giải từng điểm trước sau:
– Điểm thứ nhất “Ngụy nhẫn hoãn chinh”. Ngày giặc tiến đánh chẳng còn bao lâu nữa, trong khi chúng ta chỉ mới bắt đầu khởi động lực lượng đối phó, rất cần có thêm thời gian để tổ chức phòng chống. Trước sau cũng phải đối diện cuộc chiến này, nhưng nếu chuẩn bị tốt hơn thì ta không bị động, còn tranh thủ tuyển thêm quân, rèn thêm vũ khí, triều đình và người dân cũng kịp cất giấu tài sản, lương thực và đi lánh nạn. Mông Thát giả kế mượn đường đánh Chiêm để diệt ta, thì Đông A cũng giả kế nhẫn nhịn, chấp nhận điều đình hàng khiến giặc mắc bẫy tưởng ta muốn nhượng bộ mà tạm thời hoãn chiến.
Nguyễn Thuyên hỏi:
– Khởi bẩm hoàng thượng, thần xin mạo muội hỏi, việc người cử sứ khẩn cấp sang Nguyên ngày hôm qua có nằm trong kế này không?
Nhân Tông đáp:
– Ta cũng nắm được chú ý của Hưng Đạo Vương, thấy việc cần thiết nên cho tiến hành gấp.
Ở bên dưới, nhiều người ngầm hiểu “Thì ra bệ hạ và Tiết chế có bàn định trước về kế sách chống giặc. Vua đã thuận chiến rồi, việc nghị đình hôm nay chỉ là phép thử lòng bầy tôi”. Hưng Đạo nói tiếp:
– Điểm thứ hai “Gia tăng phòng tuyến”. Quân Nguyên tập trung chủ yếu ở hướng đông bắc. Khi chúng tràn sang phải vượt qua nhiều ải độc đạo, đấy chính là nơi ta sẽ phục kích để cản giặc. Đằng sau ải sẽ lập nhiều phòng tuyến ở vùng núi lẫn cửa sông biển, sử dụng các vệ quân và lộ quân kết hợp quân của vương hầu ngăn chúng tiến về Thăng Long. Ở hướng tây bắc, lực lượng giặc ít, chỉ cần quân của Chiêu Văn và thêm dân binh các trại là đủ sức chống. Ở hướng nam, yêu cầu Tĩnh Quốc lập tuyến phòng thủ trên sông Gianh hoặc sông La, chặn quân Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra. Nếu bọn Toa Đô và Ô Mã Nhi hợp quân rồi kéo vào Ái Châu bằng đường thủy, Chương Hiện đang trấn thủ trong ấy có trách nhiệm lập tuyến phòng vệ tại cửa sông Ngu Giang.
Chương Hiến hầu Trần Kiện mới thượng triều, còn lớ ngớ chưa rõ đình thần trắng đen ra sao, lại được Hưng Đạo chỉ đích danh, bèn lên tiếng hỏi:
– Ngài yêu cầu lập phòng tuyến, trong khi tại hạ chỉ có chừng bảy ngàn quân, nếu huy động cả ra cửa sông thì lấy đâu người để giữ thành, giữ phủ?
Hưng Đạo đáp:
– Giữ phủ đệ là việc của gia binh, còn giữ thành lại phụ thuộc vào thắng bại ở phòng tuyến. Nếu giặc kéo vào Ngu Giang mà phòng tuyến của Chương Hiến không cần được thì thành trì trước sau cũng mất. Khi cần hãy bỏ thành vào rừng mà đánh giặc.
Trần Kiện nín thinh. Ích Tắc dò hỏi:
– Quốc Tuấn muốn lập phòng tuyến đông bắc, có thể cho quần thần biết cụ thể hơn không?
Hưng Đạo ngờ vực nên né tránh:
– Việc này ta và Thái sư sẽ trình với Thượng hoàng và Quan gia sau.
Rồi Vương chuyển nhanh sang điểm khác:
– Điểm thứ ba “Nhất quốc đồng tâm”. Trong cuộc chiến, để thắng kẻ thù chúng ta cần kết hợp sức mạnh của người dân, muốn được vậy phải chấn hưng tinh thần dân chúng, cho người người, nhà nhà cùng chung chí hướng đánh đuổi ngoại xâm. Thần thỉnh cầu nhị hoàng mở hội nghị với người dân trong nước, triệu với các bô lão ở mọi miền về kinh dự đàm...
Thánh Tông nghe đến đấy, bèn ngắt lời Hưng Đạo:
– Việc này ta chưa thấy có ở thời nào. Tiết chế giải thích rõ tại sao phải mời các bô lão về kinh hội họp?
Thấy xung quanh xầm xì bàn tán, Hưng Đạo điềm tĩnh trả lời:
– Bẩm nhị hoàng, người xưa có câu “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, bô lão là người từng trải, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, nên đối với người Việt ta, các bậc cao niên trong gia đình là chỗ dựa tinh thần của con cháu, được con cháu kính trọng và nghe lời. Được hoàng thượng mới về kinh là hãnh diện lớn của bô lão, họ sẽ đem tinh thần quyết chiến của bậc chí tôn truyền bá khắp nước, thúc giục con cháu hăng hái tòng chinh đánh giặc. Tình thế rất cấp bách, xin Thượng hoàng và Quan gia đừng vì thời trước không làm mà bỏ đi điểm này.
Ở phía sau có người nói lớn “Khởi bẩm nhị hoàng, điều này không thể chấp nhận được”. Các quan ngoái nhìn, thì ra đó là Vũ Đạo Hầu, một người trong tôn thất. Nhân Tông hỏi:
– Tại sao không chấp nhận được, phải nói cho rõ?
Vũ Đạo đáp:
– Đạo người ở thời nào cũng phân định kẻ trên người dưới, từ đó mà quy ra lễ để điều hành thiên hạ. Dân chúng trong nước đều là bầy tôi của vua, Khổng Tử dạy “Vua sử dụng bề tôi phải theo lễ, bề tôi phụng thờ vua phải theo trung”, xưa nay chưa hề có lễ vua phải mời bầy tôi là hạng thứ dân vào triều để hỏi han, tham vấn. Hạ thần biết dụng ý của Hưng Đạo muốn tạo mối giao hòa quân dân để tìm sự đồng thuận về tinh thần chủ chiến, nhưng như vậy là vô lễ. Hữu Tử đã nói “Trong mọi việc chỉ biết hài hòa, không lấy lễ nghĩa để tiết chế thì việc gì cũng không xong”. Tuổi già thì sự minh mẫn suy giảm, hoàng thượng có giãi bày chắc gì người ta đã hiểu, thái độ và cung cách ăn nói của họ ra sao chưa biết nhưng chắc rằng không phải là điều mực thước. Đấy là chưa kể phát sinh một lệ phiền toái, dễ khiến thứ dân lờn chốn cửu trùng tôn nghiêm.
Hưng Đạo bắt bẻ lại:
– Việc hoàng thượng mời bô lão vào kinh tham vấn không hề vô lễ hay trái lễ. Mạnh Tử nói “Dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Tại sao mời những người mà các bậc thánh hiền đã đề cao là quý nhất, đáng trọng nhất đến kinh sư để trao đổi tâm tư của bách tính lại cho là không theo lễ? Vũ Đạo sợ rằng vua nói các bô lão không hiểu, thế là ông quên cả lời răn của Khổng Tử “Không sợ người không hiểu ta mà chỉ sợ ta không hiểu người”. Như vậy là khinh mạn người già quá đấy, trong khi xét theo tuổi thì ông cũng lên lão lâu rồi.
Mọi người cười ồ bởi cách ví von hài hước nhưng rất sắc bén của Hưng Đạo Vương. Vì theo tuổi tác, Vũ Đạo đã ngoài sáu mươi, thuộc hàng lão cả chục năm có lẻ. Nhân Tông cũng che miệng cười, nhân lúc đình thân đang vui, ngài muốn chuyển hướng, bèn nói:
– Nếu không ai có ý kiến gì khác, coi như cho qua. Tiết chế chuyển sang mục khác đi.
Hưng Đạo nhẹ cả người, vội nói tiếp:
– Điểm thứ tư “Tị kinh thượng sơn”. Lúc giặc mới kéo sang, lực lượng tập trung, quân động, sức mạnh. Các phòng tuyến của ta sẽ cố ngăn cản bước tiến của địch. Nếu chúng vượt qua được ắt dồn quân đánh chiếm kinh đô. Giặc có thể đem sang mười hai cự thạch pháo với mục đích công phá Thăng Long, ta không biết tránh đòn mà cố thủ chống cự thì e rằng kinh sư sẽ tan tành. Vậy thần nhất thiết đề nghị: khi tình hình khẩn cấp, nhị hoàng và bá quan nên rời kinh, dân chúng cũng di tản tứ xứ, giặc kéo vào chỉ chiếm được cái thành rỗng. Rừng núi của ta, làng bản của ta, bất cứ chốn nào trên lãnh thổ này cũng có thể là nơi quân thần nương náu tạm thời để tổ chức kháng chiến.
Nhật Duật hỏi:
– Cự thạch pháo là loại vũ khí gì, ta cũng từng nghe qua nhưng không biết cụ thể.
Lê Văn Hưu giải thích:
– Là loại máy bắn đá hộc rất khủng khiếp, dùng cần đẩy những viên đá to cỡ một người ôm bay xa tới cả dặm, phá tường thành, nhà cửa làm mọi thứ đều vỡ nát. Hồi đánh kinh đô nước Kim là thành Biện Kinh, quân Thát dùng tám cỗ cự thạch pháo bắn phá tan hoang khiến Kim phải thất trận, đầu hàng.
Quần thần bàn tán sôi nổi lắm, nghe Văn Hưu kể về hiệu quả của máy phá thành cũng sợ thật, nhưng việc đưa cả bầu đoàn thể tử rời kinh vào rừng, lên núi mà lẩn tránh thì quả là điều không vui vẻ gì đối với tầng lớp thượng lưu vốn chỉ quen sống nhàn nhã phủ phê chốn lầu son gác tía. Nhìn Thượng hoàng và Quan gia cùng chau mày nghĩ ngợi, mọi người ngầm biết hai vua đang đau đầu, hậu cung của các ngài mà kéo cả lên non thì có mà bầm dập hết.
Phe chủ hòa đoán ý vua bèn rắp ranh phản ứng. Có tiếng ồm ồm vang lên từ phía sau “Xin được hỏi Hưng Đạo Vương”, mọi người nhận ra ngay đó là lão tướng Phạm Cự Địa:
– Kinh sư là đầu não của quốc gia, bỏ mà đi thì cũng như mất nước, sao không nhường nhịn họ để cho nước yên ổn, quân thần cũng đỡ khổ?
Hưng Đạo quyết liệt phản công:
– Ông quên rồi sao? Năm Nguyên Phong thứ sáu (1258) tiên đế từng cho rút khỏi kinh thành nhưng không đầy hai tháng sau vua ta đã hoàn kinh, còn Ngột Lương Hợp Thai thì cuốn xéo biệt tăm. Đáng lẽ ông phải truyền tinh thần Nguyên Phong cho con cháu chứ đừng nên đứng đấy run rẩy vì lo sợ phải chinh chiến mệt nhọc.
Cự Địa giận tím mặt nhưng chẳng giám ho he gì nữa. Đinh Củng Viên hiểu sự hoang mang của quần thần, bèn đề đạt ý kiến dung hòa:
– Theo thiển ý của hạ thần, việc rút khỏi kinh thành nên làm từng bước, tránh sự dồn dập dễ gây ra hoảng loạn trong dân chúng. Chờ thêm ít bữa, khi sứ ta trở về, bấy giờ tình hình rõ ràng hơn, lúc ấy nhị hoàng hẵng quyết định.
Nhân Tông phán:
– Được rồi. Việc này chờ sứ về sẽ quyết sau.
Hưng Đạo tiếp tục trình bày:
– Điểm thứ năm “Quân dân hiệp lực”. Muốn chiến thắng trận này, ngoài đội quân của vua còn cần sự hưởng ứng của dân. Các vương hầu tập hợp cho động gia binh, chiêu dụ mọi thủ lĩnh miền núi cùng tham gia đánh giặc, đề nghị bô lão vận động con cháu tòng chinh, khuyên người ở lại tự vũ trang, lập đội chiến đấu giữ làng giữ bản. Cần điều vài trăm quân hiệu tỏa đi khắp nơi, dùng loa kêu gọi dân chúng chôn giấu lương thực, cất giấu gia súc để không bị bọn giặc thu giữ, ai đủ sức thì mài dao sửa cuốc làm vũ khí, khi có thời cơ thì rủ nhau đánh giết những toàn quân nhỏ của giặc.
Khoản này không ai có ý kiến gì, Hưng Đạo tranh thủ luận sang điểm khác:
– Điểm thứ sáu “Du binh chế cường”. Muốn phá thế giặc phải có cách đánh phù hợp với ta. Giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường trong binh pháp. Quân đánh theo binh pháp, dân đánh theo sở trường, miễn sao tiêu hao dần sinh lực của địch. Ban đầu thế giặc còn mạnh, ta nên tránh những trận đối đầu lớn, mà dùng lực lượng nhỏ tiến đánh bất ngờ rồi rút lui nhanh chóng, mượn địa thế rừng núi, sông ngòi làm chỗ giăng bẫy, nhử giặc vào tròng mà công kích, giặc huy động quân vây đuổi thì ta tản ra, hòa vào cây rừng, đá núi, nước sông.
Thượng hoàng hỏi:
– Lúc trước khanh nói cần lập chiến tuyến để ngăn giặc, như vậy phải dùng lực lượng lớn dàn quân ra mà đánh, bây giờ lại nói dùng quân nhỏ, du binh đánh nhanh rút nhanh. Vậy có mâu thuẫn không?
– Khởi bẩm Thượng hoàng, cách đánh của thần không hề mâu thuẫn. Ta lập chiến tuyến cản giặc ở những nơi xung yếu để quân dân phía sau có thời gian củng cố lực lượng và tổ chức di tản. Nhưng nếu bất lợi thì quân ta sẽ rút lui rồi dùng những đội quân nhỏ tập hậu, tạt sườn khiến chúng luôn ở trong tình thế bị động, phải lo chống đỡ, đối phó nhiều phía, không dám ở yên một chỗ, lúc nào cũng căng thẳng mệt mỏi.
Thấy Thượng hoàng có vẻ hài lòng, Hưng Đạo phấn khởi lắm, bèn trình bày tiếp:
– Điểm cuối cùng “Tầm cơ tứ chiến”. Giặc sa vào thế trận du binh ắt sẽ bị tổn thất đáng kể; dưới sông ta phá thuyền, trên bờ ta đốt trại, nếu chúng tập trung quân thì không thể mở rộng địa bàn đánh chiếm, nếu chúng phân tán sẽ phải lo đối phó với những cuộc tấn công chớp nhoáng của quân và dân ta. Phải triệt đường vận chuyển lương thực của chúng kết hợp với việc cất giấu cho kỹ lương thực của ta để chúng khó mà vơ vét. Thiếu cái ăn thì sức không mạnh, đợi sang hè bọn phương Bắc khốn khổ vì nắng nóng, bấy giờ ta sẽ tổng phản công trên các mặt trận. Đấy là lúc huy động đại quân vào trận đánh lớn. Thần cam đoan muộn nhất là giữa mùa hạ, bọn Thoát Hoan sẽ tan vỡ mà tháo chạy về nước.
Vua Nhân Tông hỏi quần thần:
– Hưng Đạo nói giữa hạ sẽ tống cổ Mông Thát, các thanh có tin lời của Tiết chế không?
Ở bên dưới, bảy tám chục gương mặt ưu tú của tinh thần quật cường Đại Việt cùng hô vang như sấm “Chúng thần tin tưởng”. Đám chủ hòa mặt mũi thất thần, cứ dúm dó cả người mà không dám phản ứng gì. Thánh Tông ra hiệu im lặng, ngài nói:
– Nghe các ngươi bày tỏ ý chí, trẫm xúc động lắm. Quả thật, khi mới nhận tin giặc động binh, trẫm cũng hoang mang ghê gớm. Trên đường hồi kinh, trẫm không ít lần trăn trở với Quang Khải về khả năng kháng cự của ta. Lo lắng thế cũng là chuyện bình thường, vì dù mang danh Thượng hoàng nhưng trẫm cũng là con người như các thanh nên nghe giặc dữ sắp tràn qua thì sao không rùng mình cho được? Xã tắc mấy mươi năm không chiến sự, việc cầm binh đao ra trận khiến người ta lạ lẫm, rồi chưa đánh thì tay đã mỏi, trí đã nản. Trước kia từng có đám nổi loạn, nhưng chỉ là lũ giặc có sách nhiễu, đánh chúng dễ như việc xua ong, đập kiến. Chiến tranh với Thát thì khác, chúng là bầy lang sói đã diệt nhiều nước bằng sức mạnh hung bạo chưa từng thấy xưa nay. Nhưng lúc nghĩ đến cơ nghiệp Đông A, nhớ đến việc năm xưa theo tiên đế đuổi Thát, lòng trẫm cũng bớt xáo động hơn, rồi nghe các khanh tranh luận nãy giờ, trẫm càng vững tâm hơn nữa bởi tin rằng có bầy tôi giúp vua khắc chế đại nạn này.
Quần thần cảm kích hô vang “Chúng thần nguyện theo nhị hoàng đánh thắng Mông Thát”. Hưng Đạo và Quang Khải hưng phấn quá, hai vương nắm chặt tay nhau như truyền thêm niềm tin quyết chiến. Nhân Tông dõng dạc ban lệnh:
– Không bàn cãi gì nữa. Chúng ta sẽ đánh. Tướng sĩ cứ theo quyết sách của Hưng Đạo mà đánh. Các khanh cho mời bô lão Ở mọi miền về kinh, vì các cụ tuổi cao sức yếu, đường sá xa xôi nên ta định hạn từ mười đến mười hai ngày nữa sẽ tổ chức hội nghị tại điện Diên Hồng. Các sảnh, viện đóng gói thư tịch, văn khố và giấy tờ quan trọng, khi có lệnh sẽ chuyển đi. Ngân khố và kho tàng giao cho Thái sư Chiêu Minh tổ chức cất giấu. Chấn chỉnh hành cung Tức Mặc để chuẩn bị di dời. Kể từ bây giờ ai còn tỏ ý muốn hàng sẽ trừng trị theo quốc pháp. Sớm mai Hưng Đạo cho họp quân cơ để bàn kế điều binh, trẫm và Thượng hoàng sẽ tới dự.
Mọi người ra về khi trời đã ngả chiều. Phạm Ngũ Lão cũng dự nghị đình nhưng chỉ là tướng nhỏ nên không dám phát biểu gì. Lúc nghe Hưng Đạo nói về người đưa tin bị tử trận trên biên giới, làm ông rất lo lắng về tính mạng của đứa cháu Phạm Thái. Tan buổi chầu, Ngũ Lão đứng chờ để gặp cho được cha vợ. Khi nhìn thấy chàng rể, Vương nói ngay “Thằng cháu nhà ngươi bị thương khá nặng nhưng còn sống. Hắn kiên cường lắm khiến ta cũng cảm phục. Ngươi về từ biệt vợ con, mai họp xong sẽ cầm quân lên biên ải”.
Trong buổi họp với nhị hoàng, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái nhận trọng trách chỉ huy một vạn quân lên trấn giữ Khả Lan Vi và Đại Trợ trên vùng biên giới xứ Lạng Giang, Hưng Đạo Vương cùng ba người con trai trực tiếp lên đông bắc lập phòng tuyến chống giặc.^?️[^236-img]
Trần Khánh Dư lĩnh hai trăm chiến thuyền ra trấn thủ Vân Đồn. Điều vệ quân Thần Sách vào Diễn Châu tăng cường cho lực lượng của Tĩnh Quốc Vương. Thái sư Chiêu Minh Vương đốc thúc hai vạn quân trấn giữ kinh thành và tổ chức di dời kho tàng, ngân khố.
Thượng tuần tháng mười một, vua triệu tập hội nghị Diên Hồng, kinh thành Thăng Long nhộn nhịp hẳn lên sau nhiều ngày u uẩn bởi hơi hám chiến tranh đè nặng trên đầu mọi giai tầng xã hội.
Một bộ phận quan lại và dân chúng trước đó đã nhanh chân trời khỏi cái chốn có nguy cơ là tâm điểm của bão tố. Nhưng số đông vẫn ở lại, trong tâm trạng phập phồng lo âu và thấp thỏm nghe ngóng. Cũng không có gì khó hiểu, họa chiến tranh dẫu ghê gớm thật song việc bỏ lại nhà cửa, cơ nghiệp mà lánh nạn chưa hề là một quyết định dễ dàng đối với những con người dành cả cuộc đời vun vén cho cuộc sống, đắp điếm được một chỗ dung thân vừa ý. Thế nên nhiều người đành tính một nước cờ linh động, gói ghém sẵn tư trang vào tay nải, khi giặc sắp đến là nhanh chóng bôn tẩu.
Mấy ngày trước sứ bộ Trần Phủ đã về tới kinh, tin giặc lùi ngày tiến binh sang đầu tháng chạp được Quan gia và Thái sư bàn tính kỹ càng. Các vị cho rằng chỉ nên chuyển tin đến Tiết chế và một số tướng lĩnh để họ trù liệu, đợi sau hội nghị Diên Hồng mới thông báo rộng rãi. Lúc ấy sẽ ban lệnh rời kinh, quan viên nha lại và hậu cung đi trước, hai vua ở lại để chỉ đạo cuộc chiến dưới sự bảo vệ của cấm quân và hơn một vạn vệ quân; các ngài sẽ ra đi khi tình thế nguy cấp. Khuyến cáo toàn bộ dân chúng di tản, để khi giặc kéo vào, Thăng Long chỉ còn là một tòa thành trống vắng.
Cái ngày mở hội nghị, tự nhiên bầu trời hửng nắng giữa mùa động tái dại, đây quả là điềm ứng tốt lành của trời đất về một vận hội trùng phùng xưa nay chẳng hề có. Khắp mọi nẻo đường đến kinh đô, hàng đoàn người đổ về như trẩy lễ đầu năm. Người ở gần thì cuốc bộ, người ở xa thì ngồi ngựa, ngồi xe, từ xe ngựa cho đến xe bò, xe trâu đều có cả. Đoàn nào, nhóm nào cũng đủ mặt già trẻ và dăm anh lính tháp tùng. Các cụ ông mặc bộ cánh đẹp nhất, mái đầu bạc phơ và chiếc gậy trúc bóng là làm tôn thêm vị thế của bậc trưởng lão trong đoàn người. Có cụ từ miền Trung ra, có cụ từ phía bắc đến, người dưới biển lên, người trên núi xuống, sắc nâu roi rói, sắc chàm đậm đà, miệng tóp tép nhai trầu, tay đủng đỉnh tràng hạt, tất cả cùng thư thái hướng về nơi chí tôn đang chờ đón.
Theo lệnh vua, các lộ phải cử lính hộ tống bô lão về kinh sao cho bình an vô sự. Nhưng một cụ được mời thì có đến mười người đi theo, đấy là đám con cháu, xóm giềng và họ mạc. Người ta đi chẳng phải hy vọng được vào dự họp mà đi để cổ vũ và bày tỏ sự đồng lòng nhất trí của làng mình, của dòng họ mình đối với ý chí của bô lão đại diện cho họ Ở chốn cửu trùng. Thấy làng kia đi đông thì làng này muốn đi đông hơn, thế là cái hiệu ứng dắt dây ấy cứ tăng dần lên theo cự ly càng gần càng đông đảo, thành thử kinh thành Thăng Long đột nhiên có non vạn người từ bốn phương quần tụ như vào hội lớn.
Nỗi lo buồn chiến tranh cũng tự nhiên mà vơi bớt đi để nhường chỗ cho niềm vui trước mắt. Dân chúng các phường vốn nhiều ngày ủ rũ bỗng tươi tỉnh lại mà ùa ra của chào đón và trẩy theo đoàn người tiến về hoàng thành. Hơn năm trăm bô lão được mời vào trong, những người đi theo và cư dân Thăng Long tụ tập bên ngoài háo hức đợi chờ kết quả nghị đàm quốc sự của quân dânº.
Trong hai cụ ở phường Cơ Xá được với dự họp, một người là ông thầy họ Đỗ. Theo tuổi tác, tuy đã ngót nghét lục tuần nhưng ông vẫn kém năm nhiều kỳ lão trong phường, song là người đáng kính lại có con tham gia túc vệ nên ông được mọi người nhất trí đề cử.
Đã hơn tháng nay, vợ chồng ông đồ mất ăn mất ngủ bởi lo nghĩ về cậu con trai. Theo hẹn ước thì tháng chín Thành sẽ cưới vợ, nay đã sang tháng mười một mà nó vẫn biền biệt không về. Nhà bà góa qua thăm hỏi thường xuyên nhưng đôi bên chẳng biết nói gì ngoài những lời an ủi qua lại. Mỗi lần nhìn khuôn mặt u sầu của Thị Đào là một lần lòng ông bà quặn thắt, bởi họ hiểu hơn ai hết nỗi chua xót của sự đợi chờ. Thế rồi dội tới tin tức chiến tranh khiến tâm trạng của hai người bị xáo trộn giữa niềm vui vẩn vơ và nỗi buồn thực tại. Khi ông cho rằng con mình chắc không sao, vì nó bận việc binh nên chưa thể về thì miệng bà chực cười, rồi lúc bà lo giặc giã, lo ngày mai con phải ra trận thì lòng ông muốn nhỏ lệ.
Thức dậy từ lúc trời chưa sáng để soạn sửa cho chỉnh tề, thầy đồ tạm gác nỗi lo về con trai mà hãnh diện mặc bộ gấm hoa vốn được may sẵn dành cho dịp đám cưới Đỗ Thành, ông tự nhủ “Nằm mơ cũng chẳng ngỡ được vào chầu vua. Vậy mà có thật, hãnh diện quá đi chứ. Dứt khoát phải để vua biết người Cơ Xá không đớn hèn trước giặc Mông Thát”. Nhị lão của phường có tới hơn năm mươi người hộ tống, về phía nhà thầy đồ tất nhiên có mặt bà vợ và nàng dâu tương lai. Ngoài niềm kiêu hãnh đưa chồng, cha lên kinh châu vua, hai người phụ nữ còn hy vọng biết đâu hỏi han được tin tức của người thân đang phụng sự triều đình.
Điện Diên Hồng nằm ở phía đông hoàng thành, vốn là nơi nhà vua tổ chức yến tiệc nhân các sự kiện trọng đại. Để bày tỏ tấm lòng trọng thị “dân vi quý” đối với bách tính, Thượng hoàng Thánh tông cho bày yến để thiết đãi phụ lão. Do số người đông, trong điện không đủ chứa nên phải kê bàn ghế ngoài sân bày biện tiệc tùng, tiện cho các cụ ngồi dùng bữa thoải mái. Mâm cỗ không cao lương mĩ vị, nhưng có các món ăn dân dã được chế biến từ gia súc, gia cầm quen thuộc và các loại bánh trái, xôi chè truyền thống.
Trước giờ thiết yến, Quan gia nói với Thượng hoàng:
– Con nghe thị vệ báo, dân chúng tụ tập ngoài hoàng thành đông lắm, người tứ xứ kéo về để bày tỏ tinh thần kiên cường trước quốc nạn.
Thượng hoàng vui vẻ đáp:
– Đây là điều đáng mừng, lòng dân quyết tâm đánh giặc thì ta còn sợ gì lũ phương Bắc.
Nhân Tông gợi ý:
– Theo con, phụ hoàng phải chủ trì hôm nay, tuổi của người trò chuyện với bô lão sẽ phù hợp hơn hoàng nhi.
Thánh Tông cười mà rằng:
– Ta biết ngay mà, thể nào bệ hạ cũng vin vào tuổi tác để đùn đẩy công việc cho ông bố đã quy điền viên cư. Theo lý ngài là chủ thiên hạ thì phải gánh việc này, nhưng theo tình thì quả là cha hợp tuổi hơn. Nhưng dứt khoát ngài phải có tiếng nói quyết định đấy nhé.
Nhân Tông hồ hởi thưa:
– Bẩm phụ hoàng, con xin vâng.
Toàn thể phụ lão đã yên vị trên ghế tiệc, chỉ còn chờ các bậc chí tôn đến khai yến. Đầu giờ ty, kiệu vua xuất hiện trước sân, đằng sau có vài chục quan viên tháp tùng. Viên thị thần cất tiếng hô lanh lảnh “Nhị hoàng giá đáo. Trăm họ lạy mừng”. Hai vua bước xuống kiệu, cùng bá quan tiến vào sân. Các bô lão vội vàng nhôm dậy, loay hoay tìm chỗ quỳ nhưng chật chội quá nên đành đứng yên một chỗ mà chắp tay xưng tụng đế vương “Thượng hoàng vạn vạn tuế. Hoàng thượng vạn vạn tuế”.
Thánh Tông mời mọi người an tọa rồi ngài tỏ lễ:
– Hôm nay trẫm và hoàng thượng được hân hạnh đón chào trưởng lão trăm họ vào cung để quân dân tỏ bày với nhau về việc nước. Lòng thành sâu rộng mà sự tiếp đãi chẳng được là bao, chỉ có bữa yến đơn sơ thiết tặng, coi như là món quà cảm tạ chân tình của các cụ đã không quản ngại tuổi tác mà lặn lội đến kinh thành để đáp ứng thỉnh cầu của trẫm. Bây giờ xin mời mọi người tự nhiên ăn uống cho vui vẻ.
Mấy trăm cụ già đồng thanh hô vang “Chúng dân đa tạ long ân”. Nhị hoàng cùng bá quan tỏa ra các bàn ân cần mời mọc và thăm hỏi xã giao. Lát sau vua quan tế nhị lui vào điện để các cụ dùng bữa cho thoải mái. Bên trong điện trải chiếu hoa, duy có hai chiếc ghế dành cho Thượng hoàng và Quan gia, nhưng cũng chỉ là loại ghế bình thường để quân dân không quá xa cách.?
Nửa canh giờ sau, các cụ lục tục vào điện ngồi kín dưới sàn. Ở phía trên, hai vua ngồi ghế, các quan chia nhau đứng hầu tả hữu, trong số ấy có Thái sư Trần Quang Khải, Học Sĩ Đinh Củng Viên và Quốc sử Viện giám tu Lê Văn Hưu. Khi cử tọa đã ổn định, Thượng hoàng Thánh Tông cất giọng trầm buồn tỏ bày sau trước:
– Giặc Mông Thát sắp kéo vào nước ta, xã tắc ắt nổi chìm hưng phế. Chúng huy động tới năm mươi vạn quân, trong khi lực lượng của ta nhỏ yếu hơn hẳn, nếu đánh chúng phải hao tổn máu sông xương núi. Muốn giặc hoãn binh thì chúng ta phải hòa, nói rõ hơn là chấp nhận đầu hàng. Bấy giờ Nguyên triều sẽ cử người sang cai trị, nước Đại Việt chẳng còn, triều đình Đại Việt thành một đám tượng đất không thể cử tay nhấc chân mà làm điều lợi dân ích nước, thuế phải nộp cho chúng hằng năm, quân phải theo chúng đi chinh chiến xứ khác, vua phải sang kinh đô giặc mà quỳ mọp cầu cạnh, thợ giỏi bị đưa về Nguyên để phục dịch, đàn bà đẹp bị ép làm tì thiếp ở phủ đệ ngoại tộc. Thế nước chông chênh, lòng người chia rẽ, kẻ yếu mềm muốn hòa cho yên thân, người dũng khí muốn đánh cho đỡ uất, khiến trẫm và hoàng thượng nhiều ngày lo nghĩ mà nước mắt chan cơm, buồn tủi cho thân phận không có nổi lũ bầy tôi đồng tâm phò chúa, còn hổ thẹn với tổ tông đã gửi gắm cơ đồ mà nay để nó nghiêng ngả ba đào khi thần dân chưa nỗ lực giúp trẫm giữ gìn cho yên định...
Nói đến đấy, Thượng hoàng rưng rưng khóe mắt rồi thản nhiên khóc như ở chỗ không người. Hoàng thượng ngồi bên cạnh cũng sụt sịt giọt ngắn giọt dài. Các quan cùng đồng loạt nức nở. Giọt ngọc đế vương cao quý lắm, làm không ít phụ lão răng long đầu bạc bỗng bùi ngùi cảm xúc mà tuôn chảy những giọt lệ hiếm hoi. Chợt Thượng hoàng ngừng khóc, ngài dùng tay áo gấm vô tư quệt nước mắt, nói tiếp:
– Các bô lão là bậc trưởng bối trong tộc, trong làng, vốn từng trải nhân tình thế thái, lại được con cháu tín nhiệm đề cử thay mặt họ đến gặp vua mà cho lời khuyên về việc nước. Vậy hãy cho trẫm và hoàng thượng được nghe tiếng nói của thần dân các miền về cách đối phó với giặc Mông Thát?
Nhiều cánh tay giơ lên, ai cũng muốn tỏ bày tâm nguyện tới nhị vị chúa tể giang sơn. Nhân Tông đề nghị một bô lão già nhất ngồi ở chiếu đầu trình bày trước. Cụ già chống gậy trúc lập cập đứng dậy, hướng mặt về phía các vua, rồi lên tiếng:
– Lão người Ái Châu, đi mất sáu ngày mới ra tới kinh thành. Ngoài bảy mươi rồi mà vẫn cố sức ra đây bái kiến bệ hạ, chẳng qua được cả làng truyền cho cái tinh thần bền bỉ vượt gian khó. Nhiều cụ ở xa hơn lão, vậy cũng đến kinh thành rồi thôi. Nếu sợ không đủ sức đi xa thì làm sao có mặt ở đây được. Việc đánh giặc cũng thế, dù ta yếu hơn nhưng chí ta cao, lòng ta bền thì há lại sợ chúng? Lúc lên đường, mọi người dặn lão nói với vua “Thần dân không chấp nhận quỳ gối đầu hàng. Nhà vua hãy hiệu triệu đánh giặc, dân chúng sẽ sát cánh bên người”.
Ông nói rồi, tay vuốt chòm râu bạc phơ, đôi mắt mở trừng trừng như muốn chứng tỏ dũng khí được kết tụ từ tinh thần của con cháu. Các cụ ào ào hưởng ứng, cùng đồng thanh hô to “Xin vua hiệu triệu đánh giặc, thần dân luôn sẵn sàng”.
Một cụ khác bày tỏ:
– Lão từ Thiên Trường về đây, đi qua đâu cũng được mọi người cổ vũ nhiệt tình, họ bảo rằng dân ta chỉ biết có chúa Đông A, không chấp nhận bất cứ kẻ ngoại bang nào khác cai trị. Nhiều trai tráng còn giơ cánh tay thích chữ “Sát Thát” để chứng tỏ tinh thần quyết chiến. Vậy mà có những kẻ ăn lộc vua cả đời lại muốn hàng giặc? Lão đề nghị bệ hạ phải thẳng tay trừng trị để yên lòng dân.
Đám đông bô lão lại nhao nhao phụ họa, họ khản giọng hô vang “Dân chúng chỉ biết vua Đông A, quyết không chấp nhận ngoại bang thống trị”. Ông thầy đồ phường Cơ Xá cũng hừng hực khí thế nhưng chưa biết làm sao bày tỏ được ý chí của mình; chợt nhớ đến đứa con đang biền biệt chưa về, ông thấy mình mạnh mẽ hẳn lên, liền đứng vụt dậy nói lớn “Thảo dân có con trai dưới trướng Hưng Đạo Vương, được cử sang đất giặc thám thính, nay vẫn chưa biết sống chết ra sao? Xin hoàng thượng cho lão được nói đôi lời”. Nhà vua nghe thấy bèn ra hiệu cho mọi người im lặng. Ông thầy lên tiếng:
– Nhà lão ở Cơ Xá, cách kinh thành có mấy dặm. Con trai lão được Hưng Đạo Vương sai sang Nguyên từ năm năm trước để dò la địch tình. Được về thăm nhà một lần, nó chẳng kịp cưới vợ đã phải lên đường. Nó hẹn thu này về làm đám cưới, nhưng đến giờ vẫn biệt tích. Nếu Đại Việt đầu hàng thì hóa ra con của lão dân đã uổng phí công sức lâu nay sao? Ở đây có nhiều bộ lão từng theo Thái Tông hoàng đế đánh Thát, ai cũng thuộc làu câu thơ của bệ hạ “Bạch đầu quân sĩ tại. Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”. Vậy mong các vua hãy cùng chúng dân giữ vững tinh thần oanh liệt ấy.
Mấy trăm bô lão hô to ba lần câu thơ bất diệt “Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”. Vua Nhân Tông cảm kích lắm, ngài không ngờ bài thơ của mình được dân gian lưu truyền rộng rãi.
Không kìm được chí khí sôi sục trong tim, nhà vua bật dậy khỏi ghế, tiến đ?