← Quay lại trang sách

Chương 7 Tang chứng phản nghịch, Chiêu Quốc xa chạy cao bay
Kỷ vật trọn tình, Phạm Thái lạy cha kính mẹ

Hai ngày sau hội nghị Diên Hồng, hoàng thượng phát lệnh di tản. Các sở, viện được dời tạm về hành cung Tức Mặc, nếu tình hình biến động xấu thì sẽ vào vùng núi Gia Viễn mà ẩn nấp. Văn thần, nha lại cũng đi hết, người già yếu thì cho cáo quan về quê nương náu, người trẻ khỏe thì tháp tùng sở, viện hoặc phân về các lộ quân và vệ quân làm tham mưu cho tướng soái chỉ huy.

Hai trăm quân túc vệ hộ tống hơn ba trăm người ở hậu cung, gồm thái hậu, phi tần, ấu chúa, cung nữ và hoạn quan cùng với nhiều xe chở đồ quý rời kinh thành trong đêm, nhắm hướng tây mà đi. Nơi họ đến, ngoài các vua, không ai được biết. Mãi sau này khi tàn chiến sự, người ta mới biết hậu cung đến tị nạn tại huyện Đông Lai, trấn Thiên Quanh, thuộc vùng núi đồi heo hút ở miền tây nam của lãnh thổ Đại Việt.

Bảo Thánh hoàng hậu và công chúa An Tư ở lại, sẽ đi sau với các vua. Hoàng hậu là mẫu nghi thiên hạ, việc bà sát cánh bên Nhân Tông hoàng đế là điều đáng làm, nên được quần thần rất cảm phục. Còn chuyện An Tư công chúa không di tản cùng hậu cung mà nhất mực theo hai vua lại bắt nguồn từ nguyên do khác.

Sở dĩ mấy ngày trước công chúa bị cảm mạo, sức khỏe suy giảm nhiều, nên Thượng hoàng chấp nhận cho ở lại tĩnh dưỡng, khi nào bình phục sẽ phải người hộ tống đến nơi hậu cung ẩn náu. Hai tì nữ là Thu Cúc và Xuân Đào được chỉ định chăm nom cho An Tư công chúa. Vì bộn bề việc nước, đến bảy ngày sau Thượng hoàng mới nhớ tới cô em gái xuân xanh còn ở trong cung, ngài vội vàng ghé qua xem xét. Chưa vào tới cửa đã nghe được tiếng cười đùa vui vẻ, Thánh Tông biết An Tư đã hết bệnh. Nhìn thấy em, ngài nói:

– Muội tươi tỉnh thế kia chắc là khỏe rồi, vậy mai lên đường cho sớm sủa nhé.

An Tư hồn nhiên đáp:

– Muội không theo hậu cung đâu, buồn lắm. Cho muội đi với hoàng huynh được không?

Thượng hoàng nghiêm giọng từ chối:

– Không được. Huynh phải ra trận, muội theo làm gì? Chiến tranh không phải việc của đàn bà con gái, muội cứ đến chỗ hậu cung ẩn náu cho an lành.

An Tư cự lại:

– Bà Trưng, Bà Triệu cũng là đàn bà mà còn lãnh đạo nam nhi đánh giặc, như vậy không thể nói chỉ có đàn ông mới biết đánh giặc. Cho muội theo với, biết đâu có lúc muội lại giúp được hoàng huynh.

Nhìn bộ mặt thiết tha của An Tư, Thánh Tông không nỡ cứng nhắc, nên bảo:

– Theo huynh cũng được, nhưng mai mốt khổ cực thì đừng kêu ca đấy.

Công chúa cười vang:

– Đa tạ hoàng huynh. Dứt khoát không kêu ca.

Bấy giờ An Tư Công chúa 17 tuổi, tư chất thông minh, dung mạo nhỏ nhắn xinh đẹp, được Thánh Tông rất chiều chuộng và yêu quý; trong thâm tâm ngài đã nhắm cho cô em một tấm chồng tôn thất bậc vương, nhưng vì chiến cuộc sắp bùng nổ nên đành phải gác lại chuyện hôn sự. Hồi sinh tiền, Thượng hoàng Thái Tông thường bảo “An Tư là đứa trẻ đặc biệt, nó có cách nghĩ sâu sắc hơn hẳn những bé gái đồng lứa, mai sau sẽ làm nên chuyện. Con nhớ chu toàn cho nó đến nơi đến chốn”. Lúc phụ thân bằng hà, An Tư mới chín tuổi, nàng công chúa bé bỏng lớn lên trong sự đùm bọc của Thánh Tông và hoàng gia.

Hai ả hầu gái nghe huynh muội Thượng hoàng trò chuyện mà ngao ngán cả lòng; Thu Cúc nói thầm với cô kia “Chẳng hiểu công chúa nghĩ sao mà đòi theo Thượng hoàng ra trận? Khốn khổ cho tụi mình rồi”. Xuân Đào đáp “Biết làm sao được? Phận là nữ tì, chủ đi đâu thì mình theo hầu đấy. Cái số nó như vậy, muốn tránh cũng chẳng nổi”.

Tướng quân Phạm Ngũ Lão từ biên cương cấp báo về triều đình, sớ viết “... Có viên tiểu tướng họ Trịnh dẫn theo năm mươi quân đến hàng, chúng vốn nội thuộc cựu triều, vì hận Nguyên Liệt Tống mà sinh lòng oán thán, muốn đầu quân Đại Việt để trả mối thù cố quốc; chúng có cho biết: tướng Nguyên là A Lý Hải Nha thống lĩnh hai mươi vạn quân đã áp sát biên giới nước Nam, chờ thời cơ ào ạt đánh sang...”.

Kịp lúc Hưng Đạo Vương từ đông bắc quay về kinh, Nhân Tông cho gọi ngài và Thái sư đến để bàn cách đối phó. Hưng Đạo nói:

– Như vậy là giặc đề phòng mắc mưu Trần Phủ nên điều quân đến biên giới để tránh bị động. Theo ý thần cần cử người qua đất giặc và trách móc chúng thất hứa, hy vọng trì hoãn thêm ít ngày.

Chiều Minh Vương đề nghị:

– Thần đề cử Trung đại phu Nguyễn Đức Dư và Triều thỉnh lang Nguyễn Văn Hàn khẩn cấp sang Nguyên.

Nhân Tông đồng ý, cho triệu hồi hai người vào cung sai việc.

Nhị vị sứ thần qua Lộc Châu chừng năm mươi dặm đã đến bản doanh của A Lý Hải Nha. Như vậy, nếu giặc tiến đánh thì chỉ nửa ngày đường là kị binh của chúng sẽ có mặt trên lãnh thổ Đại Việt. Nguyễn Đức Dự trách viên Bình chương:

– Hai bên giao ước sẽ nghị đàm vào đầu tháng chạp, từ nay đến đấy còn những mười lăm ngày mà đại vương của ngài đã điều binh rần rần áp sát nước tôi. Có phải các ngài không muốn thương nghị cho dù vua tôi đã nhân nhượng, mà chỉ muốn kéo vào thảo phạt nước Nam?

A Lý Hải Nha chống chế:

– Ta được lệnh Trấn Nam Vương điều quân đến đây để sau nghị đàm sẽ mượn đường đánh Chiêm Thành, không phải đánh An Nam.

Nguyễn Văn Hàn nói:

– Chúng tôi đã giải thích nhiều lần rồi, muốn đánh Chiêm Thành mà qua nước tôi thì không tiện vì không có đường để đi, vừa xa xôi lại bị ngăn cách nhiều núi, nhiều sông. Các ngài đã đem quân vào Chiêm Thành bằng đường biển, sao lần này không ra biển mà đi?

A Lý Hải Nha bí thế bèn vặn lại:

– Thân là tướng võ chỉ biết tuân lệnh thượng cấp. Bên các người cũng điều mấy vạn quân lên trấn giữ biên giới, nếu không có ý định chống lại thiên triều thì tại sao phải dàn quân lắm thế?

Nguyễn Đức Dư lý giải:

– Biên giới là chỗ phức tạp, cần yên định trước rồi mới có thể tổ chức nghị đàm. Thêm nữa, sắp tới đến kỳ nộp cống, phải đưa đinh lực lên để vận chuyển cống phẩm chứ.

Cách biện bạch của sứ ta khiến A Lý Hải Nha không thể bắt bẻ, đành giở chiêu nổi quạu:

– Thôi thôi, ta không giỏi cãi lý như mấy người. Chỉ biết đến đầu tháng chạp, nếu không giãn binh để ta mượn đường thì đại quân thiên triều sẽ kéo sang nhổ sạch cỏ An Nam.

Vừa từ kinh thành quay về Nội Bàng là nơi Hưng Đạo Vương lập đại bản doanh phòng thủ, thì ngài nhận được tin của Phiêu kỵ đại tướng quân Trần Khánh Dư từ Vân Đồn cấp báo về việc bắt giữ gian tế. Trong thư, Nhân Huệ viết “...quân tuần tiễu phát hiện một thuyền nhỏ chở ba người đang cố vượt sang Nguyên, bèn truy đuổi. Bị bao vây không có đường tiến, chúng phải đổi hướng chạy vào đất liền, bỏ thuyền lẩn trốn. Quân ta ráo riết tầm nã, bắt được hai tên. Lúc đầu chúng không chịu khai báo, tại hạ cho lột truồng kiểm tra y phục thì tìm được một thư giấu trong hai lớp vải tà áo, bấy giờ chúng mới nhận tội là kẻ đưa tin cho giặc Nguyên”.

Kèm với lá thư là một manh lụa trắng, có viết “...Trần gia nhất quyết kháng cự, việc nghị đàm chỉ là giảo kế hoãn chinh. Đại Vương hãy cấp cấp điều quân đánh tới để trăm họ sớm được đoàn tụ với nền thái hòa an lạc của vượng khí thiên tử. Ngày ngài lại đáo Thăng Long, Ích Tắc tôi cùng với năm mươi văn quan võ tướng và toàn thể dân chúng sẽ ra khỏi thành mười dặm để lạy mừng. Khi đại quân sang, cần đề phòng các ải và chiến lũy do đầu lĩnh Quốc Tuấn bày đặt mai phục; việc tổ chức vây bắt thế tử, tôi sẽ đích thân dẫn đường, vì những chỗ cha con y có thể ẩn náu, tôi đều nắm rõ như lòng bàn tay..”.

Quân của Trần Khánh Dư bắt được hai kẻ gian vượt biển chạy sang Nguyên.?️

Đọc xong mật thư, Hưng Đạo Vương giận tím mặt, ngài lầm rầm rủa xả một thôi một hồi “Quân phản nghịch chó má” rồi cho triệu tướng lĩnh vào sai việc. Khi mọi người đến đông đủ, Vương truyền:

– Minh Hiến Vương Uất phòng giữ Vĩnh Châu, Hưng Nhượng Vương Tảng trấn thủ Thiết Lược, Hưng Trí Vương Hiện án ngữ Chi Lăng, Hưng Vũ Vương Nghiễn thay ta nắm giữ Nội Bàng. Các tướng lĩnh khác dưới quyền điều động của Hưng Vũ, chia nhau đóng ở những vị trí xung yếu, tạo thế ỷ giốc giữa các chiến tuyến. Ta có việc phải về kinh gấp, có thể vắng mặt ít ngày. Nếu quân Thát bất ngờ đánh sang, thấy tình thế bất lợi thì đừng cố đánh lấy chết, hãy hội quân về Vạn Kiếp chờ ta.

Vương lại sai Nguyễn Hòa gấp rút qua phủ đệ Vạn Kiếp điều động tì tướng Lương Bình và Tuấn Thọ dẫn theo ba trăm chiến binh khẩn cấp lên Long thành. Ngay trong đêm, ngài cùng Yết Kiêu, Dã Tượng và năm mươi tùy tùng hối hả thượng kinh.

Khi được Hưng Đạo Vương thông báo về việc Trần Ích Tắc âm mưu bội phản, Chiêu Minh Vương uất lắm, mặt mũi đỏ gay vì giận dữ, chẳng kịp thay lễ phục cho chỉnh tề, mặc nguyên y phục ngày thường rồi tất bật cùng Tiết chế đi gặp các vua. Sở dĩ Hưng Đạo thông qua Thái sư trước vì ngài cho rằng Quang Khải là em ruột Thượng hoàng, chú ruột Quan gia, tiếng nói có trọng lượng hơn mình.

Thượng hoàng đọc xong một thư của Ích Tắc, mặt tái xanh, ngồi thở dài thiểu não mà chẳng nói năng gì. Nhân Tông lựa lời thưa gửi:

– Việc này rất hệ trọng, theo con phải nghiêm trị làm gương. Nhưng mọi cái vẫn tùy phụ hoàng quyết định.

Quang Khải cũng khẩn thiết yêu cầu:

– Xin Thượng hoàng quyết định kịp thời, đêm dài lắm mộng, để lâu càng sinh biến lớn.

Thánh Tông không trả lời, ngài lặng lẽ đi ra cửa, quỳ xuống bậc thềm, ngoảnh mặt về hướng đông, tay chắp trước ngực mà khóc nấc rồi nói lầm rầm. Nhà vua và hai đại vương hoảng hốt, vội theo ra quỳ phía sau Thượng hoàng. Bấy giờ họ mới nghe được lời khấn khứa của ngài:

– Con hướng về nơi phụ hoàng và tiên tổ an nghỉ mà bày tỏ nỗi niềm đau xót như cào da của thịt. Giặc dữ chưa tràn qua mà Ích Tắc đã đem lòng phản nghịch, định bán nước cầu lợi, còn dự tính rước Thát vào kinh để lạy mừng, lại mưu đồ đuổi cùng giết tận anh và cháu của y. Cha từng di huấn chớ phế bỏ ruột thịt, cho dù là ngón tay út vô dụng, nhưng nay các ngón út đã hóa gươm nhọn của giặc, muốn đâm xỉa tan nát cơ đồ của cha, muốn cắt đứt dòng máu chính thống của đế nghiệp Đông A. Y đã trở thành kẻ đại nghịch trong nhà, tên phản loạn trong nước, để trừ hậu họa cho giang sơn xã tắc, con đành cắn răng mà cãi lời cha chặt bỏ cho rồi cái phần xương thịt thối rữa. Một mai non nước thái hòa, con sẽ mặc áo gai, để đầu trần, đi chân đất từ kinh thành về Chiêu Lăng mà tạ tội trước vong linh phụ hoàng.

Bày tỏ rồi, như cất được gánh nặng trong lòng, Thánh Tông thản nhiên đứng dậy, truyền lệnh cho các vương:

– Quang Khải và Quốc Tuấn nghe đây: hai người khẩn cấp đem quân đến thái ấp của Ích Tắc, gông cổ hắn về kinh trị tội. Gia quyến cũng bắt hết nhưng không được tự tiện giết chóc.

Nhị vị đại vương cùng đáp “Hạ thần tuân lệnh” rồi bái biệt Thượng hoàng và Quan gia, vội vã lui ra ngoài thi hành công vụ. Chiêu Minh tranh thủ dặn dò Hưng Đạo:

– Hẹn huynh ở cổng thành phía tây, ta đi điều động vài trăm vệ binh, nửa canh giờ sau sẽ có mặt.

Hưng Đạo đáp:

– Không cần đâu. Quân đã chờ sẵn ngoài hoàng thành. Ta phải đi gấp kẻo hỏng việc.

Chiêu Minh ngạc nhiên nhìn Hưng Đạo, ngài có vẻ thán phục sự nhanh nhạy của Tiết chế Đại vương. Sở dĩ Hưng Đạo phái kị binh chầu chực sẵn, để khi Thượng hoàng chuẩn thuận là hành động liền, vì ngài lo lắng việc một tên gian tế chạy thoát, nếu ra tay chậm trễ có thể thất bại. Các phủ đệ vương hầu đều có gia binh, vương cho rằng nếu quân của Ích Tắc kháng cự lại thì lực lượng vệ binh thiện chiến của ngài thừa sức triệt hạ.

Vừa ra khỏi cửa hoàng thành, các vương đã thấy đội kị mã của Lương Bình và Tuấn Thọ cùng với năm mươi tùy tùng của Hưng Đạo chỉnh tề trên yên ngựa đợi chủ. Trời đổ mưa nặng hạt, hơn ba trăm chiến mã bất chấp mưa gió lạnh lùng phi nước đại về phủ Đông Đô cách kinh thành không đầy ba mươi dặm, nơi có thái ấp của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.

Nhìn từ xa thấy tòa phủ đệ lặng ngắt như tờ, Hưng Đạo Vương đã có phần nghi ngại. Quả vậy, khi đoàn chiến mã ập vào sân, hai vương biết ngay kế hoạch vây bắt phản nghịch đã thất bại. Trong phủ không có người, ngoài một lão bộc đang thu dọn đồ đạc vương vãi khắp nơi. Có lẽ biết tình thế nguy cấp, gia quyến Ích Tắc cuống quýt nhặt nhạnh được một ít vật dụng quý giá, còn bỏ lại hết để kịp thời đào tẩu.

Được Thái sư kêu lại tra xét, lão bộc trần tình:

– Đêm qua có người ở xa về nằng nặc đòi gặp Chiêu Quốc Vương. Sáng nay ngài tập trung tôi tớ trong nhà, phát ngân lượng rồi bảo về quê mà lánh nạn. Sau đấy cả nhà cùng với đoàn gia binh vội vã Tời trang trại, vương chẳng nói đi đâu, chỉ kịp dặn lão “Trông nom nhà cửa, chờ ta về”.

Hưng Đạo hỏi:

– Họ đi bao lâu rồi, có bao nhiêu người, mấy xe, mấy ngựa, đi về hướng nào?

Lão bộc đáp:

– Đi hai canh giờ trước, già trẻ trong nhà khoảng năm chục vị, môn khách và tùy tùng chừng bảy chục người, đàn bà và trẻ nít lên ba chiếc xe, số còn lại cưỡi ngựa. Mắt lão kèm nhèm chỉ nhìn tới mấy lùm cây ngoài cổng, nên cũng không rõ họ đi về hướng nào.

Biết chẳng thể nắm được thông tin gì hơn từ lão nô bộc già của Ích Tắc, Hưng Đạo bàn bạc với Chiêu Minh chia quân làm hai hướng tầm nã quanh vùng. Một canh giờ sau, không phát hiện được tung tích bọn tại đào, cả hai toán quân đành bỏ cuộc, thất thểu quay về kinh thành. Trận mưa tai quái đã xóa sạch dấu vết ngựa, xe của bầu đoàn bôn tẩu vong nô.

Lúc hay tin Nguyễn Hòa theo lệnh Đại Vương về thái ấp điều động ba trăm quân kị gấp gáp thượng kinh, Phạm Thái đến gặp Lương Bành năn nỉ xin tham gia. Được tĩnh dưỡng nhiều ngày, sức khỏe của chàng bình phục tốt, duy chỗ bả vai bị trúng tên còn để lại di chứng, mỗi lần cử động cánh tay xương khớp vẫn đau nhức. Lương Bành biết tình trạng của Thái nên bảo:

– Đệ xoay thử cánh tay cho huynh xem nào?

Thái nghĩ đội trưởng muốn kiếm cớ từ chối, nên cố nghiến răng mà vận động bàn tay cầm dây cương, nhưng khuôn mặt vã mồ hôi đã tố giác sự đau đớn.

Bành nói:

– Đại Vương dặn phải mang cho đủ vũ khí đề phòng xung đột, tay đệ chưa lành hẳn, làm sao đánh nhau? Thái ấp đâu có thiếu người, đệ không cần phải đi.

Bấy giờ Phạm Thái mới tỏ bày nỗi lòng:

– Đệ xin đi vì một công đôi việc. Ngồi không lâu rồi, thấy mình vô tích sự nên muốn tham gia cùng anh em, rồi tiện dịp qua nhà Đỗ Thành...

Niềm thương cảm trào dâng khiến chàng trai không thể nói gì thêm, trên ngấn mắt đỏ hoe vội đọng lại đôi giọt lệ rưng rức. Lương Bình cũng xa xót trong lòng, thấy mình có lỗi với huynh đệ đã không còn trên cõi đời này, bèn nói:

– Cứ mải lo chiến cuộc nhiều khi thành kẻ vô tâm. Huynh cho đệ theo anh em đến Long thành, nhưng mọi người đi làm công vụ, còn đệ về Cơ Xá.

Lương Bình còn cẩn thận sai cậu em Lô Viên Dụng tháp tùng Phạm Thái, đề phòng xảy chuyện bất trắc. Khi biết tin Thái về thăm cha mẹ Đỗ Thành, chẳng ai bảo ai, anh em lặng lẽ mang quà đến gửi, nhờ chàng thay mặt họ vấn an song thân người đồng đội đã bỏ mình trên biên giới; đôi giày vải, manh lụa trắng, một mẩu sâm bằng đốt ngón tay hoặc cân trà ướp hoa, dù giá trị không cao nhưng tấm lòng thì đầy ăm ắp. Thái rất cảm kích tình huynh đệ dưới mái nhà của Đại Vương, chàng nghĩ “Ở dưới suối vàng, các huynh chắc cũng ngậm cười mãn nguyện mà ra sức phù hộ cho đồng đội trên dương thế”. Lô Viên Dụng vô cùng vui sướng khi được đội trưởng giao phó trách nhiệm giúp đỡ Thái huynh trên đường về kinh. Từ hồi gia nhập đội ngũ vệ binh của Hưng Đạo Vương, Viên Dụng tối ngày luyện tập võ nghệ hoặc làm các việc lặt vặt trong thái ấp, lần đầu tiên cậu được tham gia cưỡi ngựa hành quân đường dài, lần đầu tiên cậu được đến kinh đô Đại Việt.

Đội kị mã phi ngựa suốt đêm, cuối giờ mão đã đến kinh thành. Sở dĩ Phạm Thái theo kịp đồng đội vì dùng tay cầm vũ khí để điều khiển dây cương, chàng tự nhủ “Dứt khoát phải luyện tập cho cánh tay sớm trở lại bình thường, bằng không lại thành kẻ vô dụng”.

Đi ngược đoàn kị binh là dòng người tản cư; ngoài cư dân trong thành, dân chúng những thôn xóm lân cận cũng rời bỏ nhà cửa đi về các vùng quê xa xôi hay rừng núi hẻo lánh để trốn chạy nạn gươm đao tàn sát. Người ta hối hả dìu nhau đi và tất bật gánh nhau chạy, tay nải gọn nhẹ lẫn thúng mủng cồng kềnh, kẻ khiêng lợn hôi hám chen lấn đứa lùa trâu đủng đỉnh, ông hổn hển dắt chó giục giã cháu nhởn nhơ ôm mèo, anh đày tớ phì phò cõng chủ tị nạnh với bà mẹ trẻ ôm con âu yếm, những bước chân rũ rượi, những gương mặt lầm lũi, dòng người như một bầy đoàn phiêu bạt vô định cho dù trong đầu mỗi người đã xác định một nơi chốn để nương náu tạm thời. Thỉnh thoảng đám bộ hành bơ phờ lại dạt sang hai bên nhường đường cho những chiếc xe ngựa chở đầy gia quyến và gia sản của các bậc quyền quý. Đây đó chợt có tiếng trẻ khóc thét vì khát sữa, rồi chốc lát lại im bặt khi cặp môi non đã ngậm vào bầu vú tròn căng của mẹ.

Vào trong thành, đi ngang thị tứ, đoàn kị mã nghe văng vẳng tiếng loa của người quân hiệu “Loa! Loa! Loa! Thừa lệnh Quan gia, triều đình cấp báo: giặc Nguyên hung bạo, sắp sửa tràn qua, dân chúng gần xa, mau mau lánh nạn. Loa! Loa! Loa! Đàn ông trai tráng, sớm sủa tòng quân, diệt lũ bất nhân, phò vua cứu nước”. Thảo nào trong dòng người chạy loạn ít thấy bóng dáng thanh niên; họ đang tíu tít ghi tên nhập ngũ ở chỗ này chỗ kia tại tụ điểm dân cư nội thành.

Cảnh tượng những ông bố bà mẹ, những vợ trẻ con thơ tiễn biệt người thân yêu lên đường chinh chiến dù ở đâu cũng mang sắc thái bịn rịn luyến lưu, song không có nhiều nước mắt. Hình như người ở lại cố nuốt lệ vào trong để kẻ ra đi không nhuốm tâm trạng sầu não mà nhụt chí mềm lòng rồi gục ngã trước kẻ thù Mông Thát bạo ngược.?️

Đội kị binh của Lương Bình – Tuấn Thọ đến cổng hoàng thành đã thấy toán vệ sĩ của Đại Vương Ở đấy, hai đội nhập chung lại thành một đoàn ba trăm năm mươi tráng sĩ sẵn sàng đợi lệnh chủ tướng Phạm Thái và Viên Dụng từ biệt mọi người để về Cơ Xá. Yết Kiêu cùng Dã Tượng chia sẻ “Đệ thay mặt anh em quỳ lạy phụ mẫu của Đỗ Thành để vong hồn của huynh ấy đỡ tủi”. Lương Bành dặn dò “Nếu gia đình Đỗ Thành còn ở đấy, đệ nên khuyên họ lánh nạn. Cơ Xá gần kề kinh thành, không an toàn đâu”.

Trên đường đến Cơ Xá, Thái hỏi cậu em:

– Dụng à. Hình như huynh đã gặp đệ ở đâu đó nhưng không thể nhớ ra.

Viên Dụng tủm tỉm cười, đáp:

– Lúc ấy huynh nửa tỉnh nửa mê làm sao nhớ nổi ai với ai.

Thái sững sờ cả người, vội ghìm cương ngựa, kinh ngạc bảo:

– Thôi đúng rồi. Đệ tham gia đánh Thát ở khe Tả Pạc Nầm. Huynh nghe nói nhiều người đã tử trận hôm ấy, còn có ông trại chủ lấy thân mình che cho huynh nên bị trúng thương. Hết quốc nạn, nếu trời cho được sống thì huynh sẽ lên biên cương cảm tạ ơn cứu mạng.

Viên Dung lưỡng lự một hồi mới nói:

– Ông là cha của đệ. Ba hôm trước đệ nhận được tin nhà, cha đã bình phục, hiện đang ẩn náu trong núi.

Nghe nói vậy, Thái vội nhảy xuống ngựa, kéo Dụng xuống theo, rồi dùng cánh tay lành lặn ôm ngang vai cậu em mà lắc qua lắc lại:

– Cho huynh được đa tạ cha con đệ. Ơn nghĩa này biết lấy gì mà báo đáp đây?

Cậu trai niên thiếu gõ mãi mới thoát khỏi cánh tay rắn chắc của đàn anh, vừa cười vừa nói:

– Đệ biết rồi, nhưng ơn nghĩa chưa thấy đâu chỉ thấy ngạt thở gần chết.

Họ cùng cười sảng khoái mà lòng thì tràn ngập mối giao cảm sâu nặng. Phạm Thái thổ lộ:

– Huynh chịu nhiều ơn nghĩa lắm, báo đáp cả đời cũng chưa chắc trả hết nợ ân tình nhân thế.

Đến phường Cơ Xá, nhìn quang cảnh đìu hiu vắng vẻ, Phạm Thái thấy nghi ngại trong lòng. Chẳng may cha mẹ Đỗ Thành đã tản cư thì lời hứa về thăm song thân và hôn thê của huynh ấy biết bao giờ chàng mới thực hiện được? Thái và cậu em Viên Dụng xuống ngựa, vào mấy nhà ven đường hỏi thăm. Nhưng nhà nào cũng cửa đóng then cài, gọi mãi mà không có ai lên tiếng. Đang lúc phân vân, chưa biết hỏi ai, chợt thấy một cụ ông cũng trên lưng đứa cháu trai bé xíu, tay nắm chạc mũi kéo con bò non sừng mới nhú đang tất tả đi ngược lại, chàng đến gần hỏi nhà của ông thầy đồ họ Đỗ hoặc nhà của Lương Thị Đào. Ông cụ bảo:

– Ta không biết ai là Lương Thị Đào, còn ông đồ thì ai cũng biết. Đi thêm nửa dặm đến ngã ba rẽ trái, gặp căn nhà ngói phía trước trồng mấy bụi mộc cận, đây là nhà của ông đồ.

Thái nói lời cảm tạ, chưa kịp rời đi thì ông cụ đã hỏi:

– Các cậu là thế nào với thầy đồ?

Thái đáp:

– Chúng cháu là huynh đệ đồng ngũ với Đỗ Thành, con trai ông đồ.

Ông cụ nói:

– Mấy hôm trước còn thấy ông ấy. Cả phường đi gần hết rồi. Nghe nói ông đồ chưa chịu đi vì còn chờ tin tức anh con trai. Hôm nay biết được tin con, chắc ông thầy mừng lắm.

Thái lặng người mà không nói được câu nào. Chàng vội vàng quay đi vì không nỡ để ông cụ chưng hửng trước bộ mặt buồn bã của mình. Hai anh em chẳng thiết lên ngựa, cứ lùi lũi mà cuốc bộ trên con đường hiu hắt không một bóng người. Thái ước ao con đường cứ dài mãi để đừng bao giờ phải dừng lại trước một ngôi nhà có những người thương yêu đang ngóng đợi tin lành từ đứa con ruột thịt, nhưng cuối cùng lại đón nhận một sự thật nghiệt ngã...

Song lý trí không chấp nhận cách nghĩ như thế, nó cảnh cáo chàng trai “Chớ trốn chạy trách nhiệm. Ngươi phải đối diện với nỗi đau của người khác”, rồi con tim cũng thất vọng phàn nàn “Quên rồi sao nghĩa tình huynh đệ? Hãy đến và chia sẻ đau thương với gia đình đồng đội”. Thái được tiếp thêm tinh thần, chàng lấy lại dũng khí để dừng bước trước ngôi nhà có mấy bụi mộc cận không trổ hoa vào mùa đông.

Từ bữa ở hội nghị Diên Hồng trở về, ông đồ cứ thấy trong người bứt rứt khó tả, linh tính mách bảo với ông về một điều hệ trọng sẽ đến trong nay mai. Đối với gia đình ông, điều hệ trong lúc này chẳng gì ngoài tin tức của cậu trai cả Đỗ Thành. Lành dữ thế nào thì ông chưa biết, nhưng ông thà biết chắc chắn về số phận con mình, cho dù đấy là điều tồi tệ nhất, còn hơn cứ phập phồng lo nghĩ trong sự mù mịt vô vọng. Thành thử ông bàn với vợ nán lại thêm ít ngày, kéo con nó trở về lại chẳng gặp được ai. Thôn trên xóm dưới đã tản cư lánh nạn tứ xứ rồi, hai cô con gái và đám cháu ngoại của ông bà cũng theo nhà chồng chạy giặc cả rồi, nhưng vợ chồng ông vẫn nhất quyết ở lại chung sống với niềm hy vọng mong manh. Trước lúc ra đi, các con gái đến năn nỉ ông bà đi cùng các cháu, ông từ chối:

– Dù đi đâu mà không biết tin tức của thằng Thành thì cũng chẳng an lòng. Bố mẹ ở thêm dăm bữa, biết đâu lại gặp nó.

Bà mẹ sợ con cháu lo lắng, nên bảo:

– Tài sản trong nhà không có gì quý giá, mẹ gói ghém sẵn hai cái tay nải, khi cần là có thể lên đường bất cứ lúc nào.

Trong thâm tâm ông chẳng sợ không kịp chạy giặc nhưng lại rất ái ngại về sự an toàn của mẹ con bà góa dự định kết thông gia. Họ nói không có quê nào khác để mà đi, lại còn cho rằng ông bà giáo chưa định đi thì mẹ con họ cũng chẳng vội gì mà đi. Ông từng giở chiêu bóng gió về sự háo sắc của bọn Mông Thát, thì được nghe nàng dâu tương lai thổ lộ:

– Con với anh Thành tuy chưa nên vợ thành chồng nhưng đã có lời nguyện ước với nhau. Vì bặt tin anh mà hai bác không thể rời nhà lánh nạn thì thân con bỏ đi sao đành.

Hiểu được nỗi niềm của Thị Đào, ông bà giáo càng cảm thương nhiều hơn người con gái đã nguyền gắn bó thủy chung với con trai của mình. Nên ông cứ trăn trở trong lòng suốt hai ngày nay về cách xử trí làm sao cho đúng lương tâm và trách nhiệm? Điều khiến ông lo sợ nhất chính là thân phận nữ nhi thời loạn, lời ông cảnh tỉnh Đào không hề vô căn cứ, sử sách chép đầy rẫy hành vi cưỡng bức của kẻ xâm chiếm đối với phụ nữ có nhan sắc ở xứ sở bị chiếm. Dứt khoát không để điều xấu xa như thế xảy ra với hôn thê của con trai, kẻo ông có chết xuống mồ cũng không hết ân hận. Cuối cùng ông quyết định phải đi lánh nạn để có thể thuyết phục nàng dâu tương lại đi cùng.

Mẹ con Thị Đào thuận tình đi cùng vợ chồng ông giáo về Khoái Châu, quê ngoại của ông. Ngày mai hai nhà sẽ lên đường sớm, nên ông tranh thủ viết mấy chữ lên giấy dán ngoài cửa: “Cả hai nhà bình an. Đã đến nơi quê ngoại. Mong đợi ngày xuân trở lại. Để ngắm hoa dâm bụt vẫn còn đó.Nhị gia bình an. Lai đáo hương ngoại. Nhật vọng xuân hoàn. Thưởng cận xích tại.” Ngộ nhỡ mai mốt Thành trở về cũng biết được người thân nương náu ở đâu.

Bà giáo đang ngồi ngoài hiên vắt cơm nắm để ăn đường, khi Phạm Thái quỳ giữa sân thỉnh an cha mẹ Đỗ Thành.

Thấy hai gã trai trẻ bước vào sân, bà hồi hộp quá thành ra luống cuống, nên chỉ thốt được mấy từ cụt lủn “Có khách”. Ông đồ đang cặm cụi viết chữ, nghe vợ gọi, ngẩng đầu nhìn ra cửa rồi vội vàng bật dậy. Sự xuất hiện đột ngột của những chiến binh mạng khuôn mặt ủ rũ khiến ông cảm nhận điều chẳng lành nên toàn thân tê cứng đến nỗi không nhấc nổi bàn chân khỏi chỗ ngồi, còn chiếc bút lông trên tay rớt xuống tờ giấy, mực tung tóe bôi nhòe mấy dòng chữ nhắn nhủ với con.?

Thái trao dây cương cho Viên Dụng rồi quỳ giữa sân mà nói thổn thức:

– Cháu là Phạm Thái, đồng đội của Đỗ Thành. Huynh ấy không thể trở về, trước lúc tử biệt đã trăn trối dặn cháu về đây thỉnh an hai bác.

Bà mẹ nghe vậy liền ngã vật xuống thềm, ngất lịm. Ông giáo hoảng hốt chạy ra, nức nở lay vợ:

– Thằng Thành đi rồi, bà mà đi nữa thì tôi cũng không thiết sống.

Nhìn nông nỗi bi thảm, Thái lo sợ cuống cuồng, mặc cho nước mắt lưng tròng mà hì hục cùng Viên Dụng khiêng người mẹ vào nhà. Ông đồ đã trấn tĩnh hơn, ngồi bất động bên cạnh vợ, cứ trân trân nhìn ra cửa mà chẳng nói năng gì. Hai chàng trai đem hung tin đến nhà đứng chết trân như nghịch đồ chịu tội, cho đến khi nghe bà mẹ mấp máy môi than thở “Trời ơi là trời”, bấy giờ họ mới thở phào nhẹ nhõm như trút được cả một khối đá đè vào con tim.

Thái biết bà đã tỉnh, liền đến quỳ bên giường thưa gửi:

– Cháu rất khổ tâm khi phải nói những lời khiến người đau đớn quỵ ngã. Hai bác hãy tha thứ cho cháu lần này.

Lúc ấy ông giáo mới nói:

– Cháu đâu có lỗi. Hãy đứng lên rồi ngồi kể cho các bác nghe về cái chết của thằng Thành.

Viên Dụng lấy ghế cho Thái huynh, còn cậu ra ngoài dỡ mấy gói quà trên yên ngựa xuống đem vào nhà. Thái e ngại nhìn hai bác, chàng chần chừ chưa dám lên tiếng vì sợ câu chuyện mình kể sẽ như mũi dao khoét thêm vào nỗi đau của song thân đồng đội. Người mẹ đoán được ý chàng trai, bà ngồi dậy rồi bảo:

– Bác không sao đâu. Cháu đừng ngại, cứ kể đi.

Thái lấy hết can đảm kể lại cái chết bi hùng của huynh đệ:

– Cháu, Đỗ Thành và huynh trưởng Đào Thế Quang được biệt phái sang Nguyên do la kẻ địch. Biết giặc huy động binh lực đánh Đại Việt, chúng cháu gắng thu thập tin tức rồi cùng nhau về nước. Bọn Nguyên tung quân truy sát, tụi cháu đánh trả kịch liệt mở đường chạy về biên giới, Đỗ Thành đã đốt trại giặc và hạ thủ nhiều tên. Lúc vượt khe sang đất ta thì bị phục kích, ba anh em đối đầu với cả trăm tên giặc, huynh trưởng bị giết khi cản địch để cháu và Thành đào thoát. Chúng ào xuống vây bắt, Thành lấy thân che chở cho cháu rồi gục chết dưới dòng sông. Quân ta từ bên này lao ra đánh chặn, cứu được cháu... Thế Quang và Đỗ Thành kiên cường lắm, họ hy sinh để cháu toàn mạng trở về cấp báo với Đại Vương... Gần năm năm trời tình huynh đệ như ruột thịt, chỉ vì cháu nhỏ tuổi nhất nên được các huynh nhường cho sự sống, đại ân này cháu biết lấy gì báo đáp...

Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên gương mặt vợ chồng ông giáo, Thái bật khóc nức nở. Đứng ở góc nhà, Viên Dụng lấy vạt áo lau đôi mắt đỏ hoe; từng trực tiếp tham gia trận đánh, sự hồi tưởng của Thái khiến lòng cậu ngập đầy cảm xúc. Người cha cố kìm nỗi đau để hỏi:

– Con bác tử trận vào ngày nào?

Thái nghẹn ngào đáp:

– Thành huynh đi vào giờ dần ngày mười lăm tháng mười. Hưng Đạo Đại Vương đã làm lễ tiễn biệt vong hồn của các huynh. Vì cháu bị trọng thương nên không thể đến thăm hai bác sớm hơn.

Bà mẹ lẳng lặng ra ngoài, chốc lát quay vào với một bát hương, một vắt cơm và một nải chuối xanh mới trổ quả bằng ngón tay cái. Bà bày lên trang thờ, mà rằng:

– Mẹ chỉ có vậy để hương khói cho con. Con hãy an lòng siêu thoát, khi nào yên bình cha mẹ sẽ làm giỗ tươm tất hơn.

Thái và Dụng vội mở bọc, lấy những món đồ của huynh đệ đặt lên hương án. Chàng nói:

– Anh em có gửi chút đồ để thắp hương cho Thành huynh. Chiến cuộc sắp bùng nổ nên chẳng có gì nhiều, mong huynh phù hộ cho mọi người giết sạch lũ Mông Thát.

Ông đồ đốt ba nén hương rồi cùng vợ và hai chàng chiến binh đứng trước bàn thờ lầm rầm tưởng niệm người con, người đồng đội đã bỏ mình vì nước. Sự việc coi như an bài, nhưng Thái còn một trọng trách nữa mà chàng không thể không chu toàn. Lấy trong túi áo lót ra gói vải lụa đào, Thái bùi ngùi thưa chuyện:

– Thành huynh dặn cháu giao tận tay món kỷ vật này cho hôn thê của anh ấy. Hai bác có thể giúp cháu gặp được Đào tỷ?

Câu hỏi của Phạm Thái khiến vợ chồng ông đổ chết lặng cả người. Vì quá buồn đau mà họ lỡ quên một người chắc sẽ khổ đau không kém khi biết tin hôn phu của mình đã thành người thiên cổ. Hai ông bà nhìn nhau bối rối mà không nói năng gì; rồi bà ngồi thụp xuống sàn ôm mặt lặng lẽ khóc, còn ông cứ trầm ngâm đi đi lại lại như đang suy tính một vấn đề nghiêm trọng. Hồi lâu sau, ông tâm sự với chiến hữu của con:

– Quả thật điều này rất khó nghĩ, làm sao cho trọn tình vẹn lý đôi bên?

Ông kể về mối lương duyên kỳ lạ giữa Đỗ Thành và Lương Thị Đào từ thuở cứu nhau trong trận lũ khi còn tấm bé cho đến lúc hai nhà tác hợp để đôi lứa chắp cánh liền cành, hẹn mùa thu này kết tình chồng vợ.

Rồi ông bảo:

– Giờ mà báo tin cho con bé thì nhẫn tâm quá. Chúng là đôi chim uyên ương nguyền gắn bó một đời, nay uyên đã chết thì ương sống ra sao? Bác biết tính của Đào, tuy chưa làm vợ Thành nhưng nó sẽ ở vậy chứ không chấp nhận lấy người khác. Nó còn quá trẻ, bác không nỡ để mặc con bé ôm mối sầu thủy chung suốt đời với người đã lìa cõi tục. Hai nhà hẹn sớm mai đi lánh nạn, nếu hay tin về Thành khiến nó đổi ý không đi thì lúc giặc kéo đến sẽ khó tránh tai họa; còn nếu theo hai bác lên đường thì chẳng khác nào chấp nhận Đào là con trong nhà, mặc nhiên để nó lâm vào cảnh ngộ làm dâu không chổng.

Lâu nay Thái vẫn than thở mối tình của mình quá éo le, không ngờ tình duyên của Thành huynh còn éo le gấp bội. Dù huynh đã lìa xa cuộc sống nhưng mối duyên nợ trần thế vẫn để lại sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của một người con gái xuân xanh. Có lẽ ở dưới suối vàng huynh ấy không ngờ và cũng không muốn hôn thê của mình đeo đẳng mãn kiếp thân phận trinh nữ góa bụa. Nhưng rồi Thái lại cho rằng đây chỉ là sự suy diễn theo cảm tính, nhất định không phải là thông điệp từ cõi âm mà mình có trách nhiệm chuyển tải, chàng đành lấy lương tâm để tỏ bày ý kiến:

– Theo cháu, cứu người là việc cần ưu tiên hàng đầu. Hay là khoan báo tin, để mẹ con Đào tỷ cùng hai bác sớm đi lánh nạn, khi nào bình yên các bác sẽ lựa lời khuyên nhủ?

Bà mẹ cho rằng:

– Tuy ông trời chẳng cho hai nhà kết mối thông gia nhưng mình đâu thể bỏ mặc họ. Ngày mai tất cả cứ lên đường như không có chuyện gì xảy ra. Mọi việc để sau tính.

Ông bố chấp nhận:

– Thế cũng được, nhưng bà chớ có sầu não kẻo giấu đầu lòi đuôi.

Thái mừng lắm, bèn trao gói kỷ vật cho bà mẹ. Bà mở chiếc khăn lụa thêu đôi chim uyên ương, vừa thấy miếng ngọc bội có chạm hình rồng phượng thì nước mắt đã lưng tròng, miệng lẩm bẩm “Tội nghiệp thằng Thành quá”. Ông đồ thấy vậy phàn nàn:

– Mới dặn xong mà bà đã thế rồi.

Song bản thân ông cũng rưng rức khóe lệ, nói mà nhìn đi chỗ khác để che giấu cảm xúc mềm yếu. Phạm Thái cũng nẫu cả lòng nhưng làm ra vẻ điềm nhiên, hỏi sang chuyện khác:

– Các bác dự tính tản cư về đâu?

Ông đồ trả lời:

– Về quê ngoại của bác ở huyện Đông Kết, phủ Khoái Châu.

Thái hồ hởi nói:

– Như vậy mấy bác cháu đi cùng một hướng. Mai chúng cháu về Vạn Kiếp, sẽ tiễn mọi người một đoạn.

Hai vợ chồng ông đồ ái ngại nhìn nhau, Thái chợt hiểu ý bèn nói nhỏ điều gì đó với cậu em. Viên Dụng ra sân lấy ngựa phóng đi. Nhìn nải chuối xanh trên bàn thờ, chàng biết trong nhà không còn thực phẩm, xung quanh cũng chẳng còn ai mua bán, hai anh em ở lại khiến cha mẹ của Thành bối rối, vì không lẽ để đồng đội của con nhịn đói qua đêm.

Quả tình, ngoài mấy vắt cơm và một nhúm tép rang dành ăn đường, trong nhà ông đồ chẳng có gì ăn được. Thời buổi loạn lạc phải đi lánh nạn, không ai tích trữ thực phẩm trong cái nhà sắp bị bỏ hoang. Nỗi băn khoăn của gia chủ được hóa giải khi Viên Dụng trở về, xách theo một con gà mái và một túi gạo nhỏ. Cậu bảo mua tận làng bên.

Trong lúc bà mẹ và Viên Dụng lo thổi nấu dưới bếp. Ông đồ pha trà được biếu, tranh thủ hỏi chuyện Phạm Thái về gia cảnh, cuộc sống và quãng thời gian mấy anh em hoạt động trên đất Nguyên. Khi biết Thái mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chưa có vợ con, lại từng nhiều năm gắn bó sinh tử với Thành, khiến niềm cảm thương dâng lên mãnh liệt, thôi thúc ông làm một việc đầy ý nghĩa đối với người đang sống và cả với đứa con đã chết.

Chờ vợ cúng cho con bát cơm trắng và đĩa thịt gà luộc, ông gọi bà ra một góc thầm thì to nhỏ, có vẻ hai người rất hợp ý nhau. Trước khi ngồi vào bàn ăn cơm, ông lên tiếng bày tỏ nỗi niềm với Phạm Thái:

– Đỗ Thành là đứa con trai duy nhất nay đã lìa bỏ các bác mà đi, khiến lòng già trống trải lắm, không có chỗ bấu víu tình cảm thì cuộc sống chẳng còn ý nghĩa nữa. Hai đứa là đồng đội sinh tử, tuy khác dòng máu nhưng coi nhau như ruột thịt, bây giờ đứa mất đứa còn, kẻ đi thì đã đành, còn người ở lại thì khốn khổ trong sầu muộn, số phận đưa đẩy Thái làm huynh đệ với Thành, rồi được nó gửi gắm tấc lòng đem về cho cha mẹ, nếu coi đây là duyên hội ngộ thì xin cháu hãy thay Thành làm con trong gia đình, để các bác có lại niềm tin yêu mà vui sống.

Một chút ngỡ ngàng thoáng qua rồi hạnh phúc khóa đầy trong trái tim đa cảm, Thái rưng rưng khóc, nhưng không phải nước mắt xót đau mà là những giọt lệ vui sướng, chàng nghẹn ngào thổ lộ:

– Từ lúc con chào đời đến nay chưa một lần được kêu cha gọi mẹ. Nay con đã có cha mẹ thật rồi. Nhưng con không thế chỗ của Thành huynh trong lòng cha mẹ mà chỉ thay mặt huynh ấy gắn bó với cha mẹ suốt cuộc đời này. Cho con được một lần dâng trà lạy mừng nghĩa phụ, nghĩa mẫu.

Cảm động trước kết cục tốt đẹp của một câu chuyện tang tóc, Viên Dụng mừng rỡ rót trà cho Thái huynh. Thái dâng trà tận tay cha mẹ nuôi rồi quỳ dưới sàn mà lạy họ ba lần. Kể từ lúc gặp gỡ, lần đầu tiên mới thấy nụ cười hiện hữu trên gương mặt hằn vết chân chim của vợ chồng ông giáo. Mọi người ngồi ăn cơm trong không khí gia đình ấm cúng khi ngọn gió bấc chiều tà thổi se sắt cả mấy bụi mộc cần làm hoa chẳng nở vào mùa lạnh.