← Quay lại trang sách

Chương 3 Bãi Đà Mạc thất thế, Trần Bình Trọng sa cơ
Miền Hoan Ái nguy nan, Chiêu Minh Vương tăng viện

Mã Nhi trực tứ tuần, miệng dơi tai chuột, tính khí hung tợn, thô lỗ và tàn nhẫn, tuy tướng mạo tầm thước nhưng có sức khỏe vô song; mười sáu tuổi đã tham gia trận mạc, từ một tên sĩ tốt thăng tiến lên chức Vạn hộ, đủ thấy y đã cống hiến cho Đại Hãn biết bao nhiêu máu thịt của những người bị giết hại trên các nẻo đường chinh chiến. Trong cuộc rượt đuổi vua Trần, đoàn quân của Mã Nhi bị nhiều phen mất ăn quên ngủ vì sự quấy phá của đối phương, quân số thiệt hại không nhiều nhưng cũng khiến viên chiến tướng Ả Rập vài phần kiêng sợ. Lúc kéo vào Nhị Hà, thấy lực lượng An Nam quá hùng hậu, Ô Mã Nhi chột dạ, không dám chủ động tiến công. Y dựng trại tại bờ bắc sông Hồng rồi cử người cấp báo cho Thoát Hoan về động tĩnh của quân Trần.

Lính hầu báo tin có sứ giả đối phương sang thương thuyết, Ô Mã Nhi hỏi Nạp Hải nên ứng xử ra sao? Viên phó tướng cho rằng:

– Bọn An Nam cử người qua cốt dò xét tình hình quân ta. Theo ý tại hạ, ta tương kế tựu kế cứ mặc nhiên phô trương lực lượng khiến chúng không dám động thủ. Vài ba ngày nữa đại binh kéo đến, bấy giờ chúng muốn tiến đánh thì đã muộn.

Mã Nhi hài lòng với cách ấy bèn cho quân dựng đại kỳ trên bãi sông, ra vẻ tình cờ để sứ giả Đại Việt chứng kiến binh thuyền hùng hậu của Mông Thát. Đỗ Khắc Chung với chào tướng giặc, đúng đỉnh theo chân hắn dạo quanh các trại thủy bộ rồi điềm nhiên nói:

– Cờ to gặp gió mạnh dễ rách toạc, chi bằng cuốn lại đem về.

Mã Nhi bắt bẻ:

– Ý ngươi muốn tụi ta rút quân? Vậy vua nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cán bánh xe liệu sẽ ra sao?

Khắc Chung đáp:

– Các người không theo phương cách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người.

Mã Nhi dọa dẫm:

– Đại quân mượn đường đánh Chiêm Thành, vua ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát.

Khắc Chung đáp:

– Nẻo trần có muôn lối, có lối lên trời, có lối xuống địa ngục. Muốn qua Chiêm chớ đi nẻo này kẻo chui xuống vực sâu, lúc ấy cất mình lên cũng không nổi.

Nói rồi, Khắc Chung ra về. Ô Mã Nhi bảo với các tướng “Người này ứng biến giỏi, không làm nhục mệnh vua, không làm hổ phận tôi. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được”. Y sai người đuổi theo sứ giả của ta nhưng không bắt kịp.

Đỗ Khắc Chung trở về bẩm báo tình hình địch quân. Vua tôi trù trừ chưa quyết đánh lớn. Trần Quang Khải sai Chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh dẫn một đội thuyền nhỏ đến trước trại giặc khiêu chiến thăm dò. Ô Mã Nhi án binh bất động. Hai bên bắn tên qua lại nhưng không gây thiệt hại đáng kể cho đối phương.

Ngày mười bốn tháng giêng, đại quân của Thoát Hoan rầm rộ kéo đến bờ bắc sông Hồng. A Lý Hải Nha cướp thuyền của dân để làm cầu phao trên sông. Khi chúng đổ sang bờ nam thì quân ta đã rút hết. Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đem quân vào Thăng Long. Cả một tòa thành rộng lớn mà không một bóng người, phố xá hoang phế, cung thất trống trải, khí sắc âm u lạnh lẽo khiến quân tướng Nguyên Mông thấy ớn xương sống. Chẳng có ai chào đón, chẳng có thứ gì để cướp bóc, cũng chẳng kiếm được một đấu gạo hẩm, một con gà què. Ngay buổi chiều hôm ấy, Thoát Hoan họp quân cơ trên sân Thiên An.

A Lý Hải Nha hỏi:

– Sao đại vương không cho họp trong điện mà họp ngoài sân?

Thoát Hoan nói:

– Ở bên trong âm khí nặng lắm, sàn gạch thì nhớp nháp, cột vách thì chảy nước, mùi ẩm mốc rất khó chịu.

Lý Bang Hiến ra vẻ hiểu biết:

– Bẩm đại vương, đấy là do thời tiết, bọn An Nam gọi là trời nồm, không khí ẩm ướt nên vật dụng đều như bị nhúng nước.

Thoát Hoan đáp:

– Thôi thôi ta không cần biết đấy là gì. Chỉ thấy rùng mình khó chịu khi bước vào cung vàng điện ngọc của chúng. Mà làm gì có vàng ngọc, muốn kiếm một con lợn để nướng thịt còn chả có. Họp mau mau rồi ra ngoài thành dựng lều đốt lửa cho ấm áp, ở trong này lâu khéo sinh bệnh mà chết.

Lý Hằng rỉ tai Khoan Triệt “Dạo này đại vương hay nói gở. Chinh chiến xứ người khi gặp thời tiết khác thường cũng là chuyện thường tình”. Khoan Triệt bình phẩm “Chủ soái đầu quen nhơ nhớp, cứ nghĩ chiếm được kinh đô nước người thì tha hồ mà thụ hương thơm tho êm ấm. Bọn Nam man xảo quyệt thật, chẳng bỏ lại một thứ gì ăn được, dùng được trong tòa thành mốc meo”.

Phần vì kinh hãi không dám ở trong cái thành lạnh lẽo hoang vắng, phần nữa lại sợ quân ta kéo đến bao vây, Thoát Hoan rút binh ra khỏi thành. Đại quân Mông Thát quay sang bờ bắc sông Hồng dựng trại, riêng Sát Tháp Nhi Đài đóng tại mé tây Thăng Long để phòng ngừa đối phương tập kích. Kịp lúc bọn Bột La Hợp Đáp Nhĩ đến hội quân.

Sau mấy ngày nghỉ dưỡng và tung thám báo dò la tin tức của vua Trần, Thoát Hoan vẫn chưa quyết nên tiến quân về hướng nào. Trinh sát chạy xuôi sông Hồng mấy chục dặm mà không thấy một chiếc thuyền hoặc một toán lính của đối phương. Mù mờ về thông tin nên chẳng biết địch quân ở đâu mà tiến đánh, điều trăn trở ấy khiến Trấn Nam Vương đau đầu mệt óc. Làm chủ soái năm mươi vạn binh mã mà động một tí phải hỏi han thuộc cấp có khác nào tự nhận mình là kẻ mù tịt về quân sự, lòng đang rối bời thì nghe báo quân Vân Nam của Bình chương chính sự Nạp Tốc Lạt Đinh vừa nhập trại, y liền cho gọi vào quân doanh để hỏi han tình hình. Nạp Tốc Lạt Đinh được dịp khoe công:

– Quân của bản tướng đánh tan tác gần chục vạn quân của tướng Đông A là Trần Nhật Duật, hắn phải kéo tàn quân rút chạy về vùng núi tây nam. Như vậy là một vùng lãnh thổ phía tây của An Nam đã được dẹp yên.

A Lý Hải Nha hỏi móc:

– Bình chương Lạt Đinh sao không thừa thắng xông lên bắt sống cho rồi đầu lĩnh của chúng mà lại để hắn chạy thoát?

Nạp Tốc Lạt Đinh đáp trả:

– Chúng có chân để chạy, có ngựa để cưỡi, đâu dễ ngồi yên một chỗ cho ta bắt. Vậy từ hồi tham chiến, Bình Chương Hải Nha đã bắt được một viên tướng Trần nào chưa?

A Lý Hải Nha nín khe. Thoát Hoan lên tiếng dàn hòa, không quên cài thêm gợi ý:

– Các ngươi chớ có đôi co, tất cả đã hội về đây tức là ta đang ở thế thắng. Điều cần bàn bây giờ là hướng tiến quân sắp tới chứ không phải việc phân định công lao.

Lý Hằng đề nghị:

– Bọn thế tử dứt khoát chạy về phương nam. Theo bản tướng, ta nên cất quân thủy bộ tràn xuống đánh dẹp một lần cho xong.

Thoát Hoan hỏi vô tư:

– Ý các tướng khác ra sao?

Bột La Hợp Đáp Nhĩ nói:

– Nên tiến đánh phương nam, tập trung quân công phá Thiên Trường là vùng đất phát tích dòng dõi Đông A. Thể nào chúa Nam man cũng ẩn náu ở đấy.

A Lý Hải Nha nói:

– Theo suy đoán của bản tướng, thời điểm này có lẽ Toa Đô đã dẫn quân từ Chiêm Thành đánh lên, nay ta dốc binh đánh xuống thì thế tử An Nam có khác nào cá nằm trên thớt.

Thoát Hoan thấy nhẹ người, bèn chỉ thị:

– Ta cũng suy tính như vậy. Nay lệnh cho Lý Hằng và Ô Mã Nhi thống lĩnh thủy quân xuôi sông Hồng mà đánh. Lệnh cho Khoan Triệt, Bột La Hợp Đáp Nhĩ và Mãng Cổ Thái dẫn mười vạn quân tiến xuống phía nam. Giao cho Lý Bang Hiến và Lưu Thế Anh chỉ huy một vạn quân thiết lập binh trạm từ biên giới đến phía sau đại quân, cách ba mươi dặm đặt một trạm có ba trăm quân đồn trú, cách sáu mươi dặm đặt một trạm ngựa có một trăm chiến mã túc trực, bảo đảm thông suốt như một huyết mạch cung cấp lương thảo, vũ khí và chiến mã cho toàn quân. Các tướng khác sẽ theo ta dẫn đại quân tiếp ứng cho Lý Hằng và Khoan Triệt, hẹn hội binh ở Thiên Trường.

Quả như phán đoán của địch, hai vua cùng Thái sư Trần Quang Khải rút quân về phía nam, đích đến là phủ Thiên Trường, quê cha đất tổ của các vị. Song chúng chỉ đoán đúng ở những ngày sau, vì trước đấy quân ta rút sang phía đông, ngược hướng Lý Hằng vừa kéo đến.

Nguyên do ban đầu các vua cho binh thuyền theo ngả sông Thiên Đức đến sông Thái Bình để ra biển, nhưng gặp đoạn sông hẹp, nước cạn, không qua được. Trần Quang Khải đề nghị quay lại Nhị Hà, hai vua nhất trí. Thái sư dẫn bộ binh đi đường tắt đến tả ngạn sông Hồng rồi men bờ sông âm thầm hành quân về phương nam; đoàn chiến thuyền của vua lợi dụng đêm cuối tháng không trăng lặng lẽ vượt qua ngã ba Dâu là nơi hai dòng sông giao nhau để vào Nhị Hà. Khi đến ngã ba, hàng trăm chiến thuyền của ta chỉ cách trại giặc hơn mười dặm mà chúng chẳng hề hay biết. Rõ ràng hóa rủi thành may, lúc vua quan nhà Trần mất mấy ngày loay hoay ở sông Thiên Đức thì thám báo địch lùng sục khắp hướng nam mà chẳng thấy tăm hơi của họ; nước cờ tính sai ban đầu đã giúp Đông A bảo toàn lực lượng, thiên thời địa lợi đều thuận theo ta cả, “rừng còn nguyên, lo gì thiếu củi đốt”.

Khi binh thuyền đến bãi Đà Mạc, các vua gặp đội quân của Trần Bình Trọng. Bảo Nghĩa Vương đi thuyền nhỏ cập sát thuyền rồng, từ dưới mạn thuyền ngài bái lạy nhị hoàng rồi khẩn cấp thông báo:

– Thám báo cho hay, thuyền giặc đã xuất phát, Thượng hoàng và Quan gia hãy mau rời đi. Ở đây đã có thần trấn giữ, quyết không để chúng vượt qua ải này nội trong ngày hôm nay.

Thượng hoàng Thánh Tông hỏi vọng xuống:

– Khanh có bao nhiêu quân?

Trần Bình Trọng đáp:

– Quân bộ và quân thủy tổng cộng non vạn người.

Thánh Tông lại hỏi:

– Có cần tăng viện không?

Trần Bình Trọng đáp:

– Đại quân hộ vệ thánh thể, không nên hy sinh vô ích. Cuộc chiến còn dài, binh còn dùng cho ngày sau. Mong nhị hoàng thấu đạt.

Vua Nhân Tông xúc động mà rằng:

– Ta hiểu lòng của Bảo Nghĩa Vương rồi. Khanh hãy bảo trọng.

Quân thần từ biệt nhau trên dòng sông đục ngầu phù sa, vua theo đoàn thuyền xuôi nam, vương dàn quân trên sông cản địch, người đi kẻ ở cùng chung chí hướng đánh đuổi giặc thù, giành lại sơn hà xã tắc.

Đà Mạc là một cồn bãi nằm giữa sông Hồng dài gần chục dặm, chia dòng sông thành hai nhánh gọi là hữu Thiên Mạc và tả Thiên Mạc. Nhánh nhỏ bao bọc bờ phải bãi nổi, sông hẹp và nông, lưu lượng nước ít, lau sậy um tùm.

Hai canh giờ sau, đoàn chiến thuyền của Lý Hằng và Ô Mã Nhi đến bãi Đà Mạc, Trần Bình Trọng đem một trăm thuyền nhỏ ra khiêu chiến. Từ nhánh hữu Thiên Mạc đội thuyền của ta túa ra lướt nhanh qua mạn thuyền giặc, các cung thủ bắn tên có cột bài nhùi lửa, ván thuyền ẩm ướt do cơn mưa buổi sáng nên không bắt cháy, khiến bọn giặc hả hê cười nhạo. Từ thuyền lớn giặc bắn tên sang, quân ta bị thương vong một số, Trần Bình Trọng cho đánh trống lui binh, thuyền ta quay đầu tháo chạy. Ô Mã Nhi xua quân đuổi diệt, gần trăm thuyền giặc lao vào nhánh sông vừa hẹp vừa nông khiến nhiều chiếc bị mắc cạn. Trống lại nổi lên giục giã, khắp trên bờ và cồn bãi, hàng ngàn chiến binh Đại Việt bật dậy từ lòng đất tung câu liêm, móc sắt neo bám vào thuyền địch. Các chiến sĩ leo thoăn thoắt lên thuyền Mông Thát cận chiến với thủy binh Nguyên.

Nhìn nhóm thuyền giặc ở giữa dòng đang nỗ lực vượt qua khỏi khúc sông hạn hẹp, Trần Bình Trọng cho thủy quân quay lại dùng thuyền bịt sông. Thuyền của ta chặn ngang dòng chảy, thả neo tại chỗ, tạo thành hàng hàng lớp lớp vật cản bồng bềnh trên mặt nước. Giặc dùng mũi thuyền lớn húc vào để mở đường vượt thoát rồi bị kẹt cứng không tài nào ra khỏi đám thuyền nhỏ lùng bùng bên dưới. Như đã được tập dượt kỹ càng, thủy quân ta đồng loạt lao xuống nước rồi hè nhau dùng búa đục phá đáy thuyền kẻ thù.

Thấy quá nửa số thuyền bị diệt trên dòng hữu Thiên Mạc, Lý Hằng vội vàng cho hạm đội tiến vào nhánh sông lớn, vòng qua bãi cạn để giải nguy cho số thuyền còn nằm lại ở khúc sông nhỏ. Kịp lúc quân Khoan Triệt ập đến, tạo thành ba mũi phản công bao vây tiêu diệt quân của Bảo Nghĩa Vương.

Tình thế biến chuyển bất lợi, giặc đông gấp bội lần, quân ta bị tổn thất nặng nề. Bình Trọng quyết định rút lui vào bờ. Ông dẫn một ngàn quân chạy lên bãi cạn, thu hút lực lượng địch về phía mình, giặc hò nhau đuổi diệt. Gần hai ngàn chiến binh nhân cơ hội mở đường máu vượt khỏi vùng chiến địa, chạy dọc theo hữu ngạn, ẩn nấp trong các bãi lau sậy chờ đêm xuống sẽ rút đi.

Hơn năm ngàn quân Mông Thát đổ bộ lên bãi cạn dùng số đông chia cắt đội hình của Trần Bình Trọng mà diệt từng toán nhỏ rồi cô lập chiến tướng Đông A ở một cồn cát trống trải. Bảo Nghĩa Vương bị trúng tên vào vai, máu chảy ướt đẫm cánh tay khiến sức lực suy kiệt. Nhìn quanh chỉ còn không đầy trăm binh sĩ, ngài bảo với họ:

– Người nào biết bơi hãy vượt sông trốn sang bờ trái. Những người không có khả năng ở lại với ta để cản bước giặc.

Sáu chục tráng sĩ gạt nước mắt lạy tạ vương rồi chạy ra sông. Trần Bình Trọng cưỡi ngựa dẫn theo vài chục người xông lên phía ngược lại. Quân địch vây kín tứ bề, các chiến binh Đại Việt vung gươm giáo chống cự, từng người một bị giết trên cồn bãi, máu của họ thấm đỏ mặt cát lạnh lẽo. Giặc cố bắt sống chủ tướng của ta. Không cam chịu khuất phục, Bình Trọng vọt ngựa chạy lên phía bắc. Kị binh Thát đuổi theo tung thòng lọng giật vương ngã ngựa, người chiến tướng kiêu hùng sa vào tay giặc.?️

Nghe tin bắt được chủ tướng đối phương, Lý Hằng cả mừng, vội sai dẫn tù binh vào quân doanh. Vừa thấy Trần Bình Trọng, y quát lính cởi trói rồi ra vẻ ân cần:

– Ngài đang bị thương, để ta sai người băng bó.

Bình Trọng lừ mắt đáp:

– Tướng thất trận sa cơ chỉ có con đường chết mới rửa được nhục, băng bó để làm gì?

Lý Hằng mềm mỏng:

– Thời thế đã đổi thay, ngài cũng nên nghĩ tới bản thân. Chẳng qua quốc vương An Nam cố chấp mới khiến ngài ra nông nỗi này. Nếu thuận tình quy phục thì Đại Nguyên luôn rộng của chào đón nhân tài.

Bình Trọng quát to:

– Ta chỉ thờ một chủ, đừng nhiều lời vô ích.

Lý Hằng vẫn cố nín nhịn:

– Vừa qua cơn sóng gió, tinh thần còn xáo động, vậy ngài hãy nghỉ ngơi cho tĩnh trí, lúc khác ta lại đàm đạo.

Chúng nhốt Bảo Nghĩa Vương trong một căn lều nhỏ, cắt cử quân canh gác cẩn mật. Vương được giải đi rồi, Ô Mã Nhi mới lên tiếng:

– Tên này ngang bướng lắm, giết quách cho xong.

Lý Hằng nói:

– Hắn có chức tước lớn ở An Nam, thuyết phục được hắn theo ta thì uy danh của thiên triều càng rực rỡ, nhiều quan tướng của chúng sẽ lấy đó làm gương mà trở giáo về hàng.

Tối muộn, Hằng sai người bày rượu thịt thịnh soạn, ân cần mời mọc Bình Trọng:

– Bữa rượu thịt này là thịnh tình của ta. Ngài là vương nước Nam, nếu có lòng theo về với thiên tử sẽ được làm vương đất Bắc.

Bình Trọng đúng vụt dậy, dùng cánh tay còn khỏe hất đổ bàn rượu rồi nói lớn:

– Ta thà làm quỷ nước Nam, nhất quyết không thèm làm vương đất Bắc. Muốn chém muốn giết thì cứ việc ra tay.

Biết không thể lung lạc được ý chí của người anh hùng. Rạng sáng ngày hôm sau, giặc đưa Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng ra chém đầu ở bãi sông Đà Mạc.

Ông là hậu duệ của hoàng đế Lê Đại Hành, do có nhiều công lao đối với vương triều Đông A nên được ban quốc tính, được Trần Thái Tông gả con gái là công chúa Thụy Bảo và phong tước Bảo Nghĩa Vương. Tinh thần bất diệt của Trần Bình Trọng trở thành nguồn sức mạnh lớn lao thôi thúc quân dân nhà Trần quyết tâm đánh đuổi bọn giặc cướp nước. Khi nghe tin ông bị giết, vua Nhân Tông than khóc mà kêu lên “Bảo Nghĩa đã vì ta và Thượng hoàng mà bất chấp cả mạng sống, lòng trung liệt của khanh còn sáng hơn gương Kỷ Tín cứu Hán Cao Đế”.

Đoàn thuyền của hai vua ra đến cửa Hải Thịp. Trần Quang Khải cho đóng cọc dưới sông để cản chiến thuyền của giặc. Các vua về hành cung Thiên Trường, Thái sư chia quân đóng giữ những vị trí trọng yếu từ Thiên Trường đến Trường Yên. Các ban bệ đã có sẵn, triều đình lại sáng đèn, Quan gia tiếp tục điều hành việc nước. Hàn lâm viện Đinh Củng Viên bẩm tấu:

– Ba ngày trước có thư cấp báo của Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang từ nam gửi ra cho biết đạo quân của Toa Đô, Giảo Kỳ, Đường Ngột Đãi và Lưu Khuê đã kéo vào Bố Chính, sức giặc quá mạnh, vương không giữ nổi nên phải bỏ Hoan Châu rút về Diễn Châu, ngài khẩn cấp xin cứu viện. Hai ngày trước Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đem quân từ tây bắc về, chúng thần đã bàn bạc cẩn trọng, hôm qua vương đã dẫn binh qua ngả tây Thanh Hóa vào nam tăng viện.

Nhân Tông rất hài lòng, ngài nói:

– Không có mặt trẫm và Thượng hoàng, quần thần đã kịp thời quyết định ứng phó, như vậy là được việc. Vua tôi đồng tâm hiệp ý thì há sợ giặc Nguyên sao?

Vừa lúc có quân hiệu đem thư của Hưng Đạo Vương trình lên, vua đọc xong rồi bảo quần thần:

– Quốc Tuấn nhìn xa trông rộng thật, vương biết tình hình Hoan Ái đang nguy cấp nên đề nghị cử Quang Khải dẫn quân vào nam chống giặc. Ý của Chiêu Minh thế nào?

Quang Khải đáp:

– Xã tắc lâm nguy, đâu thể khoanh tay đợi giặc, thần phụng chỉ vào nam đánh Mộng Thát.

Nhân Tông mừng lắm, bèn bảo:

– Trong thư Quốc Tuấn có nói Nhân Huệ Vương chỉ huy hơn ba trăm chiến thuyền đang kéo về cửa Đại An chờ lệnh. Thái sư dẫn năm vạn binh thuyền kết hợp với quân của Khánh Dư vượt biển vào nam giành lại Hoan Diễn bằng mọi giá.

Ý chỉ của vua đã rõ nhưng Quang Khải còn phân vân, bèn hỏi:

– Giặc chưa đánh xuống vì thấy ta tập trung binh lực ở đây, hẳn chúng còn chờ quân Toa Đô và Đường Ngột Đãi kéo ra để ép ta từ hai phía. Nay thần dẫn quân vào nam, lực lượng ở Thiên Trường sẽ yếu đi, vậy chủ ý của hoàng thượng ra sao?

Nhân Tông nói:

– Một phần ba quân theo khanh, Thiên Trường vẫn còn hơn chục vạn. Nếu Chiêu Minh làm chậm bước tiến của bọn Giảo Kỳ, Toa Đô thì coi như kế hoạch tiến công hai đầu của giặc thất bại, lực lượng của trẫm đủ sức đối đầu với Thoát Hoan. Trách nhiệm ở phương nam rất lớn, trẫm muốn dưới trướng Chiêu Minh có nhiều trợ thủ giỏi, ai có thể lên đường cùng Thái sư?

Bên dưới, nhiều người bước ra giữa sảnh hướng mặt về phía vua mà hô vang “Chúng thần xin theo Thái sư vào nam đánh giặc. Mong bệ hạ chuẩn thuận”. Trong đấy có Tả Thiên Vương Trần Đức Việp, Văn Túc Vương Trần Đạo Tái, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung và Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh.

Hoàng thượng ngạc nhiên khi thấy trong số quần thần xin ra trận có cả Hưng Ninh Vương, vốn là người ăn chay niệm Phật, bèn nói:

– Hưng Ninh tuổi đã cao, lại không quen chuyện đổ máu, hay là ở lại với trẫm?

Quốc Tụng đáp:

– Hưng Đạo chỉ kém thần vài tuổi còn thống lĩnh ba quân xông pha trận tiền, thần cũng thừa sức vác gươm ra trận. Thần vốn ghét sát sinh nhưng khi lũ giặc cuồng bạo tàn sát dân ta thì việc diệt trừ hậu họa cho người vô tội là điều nên làm. Thỉnh cầu hoàng thượng soi xét.

Vua Nhân Tông đành chấp thuận rồi lệnh cho các quan tướng xuất binh vào đêm mai để tránh tai mắt của kẻ thù.

Trước lúc lên đường, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đến bái biệt Thượng hoàng. Ở chốn riêng tư, huynh đệ họ không câu nệ vua tôi mà dùng lối xưng hô thân mật.

Thánh Tông dặn dò:

– Đường vào nam muôn vàn hiểm ác, dù là chuyện nhỏ cũng phải suy tính cho kỹ. Đầu não vững vàng thì tướng sĩ mới bền chí đánh giặc, đệ nhất thiết phải bảo trọng bản thân.

Quang Khải đáp:

– Lời của hoàng huynh, đệ xin ghi nhớ. Nhưng quả tình trong bụng đệ chưa thật yên tâm về lực lượng ở Thiên Trường. Khi giặc biết ta điều bớt quân vào Hoan Diễn có thể chúng sẽ tiến đánh, nếu tình hình bất lợi thì hoàng huynh và hoàng thượng hãy rút quân ra Hải Đông, đệ đã báo tin cho Quốc Tuấn cử quân túc trực đón đợi.

Thánh Tông cảm kích lắm, ngài bảo:

– Người đi kẻ ở lo lắng cho nhau, giữa trùng điệp giặc thù mà tình huynh đệ vẫn sâu như biển Đông, nghĩa quân thần vẫn cao tựa núi Thái, đây chính là sức mạnh của vương triều ta đó.

Sau chiến thắng ở Đà Mạc, bọn Lý Hằng, Khoan Triệt dò dẫm qua các luồng lạch sông Luộc, thấy địa thế sông ngòi chằng chịt, nhiều đầm lầy, bãi sậy âm u hoang dại khiến chúng e dè không dám tiến, tìm chỗ đất cao lập trại. Lý Hằng tung thám báo xem xét địch tình và xác lập phương hướng hành binh. Vài ngày sau chúng quay về bẩm báo “Quân An Nam đông như kiến lại có nhiều đồn lũy kiên cố đóng giữ cả một vùng rộng lớn phía đông nam”. Tướng giặc bàn bạc với nhau kế sách đối phó. Ô Mã Nhi hùng hổ nói:

– Ta nên chia quân làm hai ngả, bộ binh đánh thắc xuống phía nam, đội chiến thuyền chở thêm vài vạn quân xuôi ra biển rồi từ biển đánh vào Thiên Trường, dứt khoát phá được thế trận của chúng.

Bột La Hợp Đáp Nhĩ nói:

– Vùng này hồ đầm chằng chịt, muỗi vắt nhiều vô kể, không thông thạo thủy thổ thì khó mà tiến quân thuận lợi.

Mãng Cổ Thái thông báo:

– Lương thực chỉ đủ cho ba ngày, làng mạc quanh vùng đều trống vắng, việc thu lương không có hiệu quả. Phải lo được cái ăn rồi hãy tính chuyện tiến công.

Khoan Triệt có chủ ý:

– Nên rút quân về đường cũ. Bẩm báo tình hình với Trấn Nam Vương rồi tùy ngài quyết định đường hướng. Ý ta là vậy, còn Lý tướng quân nghĩ sao?

Lý Hằng nói:

– Rút quân là thượng sách. Vậy cứ theo ý của ngài mà tiến hành.

Thấy đầu lĩnh Tả thừa và Hữu thừa cùng nhất trí lui binh, trong bụng Ô Mã Nhi bất phục nhưng không dám phản ứng. Sáng hôm sau, binh đoàn tiên phong thủy bộ của giặc Nguyên rút về hướng Sông Hồng để hội quân với chủ soái Thoát Hoan.

Lại nói về Trấn Nam Vương. Sau khi sai Lý Hằng, Khoan Triệt thống lĩnh quân tiên phong tiến xuống phía nam, Thoát Hoan vẫn án binh bất động. A Lý Hải Nha hỏi:

– Tại sao đại vương chưa quyết định cất quân?

Hoan giải thích:

– Nếu dốc toàn quân tiến đánh Thiên Trường thì bọn Quốc Tuấn sẽ thừa cơ kéo về Thăng Long. Ta đã báo công chiếm kinh đô An Nam, bấy giờ sẽ ăn nói sao với thiên tử? Chi bằng chờ xem quân tiên phong đánh chác ra sao, rồi quyết định cũng chưa muộn.

Đang nóng lòng chờ tin tức của bọn Lý Hằng, Khoan Triệt thì nghe tin chúng đã trở về. Thoát Hoan sửng sốt, vội kêu vào hỏi chuyện. Hai viên đầu lĩnh khua môi múa mép kể lể chiến công ở Đà Mạc và tô vẽ về lực lượng hùng hậu của nhà Trần ở Thiên Trường để biện minh cho hành vi thoái lui của chúng.

Thoát Hoan hỏi:

– Bọn người nói quân An Nam ở Thiên Trường có tới ba mươi vạn, thử hỏi làm sao trong thời gian ngắn chúng huy động được ngần ấy quân?

Khoan Triệt lý giải:

– Trên đường tiến quân, bản tướng thấy trong các làng mạc vắng bóng đàn ông, bèn tra khảo bọn dân đen thì được chúng khai báo rằng đàn ông trong làng đã rủ nhau theo quốc vương của chúng đi đánh trận cả rồi.

Thoát Hoan nói:

– Tình thế này rất bất lợi cho ta, trước sau chúng đều mạnh, trong khi bọn Toa Đô, Đường Ngột Đãi chưa thấy đâu cả. Các tướng có kế sách gì hãy nói ra?

A Lý Hải Nha đề nghị:

– Như vậy lực lượng của giặc đã ngang bằng ta, muốn thắng chúng cần xin viện binh.

Thoát Hoan cho là phải, bèn sai người thảo thư gửi về Nguyên triều. Trong thư có đoạn viết “...Trần Nhật Huyền chạy đến hai xứ Thiên Trường, Trường Yên, binh lực lại tập hợp được. Quốc Tuấn tụ hơn một ngàn thuyền ở Vạn Kiếp. Nguyễn Lộc giữ Vĩnh Bình. Quan quân thì đi xa, đánh lâu, lơ lửng quãng giữa. Toa Đô, Đường Ngột Đãi thì đến không đúng kỳ hạn. Cho nên xin thêm quân”.

Trong thư cầu viện binh, Thoát Hoan không hề nói quá về thực trạng chiến trường thượng tuần tháng hai năm Ất Dậu. Quân Nguyên kéo về Thăng Long chưa đầy nửa tháng thì Hưng Đạo Vương đã dẫn quân từ trên núi tràn xuống thu hồi toàn bộ vùng đông bắc. Đóng bản doanh tại Vạn Kiếp, Vương điều binh khiển tướng đánh phá hậu quân của địch, nhổ đôn đốt trại, chặn đường tiếp tế, chiếm đoạt lương thảo, khiến bọn giặc luôn ở trong tình trạng trực chiến, hao tổn tinh thần, thiếu ăn thiếu ngủ, đêm ngày chỉ lo bị đánh úp, đánh lén. Tình thế “lưỡng đầu thọ địch” của quân dân Đại Việt đã dịch chuyển sang phía kẻ thù, đại quân của Thoát Hoan bị kẹp giữa hai lực lượng lớn của ta là đạo quân của Trần Hưng Đạo ở phía bắc và đạo quân của các vua Trần ở phía nam. Đúng như trong thư cầu viện, hơn ba mươi vạn quân Nguyên Mông đang “lơ lửng quãng giữa”.

Khi nghe tin Thoát Hoan cử hai viên Vạn hộ là Lý Bang Hiến và Lưu Thế Anh chỉ huy một vạn quân thiết lập binh trạm từ biên giới đến Thăng Long, Hưng Đạo cả mừng, ngài nói với các tướng:

– Chúng rải một vạn quân trên một tuyến đường dài hơn bốn trăm dặm thì có khác nào cắt nhỏ một tảng thịt lớn để cho ta dễ nuốt. Không thể bỏ qua cơ hội này, các tướng hãy liên kết với hào trưởng địa phương mà nhổ dần từng binh trạm của giặc.

Ngài cho thảo hàng loạt văn thư gửi các thủ lĩnh miền núi, kêu gọi họ sát cánh với quân đội triều đình triệt phá con đường tiếp vận của địch, còn truyền lệnh cho Nguyễn Địa Lô:

– Người dẫn năm trăm quân lên Vĩnh Bình liên kết với trại chủ Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh trấn giữ các cứ điểm trọng yếu, đánh chặn bất cứ kẻ nào xuất nhập qua biên giới. Hãy kiên nhẫn giăng bẫy, sẽ có lúc bắt được thú dữ.