Chương 4 Giao nộp Thanh Hóa, Trương Hiến Hầu nối giáo cho giặc
Công phá Thiên Trường, Trấn Nam Vương bủa lưới ép vua
Trong đoàn quân Mông Thát từ Chiêm Thành kéo vào Bố Chính có thân vương Giảo Kỳ. Mang tiếng là người có địa vị cao nhất, song y không phải là tướng đánh trận mà chỉ giữ vai trò tô điểm cho binh đoàn thêm phần vênh vang xôm tụ, còn binh quyền đều nằm trong tay Tả thừa Đường Ngột Đãi và Hữu thừa Toa Đô.
Sau nhiều tháng chinh chiến Chiêm Thành mà chẳng làm nên trò trống gì, đầu mùa hạ năm Giáp Thân (1284) quân Nguyên rút lên phía bắc nước Chiêm tiếp giáp với Đại Việt, án binh nằm chờ đại quốc phát lệnh khởi chiến để kéo vào nước ta. Ngồi không cũng phải ăn, trong khi châu Ô Lý của Chiêm Thành trước nay cư dân thưa thớt, cồn cát nhiều hơn đất ruộng, muốn nuôi mười vạn khẩu đâu dễ. Mỏi mắt trông ngóng viên binh, viện lương mà chỉ thấy biển trời mù mịt, còn thuyền bè vẫn biền biệt tăm hơi. Không có gì để cướp thì phải bỏ sức ra trồng tỉa ngõ hầu có cái cho vào miệng. Túng thế, đám đầu lĩnh bàn bạc kiếm kế sinh nhai. Toa Đô đề nghị:
– Lương thực chỉ còn đủ ăn một tháng, nếu không có nguồn bổ sung thì nguy khốn. Phải kịp thời cho quân khẩn hoang trồng trọt, trù trừ sẽ đói to.
Giảo Kỳ nói:
– Tung quân đi vơ vét khắp nơi còn hơn là bắt chúng làm nông.
Đường Ngột Đãi cười mỉa, đáp:
– Ngài ngồi một chỗ nên không biết bên ngoài ra sao. Ở cái xứ đi ba chục dặm mới thấy mười nóc nhà thì có gì mà vét? Ta thuận theo ý của Hữu thừa, cần sớm tổ chức trồng khoai củ, nuôi lợn gà kẻo có ngày phải giết cả bầy ngựa chiến để chống đói.
Đã có đồng minh, Toa Đô trắng trợn phân nhiệm:
– Theo ta nên chia quân làm ba. Tả thừa đầu lĩnh ba vạn quân trấn giữ phía nam đề phòng Chiêm Thành tập kích, ta nắm ba vạn quân trấn giữ phía bắc phòng ngừa An Nam đánh lén, còn Giảo Kỳ vương điều hành bốn vạn quân làm nông.
Nghe thấy vậy, Kỳ giãy nảy lên:
– Ta chẳng biết gì về trồng trọt thì làm sao mà trông coi cái công việc đất cát bẩn thỉu.
Toa Đô phản ứng:
– Đành chịu thôi. Ngài không đánh trận được thì phải lo hậu cần. Chưa biết gì thì kêu tướng sĩ đến mà hỏi, còn tổ chức thế nào là do ngài quyết định, miễn có cái ăn là được.
Đường Ngột Đãi an ủi:
– Bọn ta ngoài trách nhiệm phòng thủ còn lo thêm việc vào rừng lên núi săn bắn muông thú. Kiếm được thịt ngon thì cũng có phần của ngài.
Giảo Kỳ bị lép vế đành bấm bụng nín nhịn. Y ngẫm nghĩ “Ta thân cô thế cụt ở chốn chiến trường xa xôi nên phải chịu, mai mốt trở về Đại Nguyên dứt khoát trả mối nhục này”.
Việc tổ chức sản xuất nông nghiệp không hề đơn giản, bọn lính chiến Mông Thát quen vung giáo mác giết chóc lại tỏ ra kém cỏi khi cầm cày cuốc vỡ đất, cho nên hiệu quả chẳng được như ý muốn. Tuy chúng chưa đến nỗi chết vì đói, nhưng tình trạng thiếu thốn lương thực vẫn thường trực suốt tám tháng trú đóng ở Ô Lý.
Đạo quân đói kém tại cực bắc Chiêm Thành thèm khát những cánh đồng chín rộ, những vườn cây trĩu quả ở bên kia biên giới, chúng thấp thỏm đợi ngày ồ ạt kéo sang lãnh thổ Đại Việt để ăn tươi nuốt sống mọi cái có thể tiêu hóa được.
Sự chậm trễ xuất quân của Toa Đô có nguyên do từ việc không nắm bắt kịp thời tín hiệu khởi sự. Chẳng những đoàn chiến thuyền tăng viện của Hốt Đô Hổ và Ô Mã Nhi không gặp được đồng đội Chiêm Thành, bộ sậu Toa Đô còn đen đủi khi toán truyền tin do thiên triều phái đi mất hơn hai tháng mới tìm thấy bọn họ. Thuyền liên lạc từ Đại Nguyên rời bến đầu tháng mười một, theo tính toán sẽ tới Chiêm Thành trong vòng hai mươi ngày, kịp truyền lệnh cho Giảo Kỳ, Toa Đô và Đường Ngột Đãi tiến đánh An Nam vào thượng tuần tháng chạp năm Giáp Thân. Chúng đến vùng biển Đồ Bàn đúng hạn kỳ song chẳng thấy một bóng dáng quân Nguyên, bèn xuôi thuyền xuống nam hàng trăm dặm rồi lại quay ngược lên phía bắc, men theo bờ biển dò tìm tung tích đối tượng. Đến ngày hai mươi tháng giêng năm Ất Dậu, bọn truyền tin mới phát hiện thấy đạo quân chinh phạt phương nam đang đói rũ ở vùng Ô Lý.
Ngày hai mươi hai tháng giêng, Toa Đô và Đường Ngột Đãi thống lĩnh mười vạn quân chia làm hai cánh tả hữu kéo vào phía nam Đại Việt. Đường Ngột Đãi và Lưu Khuê chỉ huy bốn đói ăn khát uống càn quét Bố Chính, vừa đánh dẹp sức đề kháng của ta vừa triệt để vơ vét lương thực, thực phẩm. Đãi huấn thị toàn quân “Cướp phá thỏa thê, lúa non cũng vặt cho hết, khoai củ bằng ngón chân cái cũng nhổ sạch cho vào bao, bắt được gà vịt thì chia nhau mà ăn, bắt được trâu bò thì giao cho quân lương xả thịt sấy vạn quân khô dự trữ”. Cơn lốc ma quỷ kéo đến đâu là tan hoang đến đấy, làng bản bị đốt phá tiêu điều, ruộng vườn bị tận thu xơ xác, vật nuôi bị bắt sạch, người nào chống đối là chúng thẳng tay sát hại.
Lực lượng của ta ở Bố Chính chỉ có năm ngàn quân dưới quyền Chỉ huy sứ Ngô Nhân Trú vốn đã lập phòng tuyến trên sông Nhật Lệ cản địch. Nước sông cạn, kị binh giặc dễ dàng băng qua tung hoành ngang dọc trận địa phòng thủ. Chiến binh Đại Việt chống đỡ không nổi, bị thương vong quá nhiều, Ngô tướng quân dẫn hơn nghìn tan binh rút chạy lên thượng nguồn. Vạn hộ Lưu Khuê dẫn quân truy kích. Giặc bắt được hai trăm chiến sĩ, trong số đấy có Chỉ huy sứ họ Ngô, Lũ hổ đói chẳng thiết tra khảo tù binh, vung đao giết sạch rồi hè nhau xông vào các làng bản kiếm cái ăn.
Sáu vạn quân dưới quyền của Toa Đô và Giảo Kỳ bỏ qua Bố Chính mà kéo thẳng ra châu Hoan rồi đụng độ với quân của Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang bên dòng sông La. Theo kế sách phòng thủ Hoan Diễn của môn khách dưới trướng, Quốc Khang không cố thủ trong thành Hoan Châu mà cho lập phòng tuyến từ xa để cản địch. Quân ta đóng cọc dưới sông và dựng trên bờ bắc nhiều chiến lũy bằng sọt tre đựng đất chồng lên nhau, lúc cũng có thể từ lũy đất xông ra, lúc thủ có thể náu mình tránh tên bắn.
Toa Đô tổ chức vượt sông ở ba đoạn, Quốc Khang hò quân đánh chặn đoạn giữa. Từ sau chiến lũy, các chiến binh bắn tên và dùng sào tre vót nhọn hất giặc xuống nước khiến chúng tử thương vô số. Không ngờ địch còn vượt sông ở hai chỗ khác nên quân ta dính đòn vu hồi, hơn một vạn binh sĩ Đại Việt bị giặc bao vây trong cái thế không còn đường rút.
Giữa lúc nguy cấp, Tĩnh Quốc Vương hô hào binh sĩ mở đường máu thoát hiểm. Trên tay lăm lăm gươm nhọn, Vương cưỡi ngựa nâu đi đầu cùng với ba trăm kị mã lăn xả vào đội hình giặc, bộ binh bám gót phía sau, giáo mác vung lên, đao kiếm bổ xuống, ta và địch chém giết nhau tơi bời, xác người vương vãi khắp cánh đồng hoang hóa. Hơn tám ngàn chiến sĩ vượt thoát theo chủ tướng rút chạy về hướng tây bắc, bỏ lại hai ngàn thân xác đồng đội trên bãi chiến trường ngập ngụa máu.?️
Quân Thát cũng bị tổn thất nặng nề lại thêm phần kiệt sức vì đói khát, Toa Đô quyết định không truy kích mà kéo quân vào thành Hoan Châu. Giặc thu được một kho lương đầy ắp, hí hửng không lo thiếu đói trong nửa tháng.
Tĩnh Quốc Vương dẫn quân về Diễn Châu để củng cố lực lượng và tuyển thêm quân. Biết thế thù quá mạnh, với binh lực tại chỗ khó mà chống được giặc, vương viết thư cấp báo với triều đình và cho người dân cáo thị khắp nơi kêu gọi dân chúng đầu quân cứu nước. Chỉ trong ba ngày, hơn năm ngàn trang đinh Hoan Diễn lũ lượt gia nhập đội ngũ của Trần Quốc Khang.
Thành Diễn Châu được dựng bằng gạch sống, cao hai trương, dài rộng mỗi chiều không quá năm chục trượng, án ngữ con đường độc đạo vào nam ra bắc vốn hình thành từ xa xưa. Trần Quốc Khang tổ chức phòng thủ Diễn Châu bằng thế kiềng ba chân, ông giữ lại trong thành non nửa quân số, lực lượng còn lại chia làm hai đội tả hữu đóng trại cách thành năm dặm, trong ngoài có thể ứng cứu lẫn nhau, nếu giặc vây thành thì các đội quân ở ngoài thành tập kích hậu quân địch để giải vây. Ông còn dặn dò hai tiểu tướng chỉ huy quân tả hữu là Phan Cương và Nguyễn Thế Bảo “Khi giặc công thành, các ngươi bí mật áp sát hậu quân địch, nghe hiệu lệnh của ta tức thời ào ra mà đánh. Nếu nguy cấp thì rút lên Trà Lân”.
Để lại hai vạn quân trấn giữ thành Hoan Châu và lập đồn trại ở các vùng lân cận, ngày hai mươi tám tháng giêng, Toa Đô chỉ huy gần bốn vạn binh tiến ra châu Diễn. Y đề nghị Giảo Kỳ đi thương thuyết. Gã thân vương dẫn theo hai hộ vệ đứng dưới thành Diễn Châu đòi gặp Quốc Khang. Tĩnh Quốc Vương từ trên cao hỏi vọng xuống:
– Ta là Trần Quốc Khang đại vương nước Nam, mấy người muốn hỏi gì?
Giảo Kỳ nói:
– Nghe danh vương bấy lâu, nay mới được diện kiến. Ta là Giảo Kỳ, cũng tước vương như ông, Sở dĩ đích thân đến đây là muốn bàn luận phải trái giữa hai người quý tộc tao nhã, tránh để bọn tướng lỗ mãng không thích dùng lời lẽ mềm mỏng lại đòi nói chuyện bằng đao kiếm.
Quốc Khang đáp:
– Nghe xưng danh ta đã hiểu vai trò thơm tho của ông trong đoàn quân đi cướp phá nước người. Đừng dài dòng nữa, có gì muốn trình bày thì nói cho nhanh.
Giảo Kỳ nói:
– Phụng mệnh thiên tử, ta dẫn quân đi hỏi tội Chiêm Thành, công việc đã hoàn tất, nay lên đường về nước, lại bị ông đem quân chặn đánh. Như vậy là muốn khiêu chiến với Đại Nguyên sao? Nếu mở cổng thành cho quân ta qua thì lỗi cũ không tính, binh sĩ đôi bên cũng không phải đổ máu. Nhược bằng chống lại, ta sẽ cho quân san phẳng thành này.
Quốc Khang cười lớn rồi bắt bẻ lại:
– Giọng điệu của ông chỉ lừa được con nít. Các ông đánh Chiêm Thành thì đi lối nào hãy về lối đó, cắc cớ gì phải kéo qua bản quốc? Muốn mượn đường sao không gửi thư hỏi trước mà lại bất ngờ đánh sang? Mấy người lính của ta từ Bố Chính chạy về cho biết, bầy Mông Thát các người còn ác hơn thú dữ, giết chóc cướp phá không chừa bất cứ thứ gì.
Giảo Kỳ chống chế:
– Chẳng qua đấy là lỗi của bọn lính vô kỉ luật, ta sẽ nghiêm trị. Nếu ông chấp nhận mở cổng thành, ta hứa sẽ không để xảy ra những chuyện như thế.
Quốc Khang bác bỏ thẳng thừng:
– Lời hứa của kẻ cướp, ai mà tin cho nổi. Đừng mơ chuyện ta mở cổng thành, có giỏi thì xông vào đây mà tự mở.
Giảo Kỳ đổi giọng quát nạt:
– Lũ Nam man dám thách thức thiên triều ắt chuốc vạ. “Rượu mời không uống, muốn uống rượu phạt”, khi ta chiếm được thành sẽ bêu đầu người trên cọc.
Tĩnh Quốc Vương phất tay làm hiệu, ba xạ thủ giương cung bắn, ba mũi tên cắm thẳng xuống đất cách mấy gã Mông Cổ không đầy hai bước chân.
Quốc Khang nói lớn:
– Người đến thương thuyết nên ta không giết. Cút xéo đi cho rồi.
Giảo Kỳ hú vía, vội cùng hai tên hộ vệ quay ngựa chạy thục mạng.
Toa Đô thúc quân xông lên đánh vào phía đông thành Diễn Châu, bọn khiêng mộc đi trước chắn tên, phía sau là đám lính vác thang công tường và chày gỗ phá cổng. Chờ cho địch tiến tới tầm xạ kích, Tĩnh Quốc hạ lệnh bắn tên cầu vồng, hàng trăm mũi tên bay vọt lên trời rồi xé gió lao xuống đội hình giặc. Nhiều đứa gục ngã, những đứa khác lại ào đến thế chỗ, quân giặc vẫn tiến không lùi. Sau loạt tên thứ ba, giặc đã áp sát chân thành. Hàng loạt thang bám vào tường, bọn Mông Thát ồ ạt trèo lên. Ở bên dưới, giặc dùng chày gỗ ra sức phá cổng.
Quân ta từ trên thành dùng giáo nhọn đâm giặc và lấy chạc gỗ đẩy thang bật khỏi tường cho lật nhào xuống. Chúng lại tiếp tục dựng thang leo lên. Tĩnh Quốc và các tướng lên cả mặt thành sát cánh với binh sĩ chống địch. Cổng thành bị phá sập, giặc chưa kịp ào qua thì đống củi tẩm dầu phía sau bùng cháy, lửa bịt kín lối vào, rồi hàng loạt tên bắn ra, xuyên qua ngọn lửa hạ gục nhiều thằng đứng lố nhố phía trước.
Hữu thừa Toa Đô cả giận khi thấy quân sĩ đánh không xong cái tòa thành con con bên trực tiếp chỉ huy một đội quân bất ngờ tấn công tường thành phía nam. Lực lượng của ta ở đấy thưa mỏng, sức kháng cự yếu ớt nên giặc leo được lên thành, hai bên giáp chiến kịch liệt, giành giật nhau từng gang tấc.
Tình hình cực kỳ nguy cấp, Quốc Khang quyết định tung lực lượng dự trữ vào trận. Tù và nổi lên inh ỏi, nhận được hiệu lệnh của chủ tướng, Phan Cương và Nguyễn Thế Bảo đồng loạt dẫn quân xông ra từ những lũy tre xanh đánh thẳng vào sau lưng địch. Bị tập kích bất ngờ từ hai phía, bọn giặc luống cuống chống đỡ. Giảo Kỳ ngồi ở trung quân vô cùng hoảng loạn mà chẳng biết dụng binh phản đòn đánh nhảy lên mình ngựa giục quân tháo chạy. Quân của Cương và Bảo đánh ngang đả dọc, giết địch vô số rồi hò nhau đuổi theo bọn Giảo Kỷ.
Thấy Giảo Kỳ bị tập kích, Toa Đô vội thu binh, quay về giải cứu đồng bọn. Quân trong thành thoát hiểm, Quốc Khang tập hợp đội ngũ, thu gom vũ khí, đốt kho lương rồi rút qua cửa tây lên vùng núi Trà Lân.
Giảo Kỳ dẫn quân chạy được mười dặm thì gặp đạo quân của Đường Ngột Đãi đang hành binh trên đường. Chúng hợp quân và tổ chức phản công, bọn Toa Đô cũng đang ập đến, lực lượng của ta rơi vào tình thế bị ép từ hai phía. Phan Cương và Nguyễn Thế Bảo liền rút chạy theo hướng tây. Giặc kéo về công phá thành Diễn Châu, không ngờ quân ta đã đi hết.
Trần Nhật Duật hội quân với Trần Quốc Khang ở Trà Lân. Hai huynh đệ bàn tính kế hoạch đánh giặc. Nhật Duật cho rằng:
– Bọn Toa Đô, Đường Ngột Đãi đang khẩn trương mở đường để tiến ra bắc, tất vùng chúng chiếm được ở phía sau sẽ lỏng lẻo khó giữ cho chặt. Giặc tập trung ở Diễn Châu thì ta đánh Hoan Châu, buộc chúng phải quay về tiếp ứng. Bấy giờ kế hoạch hành binh của địch bị chậm trễ, Thượng hoàng và Quan gia ở Thiên Trường cũng giảm được áp lực từ phía nam.
Trần Quốc Khang nhất trí với kế sách của người em. Các vương chia quân làm hai cánh từ núi Trà Lân kéo xuống vùng đồng bằng ven biển. Mấy ngàn quân của giặc lập trại đóng đồn rải rác nhiều nơi đều bị quân ta diệt sạch. Thừa thắng, Quốc Khang và Nhật Duật đem quân bao vây thành Hoan Châu. Nghe tin cấp báo, Toa Đô và Đường Ngột Đãi dẫn theo năm vạn quân quay vào Nghệ An đánh dẹp, giao Diễn Châu cho Giảo Kỳ trấn giữ.
Nhật Duật và Quốc Khang lui binh né giặc, khi đêm xuống lại bất ngờ đột kích vào trại của Đường Ngột Đãi, đánh phá tơi bời rồi nhanh chóng rút đi. Trong trận ấy Phạm Thái và Lô Viên Dũng đã có công lớn khi cùng toàn thám báo đột nhập trại giặc hạ thủ bọn tuần tiễu, mở lối cho quân ta xông vào.
Sáng hôm sau, Đường Ngột Đãi nói với Toa Đô:
– Hữu thừa chắc vẫn không quên những ngày quần thảo với bọn quốc vương Đà La Bạt Ma khiến ta vừa mệt mỏi lại vừa thua thiệt mà chẳng được tích sự gì. Nếu cứ quanh quẩn ở đây thì ta lại rơi vào tình thế giống ở Chiêm Thành.
Toa Đô nói:
– Đúng vậy. Cứ dây dưa đánh dẹp thì cả năm chưa chắc đã bình xong bọn kháng cự. Theo hẹn, ta đã quá trễ để hội quân với Trấn Nam Vương. Bỏ quách đất này cho rồi.
Đường Ngột Đãi hào hứng nói:
– Hiện ta chỉ còn hơn chín vạn binh, nếu để hao tổn thêm nữa thì mặt mũi nào mà trình diện Trấn Nam Vương. Vậy nên thu xếp lên đường cho sớm.
Quân Nguyên rút khỏi Nghệ An ngay trong ngày, trên đường hành binh qua Diễn Châu chúng rút cả quân đang trấn giữ ở đấy. Một vùng lãnh thổ từ Hoan Diễn trở vào lại thuộc về ta.
Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư kéo binh thuyền vào đến Nghệ An thì nghe tin giặc đã đánh ra Thanh Hóa. Chiêu Minh đề nghị Tĩnh Quốc và Chiêu Văn lựu binh trấn thủ Hoan Diễn, củng cố lực lượng, tăng cường phòng bị và phủ dụ dân chúng khôi phục sản xuất để có lương thực dành cho kế sách lâu dài. Còn ông và Nhân Huệ đem quân ra Thanh Hóa chặn giặc.
Nhật Duật không vui, phàn nàn rằng:
– Có Tĩnh Quốc ở đây là được rồi, huynh kêu đề án binh thì khác nào bảo con nhà lính đi trong vườn rau trong khi kẻ cướp đang hoành hành ngay trước mũi.
Quang Khải cười rồi nói:
– Hoan Diễn như người vừa khỏi ốm nhưng chưa lại sức, nếu giặc quay lại thì Tĩnh Quốc không đủ quân chống đỡ. Đệ trường chinh từ tây bắc vào tận trong này, lực lượng hẳn suy kiệt nhiều, nên cho binh sĩ nghỉ ngơi và tranh thủ tuyển thêm quân. Một vài tháng sau, tình hình Hoàn Diễn ổn định thì đệ có thể kéo quân ra bắc.
Nhật Duật tiếp tục phàn nàn:
– Đến lúc ấy chắc gì còn giặc mà đánh.
Khánh Dư góp lời:
– Ta có kề cận Hưng Đạo Vương một thời gian, theo ngài ấy thì nhất đến đầu mùa hạ quân ta mới tổng phản công, huynh vẫn thừa cơ hội đánh giặc.
Quốc Khang bảo:
– Có Chiêu Văn ở đây ta cũng yên tâm hơn, Thái sư đã nói vậy thì đệ nên nghe theo.
Quang Khải nói:
– Hoan Diễn phải dự tồn binh lương để dùng khi đánh lớn. Theo ta, Hưng Ninh ở lại trong này ít tháng trợ giúp Tĩnh Quốc và Chiêu Văn bổ sung lực lượng, tích trữ lương thảo.
Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung đáp:
– Ta theo ngài đi đánh giặc bây giờ lại bảo đi gom lương. Thế là Chiêu Văn thành gã trông vườn rau còn ta thành kẻ mót ruộng thóc.
Mọi người cùng cười vui vẻ. Quốc Khang nói đùa:
– Chiêu Minh cũng khéo lựa người. Hưng Ninh ăn chay nên không tốn kém, nếu giao cho Nhân Huệ thì sợ y ăn sạch gà lợn.
Các vương hầu lại cười như nắc nẻ. Một chút thư giãn hiếm hoi trong những ngày dài đau thương và uất hận.
Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện tuổi đời chưa đầy ba mươi nhưng trên danh nghĩa là cháu đích tôn của Thái Tông hoàng đế nên được triều đình vì nể mà giao trọng trách trấn thủ Thanh Hóa. Trong tay Kiện có hơn chín ngàn quân, ngoài ra còn có gần ba ngàn gia binh của các quý tộc trong vùng, như vậy lực lượng không phải là quá yếu. Vậy mà lúc bọn Ô Mã Nhi kéo binh thuyền vào Ngu Giang thì quân của Kiện chưa đánh đã tháo chạy. Tướng bạc nhược tất quân yếu hèn, Chương Hiến vì tham sống sợ chết nên không dám đương đầu với giặc dữ, trách sao được đám binh sĩ bỏ chiến lũy tìm cách thoát thân. Ô Mã Nhi không chiếm Ái Châu mà chỉ dụng phép du binh đổ quân vào cướp phá rồi chuyển hướng tiến ra bắc nhưng cũng để lại một trải nghiệm về sức mạnh của quân Nguyên đủ khiến cho tinh thần của Kiện suy sụp.
Sau trận đấy, Trần Kiện bàn bạc với bọn tùy tướng và môn khách:
– Quan gia bị thiên tử triệu tập lại chẳng chịu vào chầu, khiến Đại Nguyên nổi giận gây việc binh đao. Nước mất nhà tan là việc nhãn tiền vậy mà còn chấp mê, không tỉnh ngộ.
Môn khách Lê Tắc hỏi:
– Chủ nhân dự tính thế nào?
Trần Kiện nói:
– Nhân bất vị kỉ, thiên tru địa diệtNgười không vì mình, trời tru đất diệt. Không lẽ chấp nhận gánh chịu hậu quả từ thái độ ngạo mạn, ngu xuẩn của phụ tử Quan gia và triều đình hay sao? Dứt khoát phải tìm một con đường sống cho ta và các ngươi.
Triệu Mạnh Tín, một viên quan nhà Tống sang thần phục Đại Việt được cất nhắc làm chức Đô thống dưới trướng Trần Kiện, kể lể nỗi niềm:
– Trước kia họ quan cũng vì khư khư tiết tháo mà bỏ nước ra đi cho trọn đạo trung can với cựu Tống, lỡ mất cơ hội được tề tựu dưới ánh dương chói lọi của thiên tử Đại Đô, lúc hối lại thì đã muộn. Nay chiêm nghiệm mới thấy, khi vật đổi sao dời mà còn níu giữ cơ đồ đang chìm đắm thì tự mình hại mình. Nhìn cái gương của tại hạ có lẽ cũng giúp được đại nhân biết phải làm gì cho thức thời.
Thấy thuộc hạ đều tâm đắc với việc trở giáo quy phục ngoại bang, Trần Kiện mừng lắm, bèn nói:
– Như vậy là chúng ta đã trên dưới đồng lòng nương bóng phương Bắc, đây là lựa chọn hợp thời để bảo toàn tính mạng của mình và gia quyến. Khi người Nguyên quay lại Thanh Hóa, các ngươi hãy cùng ta đến trình diện, xin theo về với đại nghĩa của thiên tử.
Lê Tắc nói:
– Việc này nên giữ kín khi chưa có thời cơ thực hiện. Trong quân tất có kẻ thủ cựu, nếu biết được ý đồ của chủ tướng, chúng sẽ tự nhau gây biến.
Viên Lang tướng họ Diệp, một kẻ đồng tộc, đồng cảnh ngộ với Triệu Mạnh Tín, hiến kế:
– Theo tại hạ, các vị chỉ huy cần bí mật sàng lọc những người cùng chí hướng. Khi cơ sự đến, ta sẽ dẫn họ theo Nguyên, bọn còn lại bắt nộp vũ khí rồi đuổi cổ về. Kẻ nào ương ngạnh chống đối thì bắt giao cho người Nguyên để họ xử lý.
Triệu Mạnh Tín lên tiếng:
– Bắt được kẻ muốn nổi loạn thì giết quách đi, việc gì phải giao nộp cho phiền thức.
Trần Kiện xua tay, mà rằng:
– Ta hiểu ý Lang tướng. Nếu giết những người vốn là lính của mình thì mang tiếng ác, chi bằng để người Nguyên ra tay. Việc đến đây coi như đã thông suốt, các ngươi cứ theo thế mà tiến hành.
Đoàn quân của Toa Đô và Đường Ngột Đãi hạ trại cách thành Thanh Hóa ba mươi dặm để binh sĩ nghỉ ngơi trước khi vào trận đánh mới. Sáng hôm sau, Trần Kiện dẫn theo bốn mươi quan tướng và môn khách, bỏ mũ xõa tóc, không mang binh khí đến trước trại xin cầu kiến. Tướng Nguyên gọi vào, bọn người tham sống sợ chết theo tuần tự cao thấp mà quỳ gối giữa sảnh. Hai tay nâng ấn tín, Kiện lên tiếng bày tỏ:
– Tại hạ là Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện, trọng nhậm trấn thủ Ái Châu, vì bất bình thái độ bội tín của quốc vương đối với thiên tử nên cùng toàn thể tướng sĩ nội thuộc xin theo về dưới cờ chính nghĩa của đại quốc. Để chứng tỏ lòng thành, nay dâng lên các ngài ấn tín trưởng phủ.
Do đã bàn định từ trước, Giảo Kỳ, Toa Đô và Đường Ngột Đãi cùng bước tới đỡ Trần Kiện dậy, ra chiều ân cần, trọng thị. Gã thân vương vồn vã nói:
– Thượng hầu đã vô cùng sáng suốt khi quyết định về với thiên triều. Ta sẽ sớm thông báo cho Trấn Nam Vương để ngài trình tấu lên hoàng đế thưởng công ban tước. Rồi sẽ có ngày rồng mây gặp gỡ, bấy giờ tha hồ mà hưởng công danh phú quý.
Toa Đô hỏi:
– Ngài đem được bao nhiêu quân về theo?
Trần Kiện ấp úng đáp:
– Tại hạ... chưa kiểm đếm cụ thể nhưng ước tính cũng có đến... hàng ngàn.
Đường Ngột Đãi ra vẻ hồ hởi:
– Hảo ý, hảo ý! Như vậy cho thấy nhiều người An Nam vẫn có lòng hướng về phương Bắc.
Toa Đô giữ thái độ cẩn trọng, mà rằng:
– Nay bọn ta tạm thời giữ ấn tín. Việc chiêu hồi cũng nên làm lễ trọng thể. Một nửa thuộc hạ của ngài ở lại trong quân doanh để bàn bạc nghi thức tiến hành, còn lại theo ngài về nhiệm sở kiểm kê binh sĩ, khí giới và lương thực, hẹn vài ngày nữa giao nộp chính thức.
Hai mươi quan tướng của Trần Kiện bị giữ lại, những người khác theo y về thành. Kẻ ở lại thì hoang mang, người được về thì chưng hửng, không ít trong số ấy cảm nhận ra con đường hàng Nguyên cũng gập ghềnh như tâm địa của họ. Nằm trong số bị giữ lại, lúc được mời tới “nghỉ dưỡng” ở một khu lều có lính canh vòng trong vòng ngoài, Triệu Mạnh Tín vô cùng kinh hãi, đang tiết giá mà mồ hôi vã đầm mặt mũi, hắn sợ quá khứ hận Nguyên bị phát giác, bấy giờ có khác gì tự nguyện chui đầu vào rọ.
Khi lũ người Nam đã ra khỏi bản doanh, Giảo Kỳ thắc mắc:
– Họ thật lòng về hàng, còn nộp cả ấn tín làm bảo chứng, sao Hữu thừa còn chưa tin tưởng?
Toa Đô đáp:
– Khi ta hỏi có bao nhiêu quân về theo thì thấy Trần Kiện ấp úng nên sinh nghi, mới dùng chiêu giữ người làm con tin.
Đường Ngột Đãi nói:
– Cẩn thận không thừa. Đề phòng kế trá hàng, theo ta khi chúng giao quân nên chia thành từng toán nhỏ cho về các lữ làm lao dịch.
Trở về thành, thấy thuộc hạ xầm xì về cách hành xử hồ nghi của tướng Nguyên, Trần Kiện trấn an:
– Cũng phải thôi, họ chưa hiểu bụng ta nên mới khắt khe giữ người làm tin. Nếu có dịp để ta bày tỏ chân tình thì sự dè dặt của họ sẽ được giải tỏa.
Có tên thủ tục đến thầm thì vào tai chủ tướng. Mắt Trần Kiện sáng rỡ lên, vội cho bãi nghị, chỉ giữ lại vài kẻ thân tín nhất. Người liên lạc của Thái sư Trần Quang Khải đã chẳng hề mảy may nghi ngờ điều gì khi bước vào trình diện Chương Hiến Thượng Hầu để giao mật thư của Chiêu Minh Vương.
Xem xong thư, Kiện nói với liên lạc:
– Người về báo với Thái sư, ta sẽ xuất binh đúng hẹn.
Anh lính truyền tin vừa lui gót, Kiện sai ba gã thủ tục tin cậy “Bám theo sau, đến chỗ vắng thì hạ thủ”. Rồi y giải thích với đồng bọn “Nó ra khỏi dinh biết đâu lại nghe được tin đồn gì đó. Để tránh hậu họa, không thể không giết”.
Ngay trong buổi chiều hôm ấy, Kiện vận giáp binh dẫn theo một chục quan tướng tâm phúc phóng ngựa đến trại của Mông Thát. Trình cho tướng Nguyên thư của Quang Khải, Kiện nói:
– Đây là dịp để tại hạ bày tỏ lòng trung với thiên triều. Do trấn nhậm nhiều năm nên đường nẻo ở xứ Thanh tôi thuộc như lòng bàn tay. Mong các ngài chớ bỏ qua cơ hội này.
Bọn tướng Nguyên cả mừng, bèn cắt cử nhau hành sự. Đường Ngột Đãi giữ trại, đề phòng bị đánh lén. Toa Đô, Giảo Kỳ và Lưu Khuê đầu lĩnh sau vạn quân được Trần Kiện dẫn đường ngay trong đêm quay về phía nam Thanh Hóa bất ngờ tập kích vào đội hình của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải.
Trước nay Giảo Kỳ thường né chuyện gươm đao, nhưng lần này đi đánh úp quân tĩnh chứ không phải cản đường chống quân tiến khiến y cũng đỡ run phần nào nên nằng nặc đòi tham gia để chứng tỏ là người dũng khí. Biết Giảo Kỳ đi theo chỉ quẩn chân, nhưng dù sao hắn cũng là thân vương, Toa Đô đành miễn cưỡng chấp thuận.
Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải từ Nghệ An ra Thanh Hóa bằng binh thuyền nên chỉ đến sau bọn Toa Đô một ngày. Hạm thuyền của ngài vào cửa Lạch Ghép ngược dòng sông Yên hai mươi dặm thì dừng lại rồi chia quân trấn giữ các vị trí xung yếu.
Do không nắm được thông tin về mưu đồ bội phản của bọn Trần Kiện, Chiêu Minh Vương đã cử liên lạc cưỡi ngựa luồn rừng vượt qua khu vực Mông Thát chiếm đóng để móc nối với y, hẹn ba ngày nữa cùng khởi sự, dưới đánh lên, trên đánh xuống, bao vây tiêu diệt đạo quân của Toa Đô và Đường Ngột Đãi. Chẳng dè kế sách của ngài bị phá sản bởi sự đầu hàng bọn ngoại bang xâm lược của phần lớn những kẻ nắm giữ quyền lực ở xứ Thanh vì ươn hèn mà chấp nhận bán nước cầu an.
Hành binh được vài chục dặm thì phát hiện thấy mấy lán trại nho nhỏ của quân ta đóng trong khu rừng rậm rạp bên bờ kênh Nhà Lê, Toa Đô cho rằng không bõ đánh, Giảo Kỳ lại nằng nặc đòi xung trận. Y sai Trần Kiện giả vờ đến chào hỏi rồi cho hai ngàn quân âm thầm bao vây trại. Quân ta tiếp đón bọn Kiện trong tâm thế “người nhà” nên chủ quan không đề phòng, bị giặc bất ngờ ào tới chém giết sạch. Hai tiểu tướng là Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng kiên cường chống trả, nhất quyết không đầu hàng, trước lúc trút hơi thở cuối cùng còn chửi Kiện “Bán rẻ lương tâm, nối giao cho giặc”. Họ là chánh, phó chỉ huy một phân đội tiên phong hơn trăm người được Chiêu Minh Vương giao nhiệm vụ luồn vào sát nách giặc để điều nghiên lực lượng Mông Thát.
Giảo Kỳ rất tự đắc trước chiến công đầu tiên, luôn miệng khoe khoang về thanh gươm chặt xương như chém bùn khiến hơn chục tên lính An Nam chết không kịp ngáp. Trần Kiện hí hửng rỉ tai với Lê Tắc “Ngươi nhớ ghi lại ngày giờ hôm nay, để mai mốt còn bẩm báo với Trấn Nam Vương”. Toa Đô đã thật sự tin tưởng Trần Kiện, y cho rằng nội việc thu phục được nhân vật trọng yếu này của đối phương cũng đáng coi là một chiến công lớn trong cuộc chinh phạt phương Nam mà Nguyên sử không thể bỏ qua.
Giặc tiến đánh trại binh của ta nằm trên bờ bắc sông Yên lúc canh tư. Bị tập kích bất ngờ, quân Đại Việt rơi vào tình thế hỗn loạn, các tướng không thể kiểm soát đội ngũ nên sức chống trả yếu ớt, dẫn tới thương vong vô số. Trong cơn binh lửa tứ bề, xác người chết như ngả rạ, chỉ huy Chiêu Hiếu Vương và quan Đại liêu tên Hộ dẫn tàn quân chạy thoát ra ngoài lại rơi vào ổ phục kích của Trần Kiện. Hai vị quan tướng Đông A bị giết bởi những kẻ phản phúc cùng huyết thống. Trần Khánh Dư đóng cách đấy năm dặm kéo quân đến ứng cứu thì sự đã rồi, song ông cũng giải thoát được hơn một ngàn chiến binh bị giặc Nguyên bao vây truy sát.
Trần Quang Khải trú đóng dưới thuyền, thấy trên bờ đang chiến sự ác liệt, bèn tập hợp lực lượng xông lên tiếp cứu. Các cánh quân của Tả Thiên Vương Trần Đức Việp, Văn Túc Vương Trần Đạo Tái và Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh cũng kịp thời kéo đến. Đôi bên giao tranh quyết liệt cho tới khi ánh rạng đông le lói chân trời. Bị quân ta chia cắt đội hình và đánh bật ra khỏi triền sông, Toa Đô vội lui binh rút chạy về hướng bắc. Do thiệt hại nặng nề, Quang Khải không tổ chức truy đuổi mà cho quân thu dọn chiến trường và cứu chữa người thương tích.?
Sau trận đánh, Chiêu Minh Vương nói với các tướng:
– Ta đau tận gan ruột khi chứng kiến Trần Kiện dẫn quân Nguyên đến vây đánh. Tổn thất này không chỉ đo đếm bằng số thương vong, nó còn ảnh hưởng đến tinh thần binh sĩ, khiến họ hoang mang dao động mà nản chí đánh giặc. Thanh Hóa đã mất, không còn ai cản đường, bọn Toa Đô tất kéo ra Trường Yên. Vài ngày nữa ta sẽ rút quân về Thiên Trường, vừa củng cố lại lực lượng vừa giúp Quan gia tăng cường binh lực.
Tại lễ “giao quân” của Trần Kiện, chỉ có hơn một ngàn binh sĩ theo chủ hàng giặc. Trong số hai mươi quan tướng được Toa Đô cho về sau buổi trình diện lần đầu, có tám người “hồi tâm chuyển ý” bỏ trốn lánh nạn, không góp mặt trong đám phản phúc. Thôi thì không có gan cầm gươm đánh giặc, cứ chui nhủi ở xó xỉnh nào đó cho yên thân còn hơn làm chó săn cho Thát tàn hại người mình. Về sau, khi đã quét sạch giặc Hồ, triều đình cũng xét theo cái tình lý ấy mà tha tội chết cho họ.
Tin tức Trần Kiện Cầu Nguyên rồi dẫn đường cho giặc tấn công lực lượng của Trần Quang Khải đến tai Trần Quốc Khang. Ban đầu Tĩnh Quốc không tin, cho rằng đây là chiêu trò của bọn Mông Thát nhằm ly gián nội bộ Đại Việt, đến khi nhận được thư của Chiêu Minh, bấy giờ ngài mới ngã bổ chủng, đoan chắc đứa con đầu lòng của mình đã gây nên tội lỗi tày đình đối với xã tắc, tiên tổ.
Quốc Khang suy sụp tinh thần, đóng cửa ở trong phòng ba ngày ba đêm, gia nhân gọi dâng cơm cũng không chịu mở. Viên thư lại của ngài hoảng sợ quá bèn chạy tới bản doanh của Trần Nhật Duật cấp báo. Nhật Duật và Quốc Tung với phóng ngựa sang dinh Quốc Khang, nhưng chờ cả canh giờ vẫn không được tiếp. Hai ông bèn xộc đến thư phòng, đứng ở trước cửa mà tỉ tê khuyên nhủ. Mãi sau mới thấy Tĩnh Quốc nói vọng ra “Chiêu Văn và Hưng Ninh về đi, ta chẳng sao cả. Bây giờ đầu óc chưa tỉnh táo nên không muốn gặp ai, mai mốt tĩnh trí ta lại cùng mấy người đàm đạo”. Hai vương đành lủi thủi ra về, mang theo tâm trạng bất an trước tình cảnh cốt nhục phân rã, kẻ đớn hèn đang tâm hàng giặc phản quốc, người trung can ôm mối tủi nhục xa lánh sự đời.
Sáng sớm hôm sau, Quốc Khang mở cửa bước ra, gọi thuộc hạ chuẩn bị ngựa cho ngài. Mấy chủ tớ phóng đến Hoan Đường, nơi có đền thờ Mai Hắc Đế ở dưới chân núi Vệ Sơn. Dừng ngựa trước đền, Tĩnh Quốc bảo ông từ dẫn xuống hậu tự để thay áo xống. Ngài cởi bỏ quan phục, chỉ mặc trên mình bộ vải gai thô ráp, tóc xõa như tội đồ, đi chân không ra chính điện hành lễ. Sai gia nhận thắp hương ban bệ và rót rượu vào bát, còn vương rút đoản kiếm đeo ngang hông, cứa mũi nhọn vào lòng bàn tay cho máu chảy đỏ lòm bát rượu rồi quỳ gối trước điện thờ, hai tay nâng bát, miệng khấn oang oang:
– Bản chức là Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang trọng nhậm trấn thủ Hoan Diễn, thuộc dòng dõi Đông A, quá nửa đời tận tụy phò tá huyết thống chủ quản Đại Việt, nay quỳ trước linh vị đấng tiền nhân Mai Hắc Đế uy vũ để cầu khẩn ngài chứng giám cho lời nguyền của tôi.
Nói đến đấy, Tĩnh Quốc nghẹn lời, nước mắt chảy dài trên gò má rồi cố nén nức nở mà bật ra nỗi niềm xa xót:
– Tôi có cốt nhục là Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện, vốn được thúc bá, huynh đệ trong hoàng tộc đùm bọc khi ấu thơ, tin dùng khi phương trưởng, cho áo mũ xênh xang, cho quyền cao chức trọng. Vậy mà nó tráo trở tâm can, bội bạc ơn nghĩa, vì tham sống sợ chết nên về hàng giặc phản vua hai nước, lại còn bất chấp đạo lý dẫn đường cho chúng đánh đuổi cha vợ là Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Cũng do bản chức giáo huấn bất nghiêm, không biết kiềm tỏa dục vọng con trẻ khiến nó sinh lòng phản trắc. Nay thấy nhục với vua với nước đành cắt khúc ruột thối tha của mình thay cho sự tạ tội. Xin uống cạn bát rượu hòa huyết mà thể trước anh linh của ngài: Quốc Khang vĩnh viễn đoạn tuyệt với đứa con này, truất quyền nối dõi tông đường dù nó sống hay chết.
Nói đã cạn lời, vương ngửa cổ uống sạch bát rượu rồi đứng dậy vung tay quẳng bát ra ngoài sân để cho vỡ tan làm nhiều mảnh. Lúc bước ra về, ngài còn lầm bầm cửa miệng “Bát vỡ làm sao gắn, ruột cắt làm sao nối? Ta mất ngươi rồi, Kiện ơi!”.
Thiên hạ nói “hổ phụ sinh hổ tử”. Tiếc thay, Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang tuy không phải bậc kì tài cái thế nhưng cũng là lương đống trung thần, vậy mà lại sinh ra một kẻ ươn hèn bạc bẽo, làm ô nhục dòng giống Đông A lẫy lừng. Kể từ đấy vương ít tham gia chính sự mà ẩn mình trong thế giới riêng ở xứ Hoan Diễn cho đến cuối đời.
Nghe tin bọn Giảo Kỳ, Toa Đô kéo ra uy hiếp Trường Yên, Thoát Hoan cho rằng thời cơ đã đến, bèn rầm rộ khởi binh từ Thăng Long tiến đánh Thiên Trường. Y chắc mẩm với lực lượng hơn bốn mươi vạn tinh binh ép lại từ hai phía như hai gọng kìm sẽ sớm bóp nát cứ địa của Trần gia, không diệt cho sạch thì chí ít cũng phải bắt cho được bọn chúa Nam man dám khinh lờn uy vũ của thiên triều.
Trung tuần tháng hai, được cấp báo quân của Thoát Hoan đến Đại Hoàng, lực lượng của ta đã rút quân để tránh tổn thất, Quan gia bàn bạc với các quan:
– Giặc đang ép ta hai đầu, chúng đông hơn ta gấp ba lần. Quân của Hưng Đạo ở đông bắc, khó bề ứng cứu kịp thời. Quân của Chiêu Minh ở Hoan Ái, đến bây giờ cũng chưa nhận được tin tức. Ai có kế sách đối phó, hãy trình bày để mọi người cùng bàn tính.
Chiêu Thành Vương nêu ý kiến:
– Thiên Trường có hệ thống phòng thủ vững chắc, lực lượng của ta thừa sức kìm chân giặc nhiều ngày. Theo thần, một mặt ta cố thủ Thiên Trường, mặt khác cấp báo cho Hưng Đạo điều quân từ Vạn Kiếp đánh vào hậu quân của Thoát Hoan, cấp báo cho Chiêu Minh dẫn quân từ Hoan Ái ra tập kích vào phía sau bọn Toa Đô. Giặc vây ta thì ta vây lại chúng, bấy giờ quân Thiên Trường đánh nống ra, thế trận của Mông Thát tất vỡ.
Lê Văn Hưu cho rằng:
– Việc cố thủ ở Thiên Trường là thất sách. Thế giặc đang mạnh, quân của chúng đông hơn gấp nhiều lần, nếu giữ cả Trường Yên thì không đủ binh lực, nếu rút khỏi Trường Yên thì Thiên Trường hở bụng. Bấy giờ giặc sẽ có điều kiện hội quân bao vây Thiên Trường, lúc ấy ta khó mà toàn vẹn.
Nhân Tông hỏi:
– Như vậy là khanh muốn rút, nhưng rút theo đường nào?
Văn Hưu nói:
– Theo thần nên rút ra biển. Có hai hướng để lựa chọn; thứ nhất là đưa binh thuyền về phương nam, tại Hoàn Diễn lực lượng của Tĩnh Quốc Vương đã làm chủ tình thế; thứ hai là rút binh thuyền lên đông bắc, đến trú đóng ở Hải Đông, hội quân với Hưng Đạo Vương.
Quan gia còn trù trừ chưa quyết thì có liên lạc từ Hoa Lư ra. Nhân Tông cho gọi vào, quân hiệu dâng thư của Tiền điện chỉ huy sứ Lê Mạnh thống lĩnh quân Thần Sách trấn giữ Trường Yên. Hoàng thượng đọc thư mà biến sắc mặt, khiến quần thần lo sợ có điều bất ổn. Vua ngồi chết lặng trên ghế, đôi mắt phân vân nhìn quan tướng như muốn dò xét tâm trạng của bề tôi. Hồi lâu sau ngài nói:
– Cái kim giấu trong bọc trước sau cũng lòi ra, chi bằng cho các khanh biết trước để khỏi bàng hoàng mà xác định thái độ trung thành với trẫm và tận tụy với sơn hà xã tắc. Nguyễn Thuyên hãy đọc thư để mọi người cùng nghe.
Thượng thư Nguyễn Thuyên vâng lệnh, lên nhận thư rồi đọc lớn.
Thư của Lê Mạnh viết “Nhiều binh sĩ từ Thanh Hóa chạy ra xin tòng quân Thần Sách. Thần hỏi nguyên do, chúng cho biết Trần Kiện đã dẫn quan tướng dưới quyền và hàng ngàn binh sĩ về hàng Nguyên, còn đưa đường cho giặc đánh úp quân của Chiêu Minh Vương. Bọn chúng không chấp nhận đầu hàng nên rủ nhau trốn ra bắc để theo vua đánh giặc. Xứ Thanh bỏ ngỏ, giặc rộng đường uy hiếp Trường Yên, thần đã chia quân cố thủ Tam Điệp nhưng sức giặc quá mạnh, khó bề giữ lâu. Nay thần cấp báo với hoàng thượng để người có kế sách đối phó...”.
Thuyên vừa đọc xong, đình thần đồng loạt quỳ mọc trước sảnh mà hô vang “Chúng thần tận trung với hoàng thượng, quyết không phản vua hai nước như Trần Kiện”, Thượng hoàng Thánh Tông từ phía trong bước ra, nói với các quan tướng:
– Các ngươi đứng lên đi, bày tỏ như vậy là đủ rồi. Chỉ xưng tụng suông đâu phải là trung thần.
Mọi người tung hô vạn tuế rồi lồm cồm đứng dậy, ai về vị trí nấy. Thánh Tông lại nói:
– Ta ở phía trong đã nghe cả nên cũng buồn lòng như quân thần ngoài này. Nghĩ mà tội nghiệp cho Quốc Khang, khi có thằng con sẵn sàng xả thịt ninh xương cha chú để bồi bổ cho giặc. Ta cấm tiệt, đừng ai nhắc đến tên này nữa. Lúc nãy nghe các ngươi hiến kế lui quân, vậy đã quyết lui về đâu chưa?
Nhân Tông đáp:
– Bẩm phụ hoàng, dự định rút bằng đường biển, còn phương hướng vẫn đang bàn.
Đinh Củng Viên lên tiếng:
– Theo thần, tình hình này không nên rút về nam, châu Ái đã mất, châu Diễn ở kề giặc, còn châu Hoan thì quá xa. Rút ra Hải Đông vừa gần lại có nhiều ngả sông khiến giặc không biết đâu mà lần, Hưng Đạo cũng đóng quân ở ngay đấy, binh lực của ta sẽ mạnh hẳn lên.
Đỗ Khắc Chung có chủ ý:
– Giặc đang ở sát ta, nếu ồ ạt rút quân tất chúng sẽ thừa cơ truy kích. Chi bằng vừa đánh vừa rút theo lối cuốn chiếu, không nên rút đồng loạt các cứ điểm, chỗ xa rút trước, chỗ gần rút sau, tuần tự mà rút sẽ tránh được sự náo loạn trong quân, lại khiến giặc không thể cơ động đuổi đánh.
Thánh Tông nói:
– Kế này hợp lý, nên dùng. Việc rút thế nào, bệ hạ cần sắp xếp cụ thể.
Nói rồi ngài quay gót về hậu cung, chẳng cho quần thần tung hô bái biệt. Quan gia tranh thủ truyền lệnh:
– Việc rất khẩn cấp, các thanh nghe đây: Truyền cho vệ quân và lộ quân ở Trường Yên giữ Tam Điệp thêm ba ngày rồi lần lượt rút về cửa Đại An. Cử Nguyễn Thuyên điều động hai trăm chiến thuyền đến cửa Đại An đón quân Trường Yên rồi theo đường biển tập kết về Hải Đông. Cử Nhân Túc Vương Trần Toản tăng cường cho Chương Hoài Thượng Hẩu Trần Lộng đang trông coi hướng bắc, cử Chiêu Thành Vương đôn đốc quân của Văn Nghĩa Hầu Trần Tú Hoãn đang trông coi hướng tây bắc, cử Đại phu Nguyễn Nhuệ giúp sức cho Trương Hiến Hầu Trần Dương đang trông coi hướng tây. Các khanh đều mang trọng trách đốc thúc lực lượng cản địch và thu xếp việc rút quân. Giao cho Đinh Củng Viên và Lê Văn Hưu chuẩn bị binh thuyền tại cửa Giao Hải, huy động thêm thuyền bè của ngư dân tham gia vận chuyển binh sĩ.
Quân hầu vào báo có người của Hưng Đạo cử đến. Nhân Tông kêu vào, liên lạc dâng thư lên, ngài đọc xong bàn cười to, mà rằng:
– Tiết chế thật tinh tường, biết ta sẽ rút quân lên Hải Đông nên cho bọn Phạm Ngũ Lão túc trực ở cửa An Bang đề phòng bất trắc.
Quan tướng phụng mệnh, khẩn trương lên đường làm nhiệm vụ. Riêng Nhân Túc Vương và Chiêu Thành Vương được quan gia giao mật chỉ:
– Các khanh tuyệt nhiên không được hé lộ kế hoạch và địa điểm rút quân cho bọn Trần Lộng và Trần Tú Hoãn hay biết. Việc đến đâu thì hãy thông báo đến đó. Họ trước nay có tư tưởng cầu an, tuy trẫm giao việc binh để rèn ý chí nhưng trong thâm tâm chưa thật tin tưởng. Hãy giúp trẫm trông chừng chúng.
Đinh Củng Viên và Lê Văn Hưu cũng được vua gọi lại dặn dò “Các khanh chuẩn bị sẵn một thuyền tốt dành cho hoàng hậu và An Tư Công chúa, ta sẽ kêu bọn thị thần gói gém đồ đạc, có thể cho họ đi trước”.
Đại quân của Thoát Hoan chia làm ba đạo tiến đánh Thiên Trường. Cánh phía bắc có năm vạn quân do Lý Hằng đầu lĩnh, cánh tây bắc có năm vạn quân do Khoan Triệt chỉ huy, cánh phía tây có bảy vạn quân dưới quyền của A Lý Hải Nha. Trấn Nam Vương trực tiếp thống lĩnh mười vạn quân hậu thuẫn cho các đội hình tiên phong. Bọn Nạp Tốc Lạt Đinh chỉ được giao làm lực lượng dự bị cho cánh quân của Lý Hằng và Khoan Triệt. Chẳng biết điều ấy khiến viên Bình chương vui hay buồn, chỉ nghe nói lúc trở về bản doanh của mình, y kể với các tướng “Trấn Nam Vương thiên vị bọn Hải Nha, các việc trọng yếu đều giao cho chúng, còn ta làm chức phận đi sau dọn bãi chiến trường. Chẳng sao cả, có khi lại được an lành”.
Như vậy là kết hợp với bọn Toa Đô, Đường Ngột Đãi từ phía nam đánh lên, quân Nguyên đã hình thành thế trận toàn diện trên đất liền bao vây lực lượng của vua Trần ở Thiên Trường. Duy có hướng đông giặc đành bỏ ngỏ vì không đủ binh thuyền để dàn trận dọc bờ biển dài mấy trăm dặm. Sơ hở của địch cũng là lối thoát của ta. Khi các vua cùng hàng chục vạn quân xuống thuyền ra biển, bọn giặc rất đỗi bàng hoàng bởi đã giăng thiên la địa võng bít bùng nhưng lại không bủa lưới cửa sông nên chẳng bắt được chim to, cá nhỏ nào cả, ngoại trừ một đám rác rến cố ý bám vào. Đến độ sử sách đương thời phải dùng câu Cử quốc hàng hảiĐưa cả nước ra biển để diễn tả động thái vua quan nhà Trần dẫn dắt lực lượng quân sự ra biển để né đòn đối phương.
Tuy thế, không phải mọi sự đều được như ý muốn. Có những chuyện tồi tệ đã xảy ra từ việc thiếu cân nhắc khi dùng người của các vị đứng đầu bộ máy kháng chiến nước nhà, khiến cho kế sách vừa đánh vừa rút khỏi Thiên Trường của quân dân Đại Việt phải trải qua những thời khắc vô cùng khó khăn, thậm chí nguy nan và khốc liệt.