← Quay lại trang sách

Chương 5 Liều mình giải nạn, An Tư nhắm mắt đưa chân
Đốt lửa ngăn thù, Ngũ Lão bày trận cứu chúa

Buổi sáng hôm sau, Nhân Tông ở hậu cung đang cố thuyết phục Bảo Thánh hoàng hậu và An Tư ông chúa sớm khởi hành ra Giao Hải, thuyền bè đã đợi sẵn để đưa hai người di tản trước. Hoàng hậu lại cho rằng:

– Bệ hạ ở đâu thì thiếp ở đấy. Thiếp sẽ đi cùng ngài.

An Tư ủng hộ ý kiến của Bảo Thánh:

– Chí phải, đế đâu hậu đấy để giặc khỏi vênh vang đánh cho ta tan tác, vua chạy đằng vua, hậu chạy đằng hậu. Như vậy là hậu theo vua, cô theo hậu.

Nhân Tông khuyên bảo:

– Mấy ngày tới sẽ rất bận rộn, vì việc quân nên trẫm và phụ hoàng chưa thể rời đi, hậu và cô là phận nữ nhi, nên đi sớm cho bình an.

Bảo Thánh đáp:

– Lần trước gấp gáp rời khỏi Thăng Long, phận nữ nhi đâu làm vướng bận quân cơ, hai cô cháu cùng cưỡi ngựa băng rừng vất vả mà có than một tiếng nào đâu. Vậy nhé, ngài cứ yên tâm lo việc nước, ở đây đã sẵn sàng tay nải rồi.

Bậc chúa tể sơn hà đành ngao ngán lắc đầu. Nếu lấy phép quân thần mà buộc họ đi thì chẳng ai dám cãi lời, nhưng nghĩ cho cùng chẳng qua hậu và cô không muốn rời vua, nên ngài không nỡ ép. Đang lấn cấn ở hậu đường thì Quan gia nghe quân báo có việc khẩn cấp.

Bước vào hành cung, thấy Nhân Túc Vương Trần Toản mặt mũi xớn xác đang thầm thì to nhỏ với các quan, điệu bộ của người nào cũng có vẻ căng thẳng, Nhân Tông hỏi ngay:

– Có chuyện gì khẩn cấp, mau mau bẩm báo tức thời?

Trần Toản quỳ sụp xuống sàn, mà rằng:

– Hạ thần có tội, do khinh suất phòng bị để Chương Hoài Thượng Hầu Trần Lộng thừa cơ dẫn theo một toán quân chạy sang hàng Nguyên.

Nhân Tông vội truyền lệnh:

– Cho người vây bắt ngay gia quyến của hắn.

Trần Toản đáp:

– Thần đã điều quân đi vây bắt, nhưng chúng trở về không.

Nhân Tông nói:

– Như vậy là nó đã sắp sẵn cả rồi. Tình hình ở hướng bắc ra sao?

Trần Toản trình bày:

– Việc Trần Lộng bỏ theo giặc khiến tinh thần binh sĩ bị xáo động nhưng nay đã chấn chỉnh. Hiện mới rút được gần vạn người, số quân còn lại vẫn đang cầm cự ở phòng tuyến Bồng Điền, đêm nay sẽ rút về cửa Giao Hải, việc cản địch sẽ do tuyến sau đảm trách. Bấy giờ bọn Lý Hằng chỉ còn cách hành cung Thiên Trường không đầy năm mươi dặm.

Vua truyền lệnh:

– Khanh hãy mau quay về chiến tuyến để tổ chức rút quân khỏi Bồng Điền và củng cố tuyến phòng thủ Chân Lợi.

Nhân Túc Vương Trần Toản bái biệt hoàng thượng để trở ra chiến trường. Lại có viên tiểu tướng Hà Quý Thực xin cấp báo. Nhân Tông cho triệu vào. Một người áo quần tơi tả, máu loang khắp mặt, đến giữa sảnh quỳ lạy vua rồi nói hổn hển:

– Tiểu tướng thuộc lộ quân Khoái Châu trấn phủ phòng tuyến Mỹ Lộc được Chiêu Thành Vương cử về cấp báo. Sáng sớm hôm nay Văn Nghĩa Hầu Trần Tú Hoãn cùng đám người nhà của y là Vũ Đạo Hầu, Minh Thành Hầu, Minh Trí Hầu, Trương Hoài Hầu và bọn thuộc hạ người Tống Tô Bảo Chương, Trần Đình Tôn kéo đến vây quân doanh buộc chúng thần cởi giáp theo họ sang hàng giặc Nguyên. Chiêu Thành Vương cự tuyệt, còn chỉ huy binh sĩ xông ra đánh, cha con Hoãn bỏ chạy rồi dẫn đường cho bọn Khoan Triệt truy sát. Chiêu Thành Vương bị tên bắn trúng đùi, được quân khiêng xuống Giao Hải. Nay giặc đã qua Mỹ Lộc, đang rầm rộ tiến về Tây Chân. Tình hình rất nguy cấp, khẩn mong hoàng thượng định liệu.?️

Lúc ấy Nhân Tông thật sự kinh hoàng, ngài ôm mặt than thở:

– Trẫm giao việc nhầm người rồi. Tưởng mấy kẻ hèn nhát vì không quen việc binh nên điều ra trận để có thêm dũng khí, nào ngờ chúng rủ nhau phản phúc. Cũng may trẫm còn tỉnh táo phòng ngừa, không hé lộ kế hoạch rút quân. Tội nghiệt thay cho bọn tôn thất vô sỉ.

Các quan thấy tình thế bi đát, vội khẩn cầu hoàng thượng:

– Giặc đã đến gần, xin bệ hạ hãy rời về Giao Hải.

Bấy giờ Thượng hoàng Thánh Tông bước ra nói:

– Chưa nắm được tình hình rút quân thì bệ hạ chưa nên rời đi. Binh sĩ thấy vua quan đi cả thì có khác gì rắn mất đầu, lúc ấy sẽ rã đám hết.

Kịp lúc có Đinh Củng Viên từ Giao Hải quay về hành cung bẩm báo tình hình di tản. Viên nói:

– Hai trăm thuyền chở hơn vạn quân mới khởi hành sáng nay, chuyến thứ hai sẽ rời bến vào giờ mùi. Binh sĩ xuống thuyền đem theo cả người bị thương, lương thực, nước uống và khí giới nên mất nhiều thời gian. Bến thuyền cũng không đủ chỗ vài trăm chiếc đậu, lượt này ra mới cho lượt khác vào được. Nếu rút hết mười lăm vạn quân sẽ thiếu khoảng ba trăm thuyền, nay mới huy động của dân được hơn trăm chiếc.

Nhân Tông hỏi:

– Theo khanh, mấy ngày nữa thì rút hết quân?

Củng Viện đáp:

– Nếu đủ thuyền thì trong năm ngày.

Vua nói:

– Như vậy là nguy rồi, có cách gì nhanh hơn không?

Thánh Tông cho rằng:

– Phải tận dụng mọi chỗ có thể cập thuyền để đón quân, ngư dân nào dùng thuyền chở quân sẽ được ghi công trọng thưởng, nếu thuyền bè hư hỏng sẽ được bồi hoàn. Nhưng trước mắt cần tìm cách giãn sức giặc.

Củng Viên hỏi:

– Có phải Thượng hoàng muốn cho người đi điều đình với Mông Thát?

Thánh Tông đáp:

– Học sĩ hiểu được ý ta đấy. Bệ hạ cử người khéo nói đến cầu hòa với giặc. Nếu chúng tin tất sẽ hoãn chiến, bấy giờ ta có thời gian rút hết.

Nhân Tông hỏi quần thần:

– Theo kế của Thượng hoàng, ai có thể thay trẫm đến trại giặc?

Đỗ Khắc Chung xin đi. Nhân Tông bảo:

– Lần trước khanh múa lưỡi trong trại Nguyên khiến chúng cay cú mà chẳng làm được gì. Lần này khanh đi nữa chắc gì chúng tin, có khi còn không giữ được mạng.

Các quan bên dưới nín khe, chẳng ai muốn làm “ngựa kỳ, ngựa ký” giữa đám hùm beo nanh dài vuốt nhọn. Quân thần đang rối bời thì được báo Trương Hiến Hầu Trần Dương và Đại phu Nguyễn Nhuệ xin vào chầu. Hai tướng chỉ huy cánh quân phía tây quỳ lạy nhị hoàng. Nhân Tông đang phiền não nên hỏi gắt:

– Các khanh sao không ở ngoài mặt trận, lại chảy cả về đây, lấy ai chỉ huy lực lượng?

Trần Dương trình bày:

– Cánh quân của A Lý Hải Nha kéo đến phòng tuyến Ý Yên đen đặc cả mặt đất. Quân ta chỉ có một vạn, cố cầm cự được vài canh rồi đành rút về phòng tuyến Thiên Bản. Giặc lại kéo quân đánh Thiên Bản, trước sau ta có vạn tám nên không cản nổi gần chục vạn quân Thát, chúng thần phải vừa đánh vừa rút qua sông Đào rồi cho phá cầu phao. Giặc làm cầu vượt sông cũng mất một ngày, khi ấy chúng chỉ cách hành cung hơn ba chục dặm.

Thánh Tông hỏi:

– Các ngươi còn được bao nhiêu quân, hiện đang ở đâu?

Nguyễn Nhuệ đáp:

– Số quân của cánh tây chỉ còn vạn rưỡi, chúng thần đang cho rút ra biển. Tình thế rất nguy nan, khẩn mong nhị hoàng quyết định sớm. Nếu không cản được giặc thì nội trong ngày mai chúng sẽ đánh tới đây.

Thánh Tông phán:

– Xét về lý, các ngươi một ngày bỏ hai chiến lũy lại để thiệt quân đáng kể, đấy là tội. Nhưng phá được cầu phao, buộc giặc phải tạm thời dùng quân, đấy là công. Xét về tình, các ngươi đã cố sức nhưng “lực bất tòng tâm” nên sự tận tụy không đem lại hiệu quả. Tuy vậy vẫn cần đoái công chuộc tội. Nay muốn giao cho hai người đi sứ sang trại giặc, thuyết phục chúng hòa hoãn để quân ta tranh thủ rút quân, liệu có làm được không?

Trương Hiến Hầu Trần Dương và Đại phu Nguyễn Nhuệ cùng đồng thanh đáp lớn:

– Chúng thần tuân chỉ, xin đoái công chuộc tội. Đội ơn Thượng hoàng và Quan gia lượng thứ.

Được Thượng hoàng gỡ bí, các quan đã bớt căng thẳng, sắc diện chẳng còn tái dại. Có người còn cố nén tiếng thở phào nhẹ nhõm, làm ra bộ đang rất bình thản đợi Quan gia giao việc.

Ngay trong buổi chiều hôm ấy, Trần Dương và Nguyễn Nhuệ phóng ngựa về hướng tây; một con đò đợi sẵn chở họ qua sông Đào rồi được A Lý Hải Nha đưa đến trung quân Mông Thát để gặp Thoát Hoan.

Lý Hằng hí hửng dẫn Trần Lộng đến soái phủ trình diện Trấn Nam Vương. Khoan Triệt cũng dắt một đám hàng binh vào ra mắt chủ tướng. Hằng cụt hứng khi nghe Triệt xướng danh năm gã tước hầu trong gia đình Trần Tú Hoãn cùng với mấy kẻ cựu trào Nam Tống nay thành tâm quy phục thiên triều. Thoát Hoan phủ dụ hàng binh và hứa sẽ trình tấu lên thiên tử để ban bổng lộc chức tước cho chúng. Y còn ghi nhận công lao của Lý Hằng và Khoan Triệt nhưng không quên khích tướng:

– Hai ngươi chiêu hàng được các quan chức An Nam nên đáng tưởng thưởng. Nhưng xét nặng nhẹ, năm hầu nhiều hơn một hầu, vì thế công của Khoan Triệt có phần nhỉnh hơn.

Trước nay giữa Hằng và Triệt tình thâm như thủ túc, giờ thấy bản mặt của Triệt vênh váo tự đắc khiến Hằng ngấm ngầm ganh ghét. Y tự nhủ “Không thể để nó qua mặt. Lúc có dịp, phải cho đại vương biết ta đáng trọng hơn nó”.

Thoát Hoan truyền lệnh cho các tướng dốc binh chiếm Thiên Trường nội trong một, hai ngày tới, ai dụ hàng hoặc bắt được cha con thế tử sẽ được ghi công hàng đầu, còn giao cho chức Thái thú cai quản An Nam, thường vàng nghìn lượng, thưởng bạc nghìn cân. Tiện lúc A Lý Hải Nha dẫn sứ giả của vua Trần vào diện kiến, Hoan đang hứng chỉ bèn lớn giọng thị uy:

– Các ngươi thua liềng xiểng còn muốn thương nghị gì nữa? Đến bàn chuyện đầu hàng thì ta tiếp, bằng không hãy về cho sớm mà lo đỡ đòn sấm sét của ta.

Trương Hiến Hầu Trần Dương trình bày:

– Tại hạ được cử sang gặp ngài để bàn bạc cho thấu đáo. Chúng tôi chấp nhận hạ đao cởi giáp, nhưng nếu ngài dùng chữ “hàng” thì e rằng quốc vương tôi không chịu vì sợ mang tiếng với thần dân. Bấy giờ hai bên lại đánh nhau, bị dồn vào đường cùng, quân dân nước Nam sẽ chống trả quyết liệt, ai có thể đoan chắc quân tướng của ngài không tổn thất? Chi bằng ngài dùng chữ “hòa”, kết quả vẫn vậy nhưng chúa công chúng tôi có phần đỡ tủi hổ hơn.

Thoát Hoan đáp:

– Nếu chúa các ngươi thật lòng cởi giáp quy phục thì ta có sá gì chuyện hàng hay hòa. Nhưng bọn An Nam nhà người quen thói dối gạt, khiến ta không còn niềm tin bất cứ cái gì người Nam hứa hẹn.

Nguyễn Nhuệ nói:

– Các ngài đang thắng thế, bao vây tứ phía Thiên Trường làm chúng tôi chẳng cựa quậy gì được. Với tình thế này, nếu cố ý dối gạt khiến ngài nổi giận thì khác nào đổ dầu vào lửa để chuốc thêm họa.

Thoát Hoan nói:

– Ngươi lý sự như vậy thì ta cũng thấy có phần nào nghe được. Nhưng muốn ta hoàn toàn tin tưởng thì thế tử hoặc con của y phải sang đây làm con tin, bấy giờ mới nói chuyện hòa.

Trần Dương khẩn nài:

– Xin đại vương nghĩ lại. Nếu vua cha hoặc vua con nước tôi sang làm con tin thì còn nhục hơn hòa, bấy giờ họ còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa. Dứt khoát các vua sẽ cự tuyệt mà chiến đấu đến cùng.

Ở bên dưới, Trần Lộng nấp sau lưng Lý Hằng nói nhỏ gì đó với gã Tham tri đang chờ cơ hội lấy lòng chủ soái. Hằng mừng ra mặt, vội nhanh chân bước tới gần Thoát Hoan thầm thì vào tai y. Trấn Nam Vương hấp háy mắt ra chiều hứng thú, bèn xuống giọng nhỏ nhé:

– Các ngươi nói vậy cũng hợp tình hợp lý nên ta chiếu cố không đòi cha hay con thế tử sang làm con tin. Nhưng phải đưa An Tư công chúa sang đây. Biết đâu lại bén duyên với ta, nếu hai nhà kết tình hòa hiếu, bấy giờ còn lo gì chuyện chém giết nhau nữa.

Nguyễn Nhuệ nói:

– Việc này chúng tôi không thể tự quyết, xin cho về trình tấu với quốc vương. Trong thời gian chờ đợi kết quả, mong ngài tạm dừng binh để chứng tỏ thiện chí hòa hiếu.

A Lý Hải Nha lên tiếng:

– Sứ cũng là con tin, đại vương chớ để họ về. Ngài nên cử người mang yêu sách đến cho vua của chúng. Thời hạn không thể kéo dài, nội trong một ngày không đáp ứng thì tiến quân san phẳng Thiên Trường.

Biết Trấn Nam Vương háo sắc, khi được Lý Hằng mách nước đòi giao nộp An Tư Công chúa thì hớn hở hẳn lên, điều ấy khiến Khoan Triệt kém vui trong bụng nên quay sang trách cha con Trần Tú Hoãn “Kẻ bợ đỡ Lý tham tri tinh ranh hơn năm cái đầu ở đây. Các người vô dụng quá”. Lòng đang sôi sục, Triệt chẳng ngại làm “kỳ đà cản mũi” buông lời chọc phá chiêu sắc dục của Hằng:

– Mong đại vương suy xét cẩn thận, đừng vội nghe lời xúi giục mà vướng vào mỹ nhân kế của địch quân.

Thoát Hoan gằn giọng quát:

– Ngươi chớ có ăn nói hàm hồ. Đây là yêu cầu của ta chứ không phải đề nghị của họ. Nay ta đã vây kín Thiên Trường thì sợ gì đối phương lật lọng.

Khoan Triệt không dám ho he gì nữa. Các tướng khác cũng im thin thít. Chúng biết một khi nghe hơi gái đẹp thì đầu óc của chủ soái như bị ma ám. Trần Lộng hỏi nhỏ Lý Hằng “Ngài nói thế nào mà đại vương thuận liền?”, Hằng vênh váo đáp “Ta bảo: quốc vương An Nam có cô em gái tuyệt thế giai nhân mới mười sáu trăng tròn, xứng đáng để ngài làm của riêng”.

Nạp Tốc Lạt Định nghĩ mình chẳng có gì để mất nên liều lĩnh lên tiếng:

– Theo tại hạ, đại vương phải cẩn trọng, địch quân có thể dùng kế trì hoãn để tháo chạy ra biển.

Thoát Hoan đáp:

– Ngươi quá lo xa. Họ chạy ra biển để rồi đi về đâu? Trần gia muốn chạy thì đã chạy rồi, còn dùng dằng ở lại cầu hòa với ta làm gì cho mệt xác.

Hai sứ Đại Việt nín thở khi mưu kế suýt bại lộ bởi gã Bình chương đang thất thế. Trần Dương nghĩ bụng “Hú hồn hú vía. May sao nó là kẻ lụy sắc nên không tính được gì hơn chuyện chiêu nạp mỹ nữ”. Nguyễn Nhuệ nhủ thầm “Nó làm sao hiểu được đạo nghĩa của vua ta. Các ngài dứt khoát không rời đi khi còn hàng vạn binh sĩ chưa rút hết”.

A Lý Hải Nha đề nghị:

– Cử người sang bên đấy là biết liền, nếu vua nước Nam thật lòng quy thuận tất phải cầu cạnh đại vương, bấy giờ có dâng nàng An Tư cho ngài cũng là điều họ chẳng hề nuối tiếc.

Thoát Hoan có vẻ hài lòng, bèn truyền lệnh:

– Thiên hộ Ngải đi ngay Thiên Trường gặp Trần gia, tuyên dụ với họ rằng thế tử hay con của y phải sang đây gặp ta. Nhược bằng không thể sang thì cho An Tư Công chúa thay thế. Ta hứa không bạc đãi như con tin mà sẽ chăm sóc nàng như thê thiếp. Đại quân thiên triều tạm ngưng chiến tới chiều mai, bấy giờ An Tư chưa đến thì xuất binh đánh tiếp. Năm ngày sau sẽ hiệp thương hòa giải tại đây. Ta chỉ chấp nhận thương nghị với một trong bốn người là cha con thế tử, Thái sư Quang Khải và Tiết chế Quốc Tuấn, việc cử ai sang do họ định liệu. Hạn định không thay đổi, nếu cố tình dây dưa thì ta quyết không nể nang.

Ngải phụng mệnh đi liền. Thoát Hoan quay ra khuyên nhủ sứ Đại Việt:

– Trước sau vua các ngươi cũng quy phục. Chi bằng nhân dịp này hai người chấp nhận về dưới trướng của ta, cởi mũ thay áo An Nam để mặc phẩm phục Nguyên triều cho xứng danh sĩ tử.

Trần Dương khảng khái đáp:

– Đã coi chúng tôi là nho sĩ thì mong ngài hiểu cho rằng kẻ sĩ biết tự trọng không chấp nhận thờ hai chủ. Nếu mai mốt vua tôi quy phục thì tôi cũng theo họ, bây giờ việc ấy chưa đến nên tôi không thể thay áo, đổi mũ khác.

Nguyễn Nhuệ cũng lên tiếng:

– Chó không cắn lại chủ, chẳng lẽ người không bằng chó. Kẻ đã phản phúc chủ trước thì lúc gặp biến ắt phản lại chủ sau. Tôi thấy ở đây có nhiều người trước kia từng mặc phẩm phục nhà Tống, khi Tống mạt thì họ sang đầu vua tôi, khi nước tôi hoạn nạn thì họ tót sang hàng ngài. Thử hỏi những kẻ ba lần đổi chủ liệu trung thành với Nguyên được bao lăm?

Mấy hầu người Việt lẫn mấy quan người Hán mới về hàng Mông Thát cúi gằm mặt vì hổ thẹn. Để giữ thể diện cho đám hàng binh, Thoát Hoan lớn tiếng quát lác:

– Ta chẳng muốn tốn hơi với mấy đứa không biết hay dở. Không thích nhẹ mà lại ưa nặng thì ta cho được như ý. Bay đâu, nhốt hai tên sứ giả này lại, đối xử như tù binh. Nếu quốc vương của chúng quy thuận thì tha về, nhược bằng tráo trở thì hậu trảm.

Khi bị dẫn giải ra ngoài, Trần Dương cười ha hả rồi nói:

– Lưỡng quốc giao chiến, bất trảm lại sứHai nước chiến tranh, không chém sứ giả, họ bất chấp đạo lý ở đời. Thì ra đại nghĩa của quân Nguyên là như thế.

Kể từ đấy chẳng ai còn được nghe tung tích của Đại phu Nguyễn Nhuệ và Trương Hiến Hầu Trần Dương, hai bậc nam nhi tầm thường về quân sự nhưng cũng đáng mặt trung quân ái quốc.

Thiên hộ Ngải đến hành cung Thiên Trường lúc đã tối mịt. Hai vua và mấy quan tướng tiếp sứ ngay trong đêm. Ngải thông báo yêu sách của Thoát Hoan, Thượng hoàng gắng trần tình để tìm lối thoát hiểm:

– Mọi yêu cầu của Trấn Nam Vương ta đều chấp nhận. Duy có việc đưa An Tư sang bên đấy trước buổi chiều mai thì e rằng quá gấp gáp. Sớm mai đi ngay có khác nào ép buộc, dù An Tư phải đi nhưng trong lòng tất sầu não, bấy giờ hòa hiếu chẳng còn ý nghĩa. Nếu vương định chắp mối lương duyên với công chúa thì nên giãn thời gian cho ta thuyết phục hoàngmuội. Ta cần ba ngày để khuyên giải công chúa. Nếu trễ hẹn, bấy giờ Trấn Nam Vương muốn động thủ thế nào cũng được.

Ngải không nghe, còn buông lời dọa dẫm:

– Tôi không có quyền đàm phán về thời hạn. Đại vương đã truyền lệnh trước giờ mùi phải đưa công chúa về soái phủ. Nếu việc không xong thì giờ thân sẽ tiến binh. Cầu phao trên sông Đào nội trong chiều mai là hoàn tất, kị binh chỉ mất hơn canh giờ để đến hành cung của ngài. Các đạo quân khác cũng cách có dăm chục dặm, quân của Giảo Kỳ và Toa Đô đã thâu tóm Trường Yên, bấy giờ thử hỏi các ngài làm gì còn cơ hội xin hòa?

Nhân Tông cố vớt vát:

– Thục nữ về nhà chồng đâu thể khăn gói mà ruổi ngựa một lèo, cũng phải sửa soạn lễ vu quy theo phong tục để thiên hạ khỏi chê cười. Con gái thứ dân còn được trọng lễ huống chi con vua cháu chúa. Nếu ba ngày không được thì ta đề nghị gia hạn thêm một ngày.

Ngải vẫn một mực từ chối:

– Các ngài chỉ có nửa ngày. Dứt khoát không thương lượng gì nữa.

Biết không thể lung lạc được ý chí của giặc, Thánh Tông chuyển hướng đấu tranh:

– Theo lệ sứ đến rồi về, sứ ta sang đấy sao không cho họ về? Việc cỏn con mà hành xử riết róng như thế, thử hỏi ta làm sao tin người Nguyên phục chúng bằng đạo lý?

Ngải chống chế:

– Không phải như ngài nghĩ đâu. Đại vương cho rằng nếu quốc vương quy thuận thiên triều và kết tình thông gia thì trước sau hai sứ cũng như người nhà nên có ý mời họ ở lại đàm đạo văn chương, đối đãi thịnh tình, chu đáo lắm.

Nhân Tông nghe vậy mà nghẹn trong lòng, ngài cảm giác mơ hồ số mệnh của hai vị trọng thần mù mịt như bóng đêm ngoài kia. Cố dằn xuống cảm xúc, nhà vua bình thản nói:

– Bây giờ cũng đã khuya, sứ hãy về dinh và nghỉ ngơi. Sớm mai ta và phụ hoàng sẽ chu tất việc công chúa xuất giá. Lúc ấy phải nhờ ông tháp tùng hoàng cô về bên kia mà trao tận tay cho Trấn Nam Vương.

Sứ Nguyên đi rồi, Thượng hoàng Thánh Tông mới bộc phát cơn giận dữ kìm nén trong lòng:

– Thằng Thoát Hoan chó má ép ta phải dâng hoàng muội cho nó. Tấm thân trinh trắng ngọc ngà của An Tư hà để cẩu tặc xúc phạm sao? Các khanh hãy nghĩ kế cho mau, thời gian không chiều người đâu.

Mọi người nhìn nhau lúng túng, chẳng ai nghĩ ra được điều gì hay ho để có thể chu toàn cả hai việc chỉ trong nửa ngày, việc chuyển hàng chục vạn quân xuống thuyền ra biển và việc cứu công chúa An Tư thoát khỏi nanh vuốt Thoát Hoan. Họ thừa biết trong tình thể hiện thời, An Tư là cứu cánh duy nhất giúp lực lượng nhà Trần tránh né cơn bão lửa đang lăm le thiêu rụi tất tật, song chẳng ai có can đảm nói ra điều phũ phàng đủ bóp nát con tim Thượng hoàng. Hơn ai hết, Nhân Tông hiểu rõ tình cảm yêu thương của cha dành cho An Tư, bản thân ngài cũng rất quý trọng công chúa, cho dù là vua và tuổi đời lớn hơn, nhưng mỗi khi có dịp tiếp xúc, hai người vẫn đối đãi thân tình theo thứ bậc cô cháu trong nhà. Người mẫn cảm như ngài không dễ gì chấp nhận việc đẩy cô ruột của mình vào vòng tay nhục dục của gã chủ soái Nguyên Mông tham tàn như lang sói.

Trong lúc quân thần đang rối bời thì có liên lạc từ Giao Hải trở về, Quan gia lập tức cho triệu vào. Theo lệnh của vua, cứ cách hai canh giờ bất kể ngày hay đêm, Đinh Củng Viên và Lê Văn Hưu phải cử liên lạc về bẩm báo với ngài tình hình chuyển quân.

Liên lạc trình tấu:

– Đến giờ này ba vạn rưỡi binh sĩ đã ra biển. Hiện trên bờ còn dồn ứ hơn hai vạn. Từ nhiều hướng, quân đang tiếp tục kéo về. Chuyến tiếp theo sẽ khởi hành vào giờ dần ngày mai. Quan Học sĩ muốn biết thuyền của hoàng hậu và công chúa vẫn đậu chờ, khi nào mới rời bến? Các ngài còn khẩn cầu Thượng hoàng và Quan gia cùng hai vạn cấm quân, vệ quân ở hành cung nên xuống ngay Giao Hải để phòng cấp biến.

Nhân Tông chỉ dụ với liên lạc:

– Ngươi về bảo họ không thể chậm trễ như vậy, phải nỗ lực đưa người ra biển nhanh hơn nữa. Để dành chỗ cho người trên thuyền, lương thực và nước uống chỉ mang đủ dùng hai ngày. Thuyền của hoàng hậu cứ đậu chờ. Thượng hoàng và trẫm còn ở đây chưa thể đi được.

Liên lạc lạy từ các vua để quay về Giao Hải. Bấy giờ Thánh Tông than thở:

– Như vậy là trước giờ mùi ngày mai giỏi lắm chỉ rút được sáu vạn quân. Còn non chục vạn biết chạy về đâu? Hiền tài đâu cả rồi, chẳng lẽ trong các ngươi không ai giải được nạn này?

Nhân Túc Vương Trần Toản lên tiếng:

– Theo thần, Thượng hoàng và Quan gia cứ đưa An Tư xuống thuyền rút đi. Bọn thần sẽ tập hợp lực lượng còn lại phản công lên hướng bắc, quân của Lý Hằng chỉ ước năm vạn, ta thừa sức đánh được. Khi phá vây rồi, chúng thần sẽ rút theo đường bộ về Hải Đông.

Ngự sử Dụng Vũ Hầu Trần Trung Chính phản bác:

– Không nên dùng kế này. Dẫu quân ta đông hơn bọn Lý Hằng, nhưng các cánh quân của giặc chỉ cách nhau không đầy chục dặm, chúng sẽ nhanh chân đổ tới ứng cứu; nếu ta chưa kịp phá vây thì đã bị chúng vây chặt hơn, kín hơn, bấy giờ đừng mong vượt thoát; còn nếu ta vượt qua được vòng vây, chúng tất xua quân đuổi diệt, quãng đường dài hơn ba trăm dặm, liệu khi ấy còn bao nhiêu người đến được Hải Đông? Thượng hoàng đã nói sẽ đi sau cùng, nay bảo đấng chí tôn xuống thuyền đi trước khác nào để người mang tiếng bỏ mặc binh sĩ giữa vòng vây của giặc mà lo chạy thoát thân.

Đỗ Khắc Chung ướm lời:

– Thần có một mẹo nhỏ, không biết có nên dùng chăng?

Nhân Tông bảo:

– Khanh cứ nói ra xem.

Khắc Chung nói:

– Cho người giả mạo An Tư công chúa, khi giặc phát hiện ra thì đã quá trễ.

Thánh Tông gạt đi:

– Việc này không được, cứ làm liều chỉ khiến tình cảnh càng nguy hơn. Công chúa ở lầu son gác tía, từ dung mạo, dáng điệu cho đến cách ăn nói đều khác hẳn người thường, giữa lúc loạn lạc kiếm đâu ra tức thời một thục nữ chuẩn mực như thế chấp nhận giả danh em gái ta. Đấy là chưa nói đám tôn thất hàng giặc từng vào ra hoàng cung đều biết mặt An Tư.

Mọi người vô cùng thất vọng khi không tìm ra một lối thoát khả dĩ. Thời hạn bức bách, sự thể chẳng đứng, Nhân Tông nước mắt lưng tròng, thổn thức giãi bày với vua cha:

– Thưa phụ hoàng, từ ngày được giao phó ngai vàng thay cha cai quản giang sơn Đại Việt, con không ngại khó nhọc mà dốc sức vun vén cho nước nhà thêm khí vượng, vương triều thêm móng bền. Đêm canh cánh hoài mong thiên hạ thái bình, trăm họ an lạc, ngày thấp thỏm ước ao nội tộc ấm nồng, vua tôi cố kết. Mà nay giặc Hồ dấy binh nhung, xua lang sói chà đạp xã tắc, giục cẩu trị tàn hại sinh linh, phá tan cả giấc mơ thịnh trị của hoàng nhi. Giữa buổi nguy nan, gánh sơn hà đã oằn vai con trẻ còn thêm phần lo nghĩ đến an nguy của ruột thịt. Việc quân là việc công, việc nhà là việc tư, trớ trêu thay khi việc tư quyết định thành bại của việc công. Thân làm vua một nước, cho dù quặn thắt tâm can, con đành phải đặt giang sơn cao hơn mọi nhẽ. Sáng sớm mai, con sẽ đến quỳ gối trước thư phòng mà cầu khẩn hoàng cô...

– Bệ hạ không thể làm như thế. Cô đã rõ cả rồi, nay vui lòng qua trại Nguyên theo ý chỉ của ngài.

Quân thần bàng hoàng sửng sốt khi thấy An Tư bước ra từ sau tấm rèm ngăn cách với hậu sảnh. Từ hồi lập quốc, Đông A chưa có tiền lệ quần thoa can dự triều chính, nhưng giữa lúc cấp bách nên từ vua chí quan chẳng ai nề hà chuyện ấy, họ chỉ lấy làm lạ không biết vì sao công chúa lại nắm được nguồn cơn mà đến chốn đình thần để đoan quyết số phận của mình.

Chưa hết kinh ngạc, mọi người lại thấy Nội giám Đào Kiên run rẩy quỳ lạy hai vua mà khai nhận tội trạng:

– Kẻ tôi đòi đã phạm phép nước, dám cả gan đưa chuyện quân cơ vào hậu cung, tội đáng chết. Nếu được hoàng thượng tha mạng, thị thần xin theo hầu công chúa đến trọn đời.

Sự việc quá bất ngờ khiến ai nấy đều chết lặng. Thì ra người hé lộ thông tin là viên thái giám được các vua tin dùng suốt mấy chục năm có lẻ. Nhưng rõ ràng Đào Kiên đã liều mạng mình khi tự tiện gỡ bí cho Quan gia để ngài khỏi rơi vào tình cảnh phải dùng uy quyền đế vương mà xô đẩy người cô ruột thịt đến chốn nhơ nhớp. Công hay tội chẳng còn gì đáng kể, riêng nghĩa quân thần, tình ruột thịt vẫn đầy ăm ắp trong cái đêm bi phẫn ấy.

Vốn dĩ hành cung Thiên Trường được xây dựng làm cơ sở dự phòng để vua quan bàn bạc việc nước khi không thể tụ hội ở kinh thành. Nó nhỏ hơn hoàng cung Thăng Long, kẻ hầu người hạ cũng vì thế mà tiết giảm. Ngoại trừ hoàng hậu Bảo Thánh và công chúa An Tư, toàn bộ hậu cung của vua đang ẩn náu đâu đó giữa núi rừng Thiên Quan, tại Thiên Trường chỉ có năm cận thị với bốn ở hầu phục dịch hai vua và hai người phụ nữ thân thích của các ngài.

Thị thần Đào Kiên là hoạn quan ba đời vua, tịnh thành năm mười bốn tuổi, từ một tiểu cận thị thời Thái Tông đã thăng tới chức Nội giám triều Nhân Tông hoàng đế. Trải ba mươi bảy năm tận tụy hầu hạ các vua, bước sang tuổi ngũ tuần, Đào Kiên liệu sức mình chẳng được như trước nên cũng muốn cáo lão về vườn. Ông dự tính sẽ kiếm một mẩu đất ven hồ Dâm Đàm, trồng ít khóm hoa, nuôi vài chim cảnh, hưởng thú tao nhãn cho đến cuối đời. Thế rồi đất bằng dậy sóng, cơn lốc can qua cuốn quan thị theo chân nhị hoàng lênh đênh mọi nẻo non nước mà vẫn chưa nhìn thấy đâu là bờ bãi bình yên. Lòng trung còn như sắt đá, nhưng sức khỏe mỗi ngày thêm suy kiệt, Kiên chỉ sợ gục ngã giữa cuộc trường chinh, thân xác vùi vệ cỏ ven đường mà chẳng có được một ngày ngồi mơ màng ngắm trăng thanh nước biếc bên bờ hồ lộng gió.

Như thường lệ khi thiết triều, Đào Kiên đứng ở một góc sảnh đường để tiện cho các vua sai khiến lúc cần, nên mọi chuyện liên quan đến công chúa An Tư ông đều nghe được. Nhìn thấy khuôn mặt khốn khổ của hai vua và sự bất lực của các quan khi không thể tìm ra giải pháp an toàn cho cả đại quân và công chúa. Niềm bi cảm trỗi dậy xui khiến tấc lòng trung can nhỏ nhoi của viên thị thần làm cái việc tày đình là bộc lộ chuyện cơ mật triều chính với người không có phận sự. Thừa cơ chẳng ai để ý, Kiên len lén lui ra ngoài rồi chạy thục mạng đến trước phòng của công chúa mà rối rít gọi cửa.

Bấy giờ An Tư vẫn chưa ngủ. Nghe tiếng người gọi, nàng ra mở cửa đã thấy Đào Kiên quỳ sụp dưới chân mà nức nở kêu nài bằng những lời khó hiểu “Bề tôi khẩn mong công chúa hãy mau cứu lấy nhị hoàng, cứu lấy nước non Đại Việt”. An Tư chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra nhưng cảm giác lo sợ vẫn choáng ngợp trong lòng. Ra vẻ thản nhiên, nàng bảo thị thần:

– Hãy bình tĩnh lại rồi kể đầu đuôi cho ta nghe.

Khi đã hoàn tâm, Kiên bộc bạch với An Tư mọi chuyện rồi thiết tha bày tỏ:

– Xã tắc nghiêng ngả lắm rồi, chiều mai công chúa không sang trại Nguyên thì cơ đồ sẽ thêm phần sụt lún. Nếu công chúa quyết đi, bề tôi xin theo hầu hạ người đến mãn kiếp.

An Tư lặng thinh không đáp. Trong đầu nàng chẳng chứa đựng điều gì ngoài một cánh cửa khép hờ lúc ẩn lúc hiện giữa khoảng không trống rỗng, phải chăng đây là cánh cửa u minh đưa đón kiếp người vào vòng quay thực hư, được mất đang tít mù trong cõi vô thường; đi cũng đặng, ở chẳng đứng, phân định rồi thì cái được cái mất đều do cơ trời sắp đặt, nhắm mắt đưa chân qua cửa giặc có gì mà không dám?

Hồi lâu sau, nàng lên tiếng:

– Chờ ta cùng qua bên đấy xem sao.

Dặn Đào Kiên rồi, An Tư vào sau bình phong thay trang phục. Hai người dò dẫm mò sang sảnh lớn trong hành cùng mà chẳng có đèn đuốc soi đường. Đào Kiên trở về vị trí của quan thị. An Tư dùng bước phía sau tấm rèm cửa.

Đáp ứng yêu sách của Thoát Hoan, thị thần Đào Kiên đưa An Tư công chúa xuống đò qua sông Đào, ngoài bọn Thiên hộ Ngải tháp tùng, không có người Nam nào theo tiễn đến bến nước. Đấy là ý nguyện của công chúa, nàng không muốn chứng kiến cảnh sầu thảm dềnh dang để ra đi cho nhẹ lòng. Hoàng gia bỏ lễ vu quy, chằng hồi môn sính vật, không võng lọng trống kèn, một chuyến xuất giá trên mình ngựa hối hả như đám cưới chạy tang.

Hai vua, hoàng hậu và các quan tiễn An Tư ra khỏi hành cung rồi lặng lẽ quay vào. Quân thần nhìn nhau e ngại, cái cảm giác là người có lỗi khiến ai nấy ngượng nghịu. Thượng hoàng ngồi chống cằm trầm tĩnh, tay áo thụng che ngang khuôn mặt, ngài chẳng muốn khóe mắt đỏ hoe tố giác nỗi lòng tê tái. Giữa không gian u uẩn vang vọng tiếng than khóc ôi của hai ả thị nữ Thu Cúc và Xuân Đào. Họ nằng nặc xin theo nhưng bị công chúa từ chối.

Sau này, tôi tớ trong cung rỉ tai nhau về một bút tích của An Tư công chúa. Chúng quả quyết trước lúc nàng về theo Thoát Hoan, có để lại mảnh lụa trắng viết mấy câu thơ tứ tuyệt được cất trong hộp son phấn. Thu Cúc tìm thấy đem giấu đi, bị Xuân Đào phát hiện nên sinh sự tranh cãi, ai cũng muốn giành cho được kỷ vật của nữ chủ. Bảo Thánh hoàng hậu biết chuyện, kêu tới tra xét, Thu Cúc đành dâng lên. Xem xong bài thơ, hoàng hậu cất vuông lụa vào tay áo rồi phán:

– Hai người nhớ kín miệng, việc này chớ để đến tai Thượng hoàng và Quan gia kẻo các ngài thêm đau lòng.

Bài thơ được viết:

Mái chèo ngược nước, người tiêu tán

Ví như má phấn lấm bụi hồng

Oai trời bỡn cợt cơn ly loạn

Hồn gửi quê hương, xác kệ chồng.

Người đời sau dựa vào ý tứ câu thơ mà cho rằng công chúa An Tư đã linh cảm được số phận biệt tích của mình trước khi cất bước rời khỏi Thiên Trường để làm thê thiếp của kẻ thù cướp nước. Quả vậy, từ sau chuyến đò xuất giá cay nghiệt ấy, tung tích về cuộc đời nàng không một lần được nghe nói đến.

Sáng sớm ngày thứ tư trong hạn định năm ngày của Thoát Hoan, Thượng hoàng và Quan gia cùng hai vạn quan quân bảo vệ hành cung Tức Mặc đã kéo về cửa Giao Hải. Họ là những người cuối cùng rời khỏi Thiên Trường, bỏ lại cho giặc toàn bộ đồn trại, thành quách trống rỗng. Lê Văn Hưu thông báo tin vui:

– Đoàn thuyền của Chiêu Minh Vương từ Hoan Ái kéo về đã hội ngoài khơi với đoàn thuyền từ Giao Hải ra rồi cùng giong buồm lên Hải Đông. Vương cử một thuyền nhỏ quay vào bờ để thông báo cho nhị hoàng an tâm.

Hai vua mừng lắm, như vậy là lực lượng tập hợp ở Hải Đông càng thêm lớn mạnh. Thánh Tông muốn đi thuyền rồng, Đinh Củng Viên can gián:

– Theo thần, Thượng hoàng dứt khoát không đi thuyền này. Khi đụng giặc, thuyền rồng là mục tiêu đầu tiên của chúng.

Hoàng thượng cho là phải, bèn hạ chỉ thuyền rồng dùng chở quân, không chở vua. Biết phụ hoàng day dứt chuyện của An Tư mà biếng ăn kém ngủ khiến sức khỏe suy giảm, Nhân Tông nằng nặc buộc cha và các quan viên lớn tuổi xuống thuyền của hoàng hậu, vốn có thân rộng nên chịu sóng tốt hơn.

Mặc cho quan tướng khẩn nài nhà vua đi cùng Thượng hoàng, Nhân Tông khước từ mà rằng:

– Ta sẽ đi sau rốt cùng với Đinh Củng Viên và Lê Văn Hưu.

Thượng hoàng và hơn một vạn túc vệ ra khơi bằng một trăm năm mươi chiếc thuyền lớn bé. Tám ngàn quân cuối cùng hộ tống Quan gia rời bến trên một trăm mười chiếc thuyền còn lại. Thuyền của vua giống thuyền của binh sĩ, nếu chẳng may gặp địch, chúng sẽ khó đoán biết được người đầu lĩnh quân dân Đại Việt ở trên thuyền nào trong đoàn thuyền cả trăm chiếc.

Khi đón được An Tư về trại. Thoát Hoan xuống lệnh án binh ba ngày vừa dưỡng quân vừa cho đối phương có thời gian lo liệu việc cởi giáp quy thuận. Nếu không có việc nguy cấp, chớ ai quấy rầy y nghỉ ngơi.

Thâu tóm xong Trường Yên, Toa Đô đầu lĩnh gần bảy vạn quân đóng giữ những nơi hiểm yếu. Giảo Kỳ, Đường Ngột Đãi và Lưu Khuê dẫn hai vạn quân cùng đám hàng binh Trần Kiện ra Thiên Trường để báo công với Thoát Hoan. Cả bọn chờ trước soái phủ nửa ngày trời mà không được chủ tướng tiếp. Trấn Nam Vương sai lính ra bảo rằng “Ngài còn bận nghiền ngẫm binh thư. Hẹn ngày một sẽ hội tướng”. Khoan Triệt đến thăm Đường Ngột Đãi, khi nghe kể bèn nói nhỏ với chiến hữu “Vương nghiền ngẫm dâm thư thì có”.

Qua ngày hôm sau, A Lý Hải Nha xồng xộc vào soái phủ đòi gặp bằng được Trấn Nam Vương để báo tin khẩn cấp. Bất đắc dĩ Thoát Hoan phải tiếp. Viên Bình chương trình bày:

– Sáng nay thấy đồn lũy địch quân im ắng quá, tại hạ bèn cử một nhóm kị binh vượt qua cầu phao đi thám thính, chúng trở về báo tin quân An Nam đã rút hết, trại quân cách đây mười dặm cũng trống trơn. Theo tại hạ, bọn thế tử đã thừa cơ hoãn chiến mà tháo chạy cả rồi.

Lại có Lý Hằng đến cấp báo lực lượng đối phương ở hướng bắc đã bí mật rút từ đêm qua. Thoát Hoan chưa hết sửng sốt thì Khoan Triệt đến thông báo trên hướng của y tình hình diễn ra tương tự như thế. Biết bị mắc nỡm vua quan Trần gia, Trấn Nam Vương cố che giấu cái dở của mình bằng chiêu đổ và cho thuộc cấp:

– Mấy ngày qua các ngươi mê ngủ à? Để chúng rút đi hết mà không hay biết thì đúng là tắc trách. Đã thế không điều quan truy đuổi tức thời lại còn về đây bẩm báo cho mất thời gian. Bây giờ biết chúng ở đâu mà lùng?

Khoan Triệt mách nước:

– Bọn thế tử dứt khoát chạy ra Giao Hải, là cửa sông đổ ra biển. Tại hạ xin truy kích ngay.

Thoát Hoan xuống lệnh:

– Khoan Triệt dẫn kị binh dốc thẳng xuống Giao Hải. A Lý Hải Nha và Lý Hằng kéo quân vào Thiên Trường, ta sẽ đưa bản bộ vào sau. Nếu gặp địch quân, không chấp nhận tù binh, giết hết để trừng phạt tội lường gạt đại quân thiên triều.

Lý Hằng nghĩ bụng “Chắc Khoan Triệt được mấy gã hầu tước hàng binh mớm lời, còn hắn có nằm mơ cũng chẳng biết Giao Hải là cái gì”. Về đến quân doanh, Hằng gọi Trần Lộng vào trách “Tại sao không báo cho ta biết ở Thiên Trường có cửa biển Giao Hải? Người chẳng được tích sự gì cả”. Lộng ú ớ không thể trả lời, cái cảm giác ê chề bắt đầu len lỏi vào tâm can gã tôn thất phản phúc.

Quân Nguyên kéo đến hành cung Thiên Trường, nhưng chẳng bắt được một binh sĩ An Nam nào để giết trừ nợ tội lường gạt thiên triều. Bọn Khoan Triệt ập đến Giao Hải chỉ thấy bãi sông vắng lặng như tờ, ngoài rác rến ngập ngụa trên bờ, dưới nước, không có một bóng người lai vãng quanh đó. Ở tít ngoài khơi, có một đội thuyền nhỏ li ti như đàn kiến đang di chuyển lên hướng bắc, Khoan Triệt bất lực đứng nhìn, hắn tiếc rẻ vì đoàn chiến mã không có năng lực phi trên mặt nước.

Được thông báo tình hình, Thoát Hoan ấm ức lắm nhưng lúng túng chưa nghĩ ra cách sửa sai cái tật hiếu sắc mà mê ngủ mất mấy ngày, để cho đại quân của Trần gia diễu hành trước mũi cũng chẳng hề hay biết.

Chủ soái đang bực dọc, lại bị gã thân vương Giảo Kỳ quấy rầy bằng mớ ngôn từ đao to búa lớn:

– Từ khi tiến vào An Nam, đạo quân của bản chức đã đánh chín trận oanh liệt, bắt giết hơn chục vạn địch quân, chiếm giữ một vùng rộng lớn từ Bố Chính đến Trường Yên, chiêu hàng cả vạn tướng sĩ đối phương...

Thoát Hoan ngắt lời:

– Thôi thôi ta nhức đầu lắm. Công trạng thế nào cứ biên giấy trình lên. Bây giờ là lúc bàn việc vây đánh bọn xảo trá Nam man.

Lý Hằng hiến kế:

– Chúng vừa đi được vài canh giờ. Nếu ta cho binh thuyền cấp tốc ra khơi sẽ bắt kịp. Dùng thuyền có buồm lớn hứng gió tốt cho khởi hành trước, các thuyền khác tiếp ứng phía sau, càn quét ven biển phía bắc, chặn đường chúng cập bờ.

Thoát Hoan cả mừng vội truyền lệnh:

– Lý Hằng chỉ huy đạo thuyền lớn đem theo năm vạn quân khẩn trương khởi hành đuổi theo đoàn thuyền An Nam. Ô Mã Nhi chỉ huy đạo thuyền nhỏ chở hai vạn quân chặn mọi cửa sông ở phía bắc.

Nói đến đấy, Thoát Hoan liếc nhìn cái bản mặt râu quặc của Giảo Kỳ rồi nghĩ tới những lời khoác lác của y mà thấy ghét, bèn chỉ thị thêm:

– Nhân tiện Giảo Kỳ và Đường Ngột Đãi có mặt ở đây, ta giao quyền chỉ huy đạo thuyền bản địa, có nhiệm vụ tiếp ứng cho Lý Hằng và Ô Mã Nhi. Đây là cơ hội để hai người lập thêm công mới cho tròn mười chiến công.

Ra đến bên ngoài, Vạn hộ Lưu Khuê hỏi Tả thừa Đường Ngột Đãi:

– Đạo thuyền bản địa là thế nào?

Đường Ngột Đãi ngao ngán lắc đầu mà rằng:

– Là đội thuyền tập hợp thuyền bè cướp của dân bản địa, phần lớn là thuyền nhỏ mỏng manh cũ kỹ đi trên sông, bây giờ đưa ra biển thì khác nào giỡn mặt long vương. Cũng tại cái miệng khoe khoang không đúng lúc của Giảo Kỳ, khiến ta và người lại một phen khổ sở.

Sau một ngày đêm cưỡi sóng, đoàn thuyền của vua Nhân Tông đang tiến vào bờ biển vùng đông bắc thì quân lính phát hiện có đội thuyền dài dằng dặc ở phía sau. Xem ra đám thuyền lạ đi nhanh hơn thuyền của ta nên hình ảnh của chúng càng ngày càng lớn dần. Khi nhận diện được thuyền giặc, vua cho quân hiệu gọi loa giục các thuyền khẩn cấp hướng vào bờ. An Bang ở xa xa phía trước, nếu vượt qua được thì có muôn lối để lẩn tránh.

Nhưng thuyền giặc mỗi lúc mỗi gần mà cửa sông còn cách mấy hải lý. Trong tình thế khẩn cấp, Nhân Tông hạ lệnh các thuyền quẳng hết lương thực, nước uống và các vật dụng khác để nhẹ bớt mà đi cho nhanh. Khoảng cách giữa hai bên lại giãn ra đôi chút, đội thuyền của ta có cơ hội vượt thoát.

Nhà vua cho rằng nên phân tán lực lượng, chia thành nhiều toán nhỏ mà luồn lách vào các lạch nguồn, thuyền giặc lớn, chúng sợ mắc cạn sẽ không dám đuổi tiếp. Theo lệnh hoàng thượng, đoàn thuyền Đại Việt lao vun vút vào cửa sông rồi tách ra thành từng nhóm năm, ba chiếc len lỏi theo các chi lưu um tùm lau sậy mà tiến vào sâu trong đất liền.

Chợt nghe thấy tiếng trống trận dồn dập, rồi từ hai bên bờ các toán quân túa xuống nước ẩn mình sau những lùm sậy rậm rạp trải dài cả dặm. Nhìn sắc phục, biết là quân ta, Đinh Củng Viên khẩn nài nhà vua:

– Bệ hạ nên cập bờ, có đông quân hộ giá sẽ an toàn hơn.

Nhân Tông nói:

– Không kịp đâu. Lên bờ lúc này là phơi áo cho giặc nhận diện.

Ngài bảo quản hiệu truyền loa cho tướng sĩ trên bờ nghe lệnh của vua “Giặc đang đuổi theo, mau cản đường chúng lại”. Phạm Ngũ Lão nhận được lệnh, bèn cho quân chuẩn bị sẵn mồi lửa. Từ lúc được Hưng Đạo Vương cử ra An Bang đón đạo quân của hai vua, ông đã chứng kiến hàng chục đoàn binh thuyền đi qua mà không có sự cố gì xảy ra. Đội thuyền của Thượng hoàng mới vào cửa sông lúc tờ mờ sáng, ngoại trừ thuyền ngự và dăm chiếc thuyền nhỏ hộ tống tiếp tục hành trình lên Ngọc Sơn ở sát vùng biên giới để đánh lạc hướng quân địch.?️

Biết tin Quan gia đi chuyến cuối cùng, Ngũ Lão đứng trông ra biển hàng canh giờ, lòng thấp thỏm mong ngóng thuyền chở vua qua cửa An Bang bình yên vô sự.

Khi đoàn thuyền xuất hiện phía chân trời, Ngũ Lão thở phào nhẹ nhõm, nhưng niềm vui chợt tắt ngóm lúc thấy phía sau đội thuyền của ta có một đoàn chiến thuyền động vô số kể cũng đang hướng vào bờ. Đoán chắc thuyền giặc bám đuổi thuyền vua, ông cho nổi trống báo hiệu, đưa toàn quân vào thế trận đã được bàn tính sẵn.

Khúc sông tiếp giáp với biển khá rộng, binh thuyền của Lý Hằng dàn hàng ngang ồ ạt kéo vào, ngược dòng chừng non dặm thì dòng sông bắt đầu hẹp dần. Nhìn đoàn thuyền của An Nam tản mát vào những nhánh sông nhỏ, Hằng cho phất cờ hiệu chia đội hình truy kích. Đúng lúc ấy tiếng tù và rúc vang, từ hai bên bờ phía trước xuất hiện hàng trăm bè nứa chất có khô cháy rực theo dòng nước xuôi trôi ra cửa biển rồi đâm sầm vào thuyền giặc. Những chiếc đi đầu bị bén lửa cháy rụi, bọn giặc trên thuyền hoảng loạn nhảy xuống nước bơi vào bờ bị quân của Ngũ Lão đánh giết tơi bời.

Ỷ đông quân lắm thuyền, Lý Hằng đổ bộ binh lên bờ cận chiến với quân ta, đồng thời cho đoàn thuyền sắp hàng một, sai lính dùng sào dài đẩy các bè lửa ra xa rồi cứ thế mà tiến dần lên. Cố đánh thêm sẽ bất lợi, Phạm Ngũ Lão cho lui quân. Bọn giặc trên bờ ngán ngại những bãi lau sậy ngút ngàn nên không dám truy đuổi. Vượt qua khúc sông hiểm ác, nhìn quanh chỉ có sóng nước và cây cỏ mà không thấy bất cứ một chiếc thuyền nào của đối phương, Lý Hằng cho dừng binh để chỉnh đốn đội ngũ. Kịp lúc đoàn thuyền của Ô Mã Nhi kéo đến, Hằng khoe khoang với đồng bọn:

– Mới giao tranh với bọn An Nam, đốt phá hơn nửa đạo thuyền của chúng trong khi ta chỉ mất có dăm chiếc. Bọn tàn quân giong thuyền chạy vào các nhánh sông nhỏ, thuyền ta lớn nên không tiện đuổi.

Lúc ngang qua chiến địa, Ô Mã Nhi đếm được mười mấy xác thuyền Nguyên nhấp nhô trên mặt nước, nhưng là cấp dưới nên đành lờ đi cái tật nói khoác của Lý Hằng, y bảo:

– Ngài vừa tham chiến có lẽ cần nghỉ ngơi. Tại hạ dùng thuyền nhỏ truy kích bọn tàn quân An Nam.

Thuyền của Nhân Tông đi miết lên thượng nguồn mà không có thuyền nào theo hộ tống. Ngài tỏ ra lo lắng:

– Các thuyền tản mát khắp nơi, giờ làm sao mà tụ lại?

Lê Văn Hưu đáp:

– Đây là Hải Đông, Hưng Đạo Vương chắc chia quân đóng nhiều chỗ, thuyền lực trước sau cũng tìm về.

Đinh Củng Viên nói:

– Theo thần, nên đậu thuyền ở chỗ kín rồi cử người lên bộ dò hỏi đường tới nơi nào có quân ta trú đóng.

Nhân Tông cho là phải, bèn sai đưa thuyền vào một bãi lau sậy, lại sai năm người lính khỏe mạnh chia nhau đi các ngả tìm kiếm quân ta. Chạy giặc từ sáng tới chiều tối mà chưa ăn gì, hoàng thượng thấy đói bụng. Ngặt nỗi lương thực đã quẳng hết xuống biển, quan quân nhìn nhau bất lực, chẳng ai nghĩ ra cách gì để giúp ngài chống đói. Có người lính hầu tên Trần Lai giấu được bát cơm hẩm bèn dâng lên Quan gia. Vua cảm kích lắm, khen là tôi trung, liền ban cho chức thượng phẩm.?️

Khi đến được quân doanh của Hưng Đạo, Nhân Tông kể với các tướng về bát cơm dằn bụng, rồi nói:

– Lúc đói khát có được một hạt cơm cũng đáng quý, lúc nguy nan có một người lính ở bên cạnh cũng đang trọng. Các khanh hãy nhớ lấy điều này mà đối đãi tốt với binh sĩ.