← Quay lại trang sách

Chương 6 Họp mặt quân thần, Thánh Tông thử lòng Quốc Tuấn
Xin lương chủ soái, Toa Đô đóng trại Trường Yên

Sau khi chạy trốn lên Đà Giang, Trần Ích Tắc cử người mật báo cho bọn đồng mưu là Phạm Cự Địa, Lê Điền và Trịnh Long cùng hội về một nơi cho thêm phần khí thế. Khi nghe tin quân Mông Thát đã kéo vào Đại Việt, Ích Tắc vẫn trù trừ chưa muốn xuất đầu lộ diện. Chủ trại Cao Thái Phong thắc mắc:

– Thời cơ đã đến, sao ngài chưa đi quy thuận?

Ích Tắc đáp:

– Mấy bữa trước bị một trận ốm vặt, trong người chưa được khỏe. Đến ra mắt Trấn Nam Vương mà người ngợm bơ phờ thì khó coi lắm.

Buổi tối, khi chỉ có mấy người thân thuộc, Phạm Cự Địa hỏi Chiêu Quốc:

– Sáng nay trại chủ hỏi việc quy thuận, ngài vin lý do chưa khỏe. Tôi nghĩ không phải thật, vậy thực chất vì sao?

Ích Tắc cười hềnh hệch, mà rằng:

– Quả nhiên ông tường bụng ta. Chiến sự đang giằng co, lộ diện sớm thì lênh đênh sớm. Người Nguyên đời nào để ta ngồi nhàn mà hưởng bổng lộc thiên tử, rồi lại phải theo họ xông pha chiến trận, sống chết khó lường. Chi bằng cho mọi chuyện ngã ngũ, bấy giờ lên đường cũng chưa muộn.

Lê Điền hỏi:

– Theo ngài, Nguyên thắng hay Trần thắng?

Ích Tắc đáp:

– Hồi ta bé xíu, phụ hoàng đuổi được Ngột Lương Hợp Thai, nhưng họ chỉ là đám du binh, đánh thắng cũng chẳng hiển hách gì. Vậy mà người Nam lại tưởng mình tài giỏi lắm nên sinh tật “coi trời bằng vung”. Bây giờ cha con Trần Hoàng phải đối đầu với năm chục vạn đại quân thiên triều, trước sau ắt lụn bại.

Lúc nhận được tin Thoát Hoan đang vây các vua ở Thiên Trường, Ích Tắc cho rằng thời cơ đã chín, bèn dẫn đồng đảng, gia quyến và tôi tớ gần ba trăm người rong ruổi tìm đường chiêu hồi Mông Thát. Để tránh chạm trán với quân Trần, ban ngày bọn Tắc lánh xa những nơi có người ở mà ẩn náu ở chỗ hoang vu hẻo lánh rồi cử vài tên đi dò đường trước, đêm xuống thì cả bọn lại lục tục khởi hành.

Phạm Cự Địa phàn nàn:

– Đi chậm như thế sợ hỏng việc. Nếu người Nguyên bắt được cha con Thượng hoàng rồi thì bọn ta thành vô dụng sao?

Ích Tắc bảo:

– Chớ có nóng vội. Họ sớm bắt được vua Trần thì càng hay, tránh cho ta mang tiếng tham gia hãm hại ruột thịt. Lúc ấy vẫn còn bọn Quốc Tuấn, lo gì thiếu đất dụng võ.

Trịnh Long thừa dịp hót nịnh:

– Bấy giờ người Nguyên phải mời ngài lên làm quốc vương để phủ dụ bách tính và chiêu hàng quan quân chống đối. Đám Quốc Tuấn cô thế ắt bại vong. Với tài đức của ngài, Đại Việt sẽ muôn phần rạng rỡ, thiên cổ không có thời nào sánh nổi.

Ích Tắc có vẻ đắc chí lắm, song bụng vẫn thầm nghĩ “Trịnh Long hiểu được tâm ý của ta, nhưng miệng lưỡi xu nịnh quá, mai mốt đại sự cáo thành dứt khoát dành cho y chức Nhập nội hành khiển”.

Đám nghịch tặc đi từ cuối tháng hai cho đến giữa tháng ba năm Ất Dậu mới tới Thiên Trường. Nghe tin Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc dẫn theo nhiều quan tướng đến quy hàng, Thoát Hoan dặn dò thuộc hạ:

– Đây là con cá lớn nhất tự nguyện chui vào lưới của ta. Y còn được việc về sau, các ngươi phải nể trọng đúng mực.

Để tỏ bày hảo ý của đạo quân thiên triều đối với bậc vương tôn quy thuận, Thoát Hoan dẫn các tướng ra trước cửa đón Chiêu Quốc vào sảnh, còn sai lấy ghế mời Tắc ngồi cạnh.

Hoan ra vẻ quan tâm:

– Từ ngày dẫn quân xuống nam, ta vẫn có ý tìm ngài nhưng không biết ở đâu để cử người đến đón rước. Chẳng hay sự thể ra sao?

Tắc biện bạch nguồn cơn:

– Bản chức sai người chuyển mật tin cho ngài về kế hoạch phòng thủ nhưng chúng bị sa lưới. Bọn Quốc Tuấn kéo đến vây bắt, tôi buộc phải ẩn náu trên Đà Giang. Ở chốn lam chướng nên sinh bệnh phải nằm một chỗ cả tháng. Vừa khỏe lại là lên đường đến diện kiến đại vương.

Hoan nói:

– Tấm lòng mẫn cán của ngài đối với Đại Nguyên khiến ta rất cảm kích. Trước lúc chinh nam, thiên tử có dặn dò phải tập hợp đủ người quy thuận để lập triều đình mới do ngài làm quốc vương.

– Nay cha con Trần Nhật Huyền đã dẫn quân chạy trốn ra biển, cần nhổ sạch cỏ dại mới tính đến chuyện gieo hạt. Ngài có kế gì sớm giúp yên định nước Nam thì cho biết?

Tắc bày mưu:

– Nhân tiện tôi đã nội phụ thiên triều, chi bằng bố cáo khắp thiên hạ để dân nước Nam đang phiêu tán ly loạn theo gương mà hướng đến chỗ quang đãng, quan quân còn hồ nghi do dự bừng tỉnh mà tìm về nơi trọng nghĩa. Khi phần đông đã phục chính thì bọn Nhật Huyền lấy đâu ra người mà tụ tập chống đối.

Hoan mừng lắm, bèn đề nghị:

– Vậy giao ngài soạn hịch văn rồi cho chép thành nhiều bản để ban bố khắp nơi.

Mấy ngày sau, các thị tứ, thôn làng trong vùng quân Nguyên chiếm đóng xuất hiện nhan nhản bố cáo hàm chứa ý tứ cay nghiệt, phơi bày ô nhục tôi đòi “..cha con Trần Hoàng tâm địa bất minh; ích kỷ hẹp hòi bám giữ vương quyền, ngạo mạn ngang ngược thách thức thiên tử; đẩy xã tắc lâm cơn thịnh nộ, mặc dân chúng nhuốm bụi lầm than. Người trí giả, bậc hiền nhân sớm sớm nương thân nẻo sáng, kẻ thảo dã, đứa mạt tốt mau mau núp bóng mây lành; hãy cùng Chiêu Quốc ta hướng mặt về phương Bắc mà quy phụ đại đế; cúi đầu thân thuộc đón gió thái bình, cởi giáp chiêu hồi đợi mưa tươi tốt...”.

Cuối cùng quần thần cũng gặp nhau ở Vạn Kiếp. Thượng hoàng và Quan gia, Quang Khải và Quốc Tuấn, Khánh Dư và Trần Toản cùng hơn trăm vương hầu khanh tướng hội ngộ trong An Quốc Đường vốn bị quân Nguyên đập phá tan tành mới được Hưng Đạo cho sửa chữa sơ sài. Theo lẽ thường, dịp đoàn viên là lúc thổ lộ vui mừng, nhưng giữa thời tạo loạn, vua tôi chẳng có lòng nào mà bày tỏ hân hoan, thay vào đấy là những toan tính đại cuộc, những đường hướng đối kháng, những mưu kế sống còn.

Nhân Tông phán truyền Hưng Đạo:

– Tiết chế hãy trình bày cho chư tướng nắm rõ tình hình giữa ta và địch ở Đông Hải hiện thời?

Quốc Tuấn đáp:

– Quân của ta tại đông bắc nay đã lên tới hai lăm vạn, của Nguyên gần mười vạn. Nhưng chúng có đội thuyền lớn chủ yếu quanh quẩn ở vùng nước sâu nên không dễ đánh. Bọn này cũng không phải mục tiêu chính của quân dân Đông A, cần giữ lực lượng để sau này tiêu diệt đại quân của Thoát Hoan. Bọn Lý Hằng đuổi theo nhị hoàng lên đông bắc tất lực lượng của Thoát Hoan bị giảm đáng kể, nếu ta tiếp tục cơ động sẽ khiến chúng khó bể đối phó mà sinh lòng hoang mang.

Thánh Tông hỏi:

– Như vậy theo ý khanh ta phải làm gì nữa đây?

Quốc Tuấn đề nghị:

– Thần xin nhị hoàng cùng Thái sư lại vào Nam một chuyến, vừa né đòn vây bắt của Mông Thát vừa tranh thủ thu hồi Thanh Hóa. Khi Thượng Hoàng và Quan gia chinh ngự Hoan Ái tất dân chúng đến tụ dưới cờ, lực lượng ta sẽ thêm lớn mạnh. Bây giờ thời tiết đang mát, nhưng chỉ hơn tháng nữa thôi, cái nóng bức sẽ làm giặc Nguyên khốn khổ, đấy là lúc Nam Bắc hiệp đồng ra tay dọn dẹp, hai mặt giáp công quét sạch bụi Hồ.

Nhân Tông thở dài:

– Lại chạy nữa à, không có cách nào hay hơn sao?

Trước phiền não của bậc chí tôn, quần thần ai cũng lúng túng do không đề ra được phương án khả dĩ giúp Quan gia yên định. Khánh Dư lên tiếng:

– Đường lối của Tiết chế là sáng suốt nhưng chẳng lẽ ta cứ lẩn tránh hoài? Bọn Lý Hằng, Giảo Kỳ và Đường Ngột Đãi tung hoành ven biển, đốt phá, giết chóc tơi bời, nên đập chúng một trận ra trò để dằn mặt lũ kẻ cướp.

Quang Khải nói:

– Ý của Nhân Huệ chí phải. Không nhất thiết tung đại quân vào trận, nên sử dụng lực lượng vừa đủ dụ giặc đến chỗ hiểm yếu mà dùng quân mai phục đánh cho chúng chừa thói ngông cuồng tàn bạo. Còn việc nhị hoàng vào Hoan Ái, đúng là một nước cờ cao.

Thánh Tông cười, mà rằng:

– Các khanh đã nói thế thì ta và hoàng thượng đành lận đận một chuyến nữa vậy.

Nhân Tông bấy giờ đã tươi tỉnh lại, ngài nói vui:

– Quốc Tuấn và Quang Khải đã đồng mưu, trẫm thoái thác sao nổi. Nhưng trước khi lên đường, trẫm muốn cùng các khanh chọc giận bọn Mông Thát cho hả dạ.

Hưng Đạo nói:

– Theo tin tức thám báo, bọn Giảo Kỳ, Đường Ngột Đãi đang lùng sục tìm tung tích thuyền ngự. Ta cho phục binh ở nguồn Tam Trĩ rồi dùng thuyền rồng câu nhử. Nơi này sông nhỏ, nhiều ghềnh thác nên nước chảy xiết. Giặc tất kéo quân đến vây đánh mà lơ là các cửa sông ở dưới xuôi. Bấy giờ là thời điểm thuận tiện để nhị hoàng dẫn binh thuyền từ Nam Triệu men của Văn Úc vào Ái châu. Khi các ngài đi rồi, giặc không tức mới lạ.

Nhân Tông chấp nhận kế sách của Hưng Đạo, bèn truyền lệnh:

– Vùng sông biển đông bắc không ai rành rẽ bằng Nhân Huệ, vậy ta cử vương dẫn theo một vạn quân bố trận ở Tam Trĩ. Trẫm sẽ đích thân theo Nhân Huệ đi thị sát trận địa. Cử Thái sư Chiêu Minh đốc thúc việc chuẩn bị binh thuyền, khi thời cơ thuận lợi sẽ hộ giá Thượng hoàng và trẫm nam chinh.

Thánh Tông nói:

– Ta cũng muốn đến Tam Trĩ một chuyến. Giặc nghe tin các vua lên nguồn thể nào cũng mò tới. Chúng đến bằng đường thủy thì ta và bệ hạ sẽ rút bằng đường bộ, bấy giờ việc tiếp chiến bọn Mông Thát là trách nhiệm của Khánh Dư.

Quang Khải nháy mắt với Quốc Tuấn ngầm ý bảo nên tìm cách khuyên can nhị hoàng. Hưng Đạo bất đắc dĩ đành lên tiếng:

– Trận này dùng ít quân, không đánh lớn, nên chăng Thượng hoàng và Quan gia chờ dịp khác?

Nhân Tông gạt đi:

– Ý trẫm đã quyết, cứ như vậy mà theo.

Biết không thể lay chuyển được vua, Hưng Đạo đành nín lặng. Nhìn vẻ mặt Thánh Tông có phần nặng nề, vương thấy bất ổn. Sau buổi họp quân cơ, ông nấn ná gần Thượng hoàng, hy vọng tìm được lời giải đáp.

Vốn dĩ Thánh Tông chưa an lòng khi Hưng Đạo trước sau toàn vạch đường tránh né giặc, lại liên tưởng tới bọn tôn thất lũ lượt quy hàng khiến ngài đâm ra lo lắng, không hiểu bụng dạ của người thống lĩnh binh quyền còn trung kiên như trước hay đã có phần lung lạc?

Quả nhiên, Thánh Tông kêu Hưng Đạo lại rồi vờ than thở:

– Mông Thát quá mạnh, trẫm cứ chạy hoài nên tinh thần cũng nản. Thế giặc như vậy, hay ta hàng cho rồi?

Quốc Tuấn khảng khái cự tuyệt:

– Nếu bệ hạ muốn hàng, hãy chém đầu thần trước.

Rồi vương quỳ dưới chân Thượng hoàng, hai tay nâng đoản kiếm, tỏ thái độ chấp nhận để bề trên định đoạt số phận nhưng cương quyết không thay đổi lập trường. Thánh Tông vội đỡ Hưng Đạo dậy, mà rằng:

– Ta đã thật sự an tâm. Có tôi trung như khanh mà còn nghĩ đến việc hàng giặc thì quả là điều hổ thẹn.

Vua tôi lại chuyện trò thân mật như anh em trong nhà. Khánh Dư muốn gặp riêng Hưng Đạo nhưng thấy vương đang hầu chuyện Thượng hoàng nên không dám can dự, cứ đứng thập thò ngoài cửa chờ đợi. Thánh Tông bèn cho gọi vào, ngài hỏi:

– Nhân Huệ muốn gặp ta hay gặp Tiết chế?

Khánh Dư đáp:

– Thần không dám quấy quả Thượng hoàng, chỉ muốn bàn với Hưng Đạo về chuyện gia binh.

Thánh Tông nói:

– Thời bình thì tôi tớ của ai người ấy dùng, thời loạn thì gia binh là quân trong nước, hai người cứ bàn bạc, ta cũng muốn nghe.

Khánh Dư trình bày:

– Trong trận chiến ở Phả Lại hồi đầu tháng giêng, Hưng Đạo có cho thần mượn đội Kình Ngư do gia nô Yết Kiêu chỉ huy, họ là những chiến binh bơi lặn tuyệt vời từng đánh đắm được nhiều thuyền địch. Sau trận ấy, toàn đội theo thần rong ruổi đánh giặc từ nam chí bắc, bây giờ quay lại Vạn Kiếp, cả đám cứ nằng nặc xin trở về dưới trướng Hưng Đạo.

Thánh Tông cười lớn rồi nói:

– Sao Nhân Huệ tham quá vậy, Hưng Đạo cho mượn người chứ có cho luôn đâu. Trước kia chủ tớ người ta chưa thuận tiện đoàn viên, nay nhân dịp ở gần thì cho họ về với Quốc Tuấn là được rồi, còn bàn tính gì nữa?

Hưng Đạo nói:

– Thần đã hiểu ý của Nhân Huệ. Chắc Phiêu kỵ tướng quân muốn mượn thêm ít ngày để dùng họ trong trận Tam Trĩ phải không?

Khánh Dư mắt sáng rỡ, cười nói chắc nịch:

– Đúng vậy, chỉ mượn nốt lần này thôi, sau đó trả luôn.

Hưng Đạo hỏi:

– Đám Kình Ngư còn đầy đủ không?

Khánh Dư đáp:

– Chỉ còn ba mươi hai người, chủ yếu thiệt mạng trong trận Phả Lại. Có ba người bị Ô Mã Nhi bắt sống, thấy trên tay tù binh thích chữ “Sát Thát” nó sai quân bêu cọc rồi lóc thịt cánh tay của họ cho chảy máu đến chết.

Hưng Đạo thở dài thổ lộ:

– Thần tuyển đội Kình Ngư từ khắp vùng sông biển, nhiều người còn chưa kịp nhớ tên. Sau trận Tam Trĩ, Nhân Huệ cho Yết Kiêu dẫn họ về đây.

Thánh Tông cũng tư lự:

– Chiến tranh tàn khốc quá. Bọn sử gia chẳng biết có biên chép được những chuyện như thế này không?

Thừa lệnh Quan gia, Nhân Huệ Vương dẫn một vạn binh lên ém trên nguồn Tam Trĩ, lại sai người điều khiển đoàn thuyền ngự vài chục chiếc, trống dong cờ mở từ Ngọc Sơn xuôi ra biển rồi vào cửa Cái đến đâu tại nơi đã định. Đi cùng ông còn có nhị hoàng được năm trăm túc vệ hộ giá, nhưng do các ngài không mặc long bào nên người ngoài không thể hay biết trong đoàn quân có hai vị đế vương. Họ che giấu thân phận để bọn hóng hớt thông tin cho giặc sẽ lầm tưởng Thượng hoàng và Quan gia bấy lâu vẫn ngự thuyền rồng.

Lên Tam Trĩ, các vua ghé bản trên xóm dưới vỗ về dân chúng rồi xuống thuyền rồng, nhưng khi trời tối lại bí mật quay vào làng cùng với vài chục vệ sĩ, đến nghỉ tại nhà của hào trưởng Lê Tự Đức. Tờ mờ sáng hôm sau, nhị hoàng cưỡi ngựa lên đường, ra tới đầu làng đã thấy đội cấm quân túc trực. Vua tôi âm thầm rời khỏi Tam Trĩ, vượt núi băng rừng đến Thủy Chú xuống thuyền ra Nam Triệu, nơi binh thuyền của Trần Quang Khải đang đón đợi. Hai vua ở lại Nam Triệu vài ngày, chờ nhận được tin tức chiến sự tại Tam Trĩ sẽ lập tức khởi hành ra biển để vào Thanh Hóa.

Các vua đi rồi, hào trưởng Lê Tự Đức dẫn theo bốn trăm dân binh đến tham gia đánh trận cùng lực lượng của Trần Khánh Dư. Dựa vào địa thế Tam Trĩ, Nhân Huệ Vương cho đoàn thuyền ngự đậu ở khúc sông hẹp nước chảy xiết, phía trên là ghềnh đá, bên bờ là vách núi được dùng làm nơi ém quân.

Nắm bắt được thông tin vua Trần đang ở Tam Trĩ, bọn Nguyên tức tốc tụ tập binh thuyền kéo đến vây đánh. Đoàn thuyền của Giáo Kỳ và Đường Ngột Đãi chủ yếu là giang thuyền nên lãnh trọng trách tiên phong kéo lên thượng nguồn. Thuyền của Lý Hằng phong tỏa cửa Cái đề phòng Trần gia vượt thoát ra biển. Ô Mã Nhi dẫn quân lên bộ, hòng chặn đường trốn chạy của các vị vua nước Nam.

Nhìn từ xa, thấy thuyền rồng của các vua đậu bên bờ, Đường Ngột Đãi cho nổi trống thúc quân đánh tới. Thuyền của giặc vây kín đoàn thuyền ngự, quân trên thuyền vua nháo nhác bỏ chạy lên bờ. Giảo Kỳ hí hửng giục lính dùng câu liêm móc vào thuyền đối phương để nhảy sang đoạt thuyền. Đường Ngột Đãi định cản lại nhưng đã muộn.

Khi bọn Nguyên đua nhau trèo sang thuyền của ta để cướp bóc thì các thuyền trước sau ngập nước bởi những lỗ thủng bị đục dưới đáy làm nhiều đứa chết chìm. Giặc chưa hết kinh hoàng đã thấy vô số bè mảng rực lửa được thả từ trên ghềnh cao trôi vun vút xuống đám thuyền đang líu díu vào nhau ở phía dưới. Cả thuyền ta lẫn thuyền địch bén lửa cháy đỏ một góc trời, bọn lính bỏ thuyền nhảy xuống sông lại phơi mình cho cung thủ từ trên núi bắn hạ. Đường Ngột Đãi sai khua trống lui quân, song khúc sông hẹp nên khó bề kéo giãn đội thuyền ra khỏi trận địa.

Bấy giờ là lúc Nhân Huệ Vương tung thủy quân vào trận, hàng trăm chiếc thuyền tam bản từ các lạch nhỏ túa ra, mỗi thuyền chở hai ngũ thủy binh dùng móc câu bám theo thuyền địch. Bọn giặc trên thuyền bắn tiễn, quân ta lấy lá chắn bện bằng rơm đỡ tên, khi áp sát mạn thuyền của chúng, các chiến binh thoăn thoắt leo lên cận chiến. Phiêu kỵ tướng quân trực tiếp đánh trận, thuyền của ngài cùng sáu, bảy chiếc tam bản bâu kín giang thuyền có cắm cờ vương mà công kích. Khi đã leo lên được thuyền, Khánh Dư tay vung long đao cùng các tráng sĩ Đại Việt lăn xả vào kẻ thù huyết chiến. Quân giặc đông hơn, song tinh thần đã bạc nhược nên bị dồn ép vào đuôi tàu phải dùng mộc gỗ che chắn gươm mác bổ tới. Giảo Kỳ quá khiếp đảm bèn chui xuống khoang thuyền lẩn trốn, bỏ mặc binh sĩ kháng cự địch quân.

Ở trên bờ, đột nhiên quân Thát rầm rộ kéo đến. Ô Mã Nhi dẫn một đoàn kị mã lao tới ngọn núi, chúng phi nước đại rồi buông dây cung xạ tiễn vào đội hình của ta, quân ta lấy mộc chắn tên và phóng lao cản địch. Bọn bộ binh ồ ạt đánh lên núi, quân ta lâm vào thế hiểm.?

Một toán kị binh khác của giặc chạy dọc bờ sông bắn tên hạ gục lính chống sào của ta, nhiều chiếc tam bản không còn người điều khiển trôi dạt theo dòng nước. Thấy tình hình bất lợi, Nhân Huệ hạ lệnh lui quân, các chiến binh rời thuyền đã chiếm được của địch, nhảy xuống thuyền nhỏ. Đường Ngột Đãi dùng nhiều thuyền lớn chắn ngang các lạch nguồn, hòng bịt đường rút của ta. Trần Khánh Dư buộc phải cho đội thuyền hướng ra biển. Thuyền tam bản nhỏ nên lướt nhanh hơn thuyền giặc, chẳng mấy chốc đã bỏ xa bọn chúng. Khi đến gần cửa sông, thấy phía trước đen kín thuyền Mông Thát, ông bèn hạ lệnh cho quân rời thuyền, rút bằng đường bộ.

Trận chiến ở trên núi diễn ra dữ dội, gần năm ngàn chiến sĩ nước Nam chống cự với hơn một vạn quân của Ô Mã Nhi. Giặc chiếm được già nửa sườn núi bên mé sông, quân ta lui dần lên cao. Khi nhìn thấy cờ hiệu rút quân, hào trưởng Lê Tự Đức nói với các vệ binh “Đây là bản quán của ta. Bọn ta sẽ cầm chân địch, các huynh đệ hãy mau rút sang bên kia sườn núi để còn theo vua đánh giặc ở nơi khác”. Vị hào kiệt địa phương cùng đội dân binh Tày Nùng đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, giúp cho lực lượng vệ quân của Nhân Huệ Vương không bị tổn thất lúc rời trận địa.

Toán Kình Ngư của Yết Kiêu sau khi đục thủng đội thuyền vua nhấn chìm hàng trăm tên giặc, còn dùng dao nhọn quần thảo với bọn địch lóp ngóp bơi dưới nước. Bảy chiến binh kiêu hùng đã vĩnh viễn nằm lại dưới nguồn Tam Trĩ, mãi mãi không thể trở về với đồng đội ở Vạn Kiếp.

Dù suýt toi mạng ở Tam Trĩ nhưng Giảo Kỳ vẫn khoác lác báo công “Suýt bắt được cha con thế tử”. Đường Ngột Đãi thì kể lể y như thật “Các vua Trần chỉ còn bốn thuyền chạy thoát ra biển”. Riêng Lý Hằng vênh váo tổng kết “Bắt được hai trăm thuyền chiến”. Chẳng kẻ nào nhắc đến thuyền ngự, bởi nó đã bị chìm dưới đáy nguồn cùng với cả trăm tên Mông Thát chết sặc nước vì tật hôi của. Còn hai trăm chiếc tam bản bị quân ta bỏ lại, Lý Hằng nghĩ mãi không biết dùng vào việc gì đành cho đốt bỏ rồi phàn nàn với thuộc hạ “Chúng nhỏ như chiếc lá, ra tới biển gặp một con sóng là tan tành cả. Đúng là mua việc vào người, đã không dùng được còn phải tốn củi đốt”.

Khi giặc “đang bắt vua” ở Tam Trĩ thì cách đấy gần hai trăm dặm binh thuyền của Chiêu Minh Vương hộ tống nhị hoàng khởi hành ra biển vào nam.

Lại nói về Hữu thừa Toa Đô. Sau khi bọn Giảo Kỳ, Đường Ngột Đãi kéo nhau ra Thiên Trường trình diện Trấn Nam Vương, Toa Đô thống lĩnh bảy vạn quân ở lại trấn giữ Trường Yên, đề phòng quân Trần từ Hoan Ái đánh ra. Viên chiến tướng chia quân làm ba cánh; cánh đông nam có ba vạn quân trú đóng tại Yên Mô làm nhiệm vụ phòng vệ đèo Tam Điệp; cánh tây bắc có một vạn quân trấn thủ Uy Viễn nhằm ngăn chặn dân binh các trại miền núi kéo xuống quấy phá; còn lại ba vạn quân do y trực tiếp nắm giữ đóng tại Yên Ninh, không quá cách xa đại quân của Thoát Hoan ở Thiên Trường. Nơi đấy dễ tiếp cận với nguồn lương thực từ phía bắc chuyển vào, lúc cần giải quyết cái đói sẽ nhanh hơn ở nơi khác.

Lúc trước, khi quân Nguyên ra tới Trường Yên thì lực lượng của nhà Trần đã rút hết nên Toa Đô và Đường Ngột Đãi không bận tâm nhiều đến việc đánh trận, duy vấn đề lương thực làm chúng mất ăn mất ngủ. Từ khi khởi sự tiến đánh Đại Việt, đạo quân phía nam của Mông Thát chủ yếu sống nhờ vào nguồn lương thực cướp bóc dọc đường. Đi đến đâu chúng đều tung quân vào các làng bản trong vùng vơ vét cạn kiệt mọi thứ có thể ăn được, từ thóc gạo cho đến gia cầm, gia súc, thậm chí bắp chuối, đọt măng cũng bị nhổ sạch. Quân của Toa Đô, Đường Ngột Đãi thoát khỏi tình cảnh đói khát cũng do chiến lợi phẩm tận thu của dân chúng tương đối dồi dào, dù chẳng thừa mứa thỏa thế nhưng đủ làm no bụng một chục vạn cái miệng thèm ăn. Cuộc hành binh cướp bóc của chúng buộc phải dừng lại ở Trường Yên, phía trước là Thiên Trường, điểm khởi đầu vùng đất “thuộc quyền” vơ vét của đại quân Thoát Hoan.

Chẳng phải đánh trận thì vẫn phải ăn, thành thử đạo quân phía nam chỉ còn mỗi công việc tự lo nuôi miệng. Hằng ngày các tướng chia quân lùng sục mọi ngóc ngách có người ở để cướp trắng miếng ăn của dân. Nhưng ở cái xứ mà số dân chỉ đông hơn đạo quân của chúng một chút thì cướp đâu ra cho đủ lương thực để nuôi quân dài ngày.

Trong thế cùng quẫn, Đường Ngột Đãi bàn với Toa Đô đem quân đột kích vào Thanh Hóa cướp bóc. Toa Đô cho rằng:

– Nếu dẫn quân quay vào thì hóa vòng luẩn quẩn, dễ bị sa lầy như ở Chiêm Thành, trước kia ta và huynh đã muốn né tránh nên mới kéo nhau ra ngoài này.

Đường Ngột Đãi chủ trương:

– Chỉ sử dụng du binh, vào cướp phá rồi rút ra liền. Cứ thử một lần xem sao, nếu hiệu quả thì làm tiếp.

Chúng quyết định cư Vạn Hộ Lưu Khuê chỉ huy hai ngàn kị mã cùng với ba trăm ngựa thồ vượt đèo Tam Điệp vào Thanh Hóa cướp bóc. Lưu Khuê xin ba ngày lương ăn đường, hai viên đầu lĩnh đành miễn cưỡng cấp phát.

Mười ngày sau, đoàn kẻ cướp quay về trong bộ dạng tiều tụy, mấy trăm con ngựa thồ đã chẳng chở về được một bao lương nào lại còn bị thiếu mất vài chục con. Lưu Khuê phân bua với thượng cấp:

– Tại hạ dẫn quân vượt núi mất nửa ngày, vào đến nơi thấy các làng bản vắng hoe, trong vòng một trăm dặm dân chúng đã bỏ chạy lên núi. Vài nơi còn dân nhưng họ cũng sắp chết đói nên không có gì để lấy. Cũng có chỗ thu được chút đỉnh nhưng chỉ đủ cho quân ăn tại chỗ. Có mấy con ngựa già yếu sắp chết, tại hạ đành cho giết lấy thịt, kẻo bỏ đi thì uổng.

Toa Đô và Đường Ngột Đãi cùng lắc đầu ngao ngán. Coi như kế hoạch du binh cướp hương hoàn toàn thất bại, đám tướng Nguyên nhìn nhau phân vân, chưa tên nào nghĩ ra cách giải quyết ổn thỏa vấn đề lương thực. Bấy giờ Giảo Kỳ bèn lên tiếng:

– Phải chia quân cho Thoát Hoan gánh bớt.

Toa Đô hỏi:

– Ý ngài là sao?

Giảo Kỳ nói:

– Ta và Đường Ngột Đãi đưa vài vạn quân ra Thiên Trường, viện cớ dẫn giải bọn hàng binh và báo công. Ta là vương như Thoát Hoan, dù y là chủ soái nhưng cũng phải nể ta vài phần, bấy giờ tất phải chu cấp lương cho quân từ Trường Yên ra.

Hai gã Tả thừa và Hữu thừa tròn xoe mắt kinh ngạc, chinh chiến với nhau mấy năm trời, lần đầu tiên họ thấy Giảo Kỳ có được kế tốt. Nhưng Toa Đô muốn san thêm gánh nặng, y hạch sách đồng bọn:

– Tại sao không dẫn bốn, năm vạn mà chỉ đem theo vài vạn quân? Như thế các ông đùn hết trách nhiệm nuôi ăn bảy vạn cái miệng cho ta à?

Đường Ngột Đãi vội lên tiếng:

– Theo ta, đem hai vạn là vừa, dẫn quân ra đông quá dễ bị Trấn Nam Vương khiển trách chúng ta không lo trấn thủ Trường Yên lại kéo nhau ra chỗ đang thừa mứa quân tướng. Hữu thừa cứ yên chí lớn, trong vòng mười lăm ngày ta sẽ huy động cho huynh vài trăm xe lương.

Giảo Kỳ cũng cam kết:

– Cùng ăn gió nằm sương suốt hai năm qua, làm sao mà quên được các huynh đệ còn ở lại. Lo cái ăn cho mọi người cũng là trách nhiệm của ta mà.

Bọn Giảo Kỳ, Đường Ngột Đãi ra đến Thiên Trường là một đi không trở lại, bỏ mặc chiến hữu Toa Đô ngồi ngáp gió trong quân doanh ở Trường Yên, mòn mỏi trông đợi lương thực tiếp tế. Gã thân vương Giảo Kỳ quen lối hành xử chính giới hứa trước quên sau thì chẳng nói làm gì, Đường Ngột Đãi là chiến tướng trận mạc ăn ngay nói thẳng mà cũng thất hứa với ông bạn đồng cấp. Nhưng Ngột Đãi cho rằng mình không có lỗi, vừa ra đến nơi, ở chưa ấm chỗ đã phải xuống thuyền đuổi bắt vua chúa An Nam, rồi lại nghe phong thanh đại quân của Trấn Nam Vương cũng đang thiếu hụt lương thực thì làm sao dám mở miệng xin vài trăm xe lương?

Tình hình thiếu đói càng lúc càng cấp bách, Toa Đô đành tính nước xin hội quân với chủ soái. Thoát Hoan nhận được thư của Toa Đô bèn triệu tập chư tướng bàn nghị. Y nói:

– Toa Đô thông báo tình hình ở Trường Yên rất ổn định, y muốn dẫn bảy vạn quân ra Thiên Trường để hội với đại quân của ta. Ý các ngươi nên thế nào?

A Lý Hải Nha phản đối:

– Không nên. Trường Yên có đèo Tam Điệp hiểm trở ngăn cách phía nam. Bỏ Trường Yên thì Thiên Trường hở sườn, bọn An Nam sẽ thừa cơ thu hồi, chúng dễ dàng đem quân từ Hoan Ái ra kết hợp với quân của Quốc Tuấn ở đông bắc ép ta từ hai đầu.

Khoan Triệt lên tiếng:

– Tuyến đường vận lương thường bị chặn đánh. Ba lăm vạn quân còn chưa đủ ăn, bây giờ kéo ra thêm bảy vạn nữa thì lấy gì mà nuôi.

Bột La Hợp Đáp Nhĩ đề nghị:

– Nên để Toa Đô ở lại Trường Yên, tự lo lấy lương mà ăn. Ta đã nuôi giúp y hai vạn quân của Đường Ngột Đãi, còn đòi hỏi gì nữa.

Sát Tháp Nhi Đài hiến kế:

– Hay là điều quân của Hữu thừa quay vào Hoan Ái, nơi đấy đất rộng người đồng dễ kiếm lương thực.

Khoan Triệt cản lại:

– Thiên tử sai đem quân sang An Nam để bình định chứ không phải để kiếm ăn. Trường Yên là đất trọng yếu, không nên rời đi. Bây giờ chẳng có việc gì lại kêu Toa Đô dẫn quân vào Hoan Ái thì khác nào bảo y bỏ chỗ binh pháp khả dụng mà vào trong đấy cho dễ sống.

A Lý Hải Nha nói:

– Đại vương cứ chỉ thị cho y ở yên tại chỗ, tự lo kiếm ăn, trong vòng một tháng sẽ có lệnh mới. Đến lúc đấy tùy tình hình hằng quyết định phải làm gì.

Thoát Hoan cho là hợp lý, bèn sai người thảo thư gửi Toa Đô, trong thư có đoạn viết “...Hữu thừa án binh tại Trường Yên, cho quân dưỡng sức, chờ lệnh mới”. Thoát Hoan không đả động gì đến chuyện lương thảo, coi như đấy là việc nhỏ, không đáng bàn.

Khi nhận được thư của Trấn Nam Vương, Toa Đô vò đầu bứt tai, mà rằng “Đóng ở đây cả năm cũng chẳng sao, nhưng phải cấp lương cho bọn ta chứ. Giảo Kỳ và Đường Ngột Đãi xảo quyệt thật, chúng thông đồng lừa ta ôm bụng đói mà nằm chết dí nơi này”. Y lại viết thư cho Thoát Hoan, kể lể sự tình và đặt vấn đề xin ăn, trong đó có câu “Cấp cho một tháng lương thực”.

Đọc xong thư thỉnh cầu của Toa Đô, chủ soái Nguyên Mông nói với thuộc hạ “Tên này điên thật rồi, ta còn chẳng dám mơ có đủ lương ăn một tuần mà nó lại dám đòi cấp lương một tháng”. Thoát Hoan sai người viết chữ đẹp thảo thư gửi cho gã chiến tướng đang khốn khổ vì chuyện lương thực nuôi quân. Nhận được thư, viên Hữu thừa mở ra xem, chỉ thấy trên giấy vẻn vẹn có mấy từ được viết theo lối chữ triện “Tự túc chi thực. Vô nhiễu chi vương.Tự kiếm mà ăn. Cấm phiền đến Vương."

Toa Đô hiểu Thoát Hoan ngầm báo cho y biết đây là quân lệnh, đã được đóng triện, chỉ việc tuân thủ, miễn bàn cãi. Đang trong tâm trạng thất vọng, nhìn ra cánh đồng hoang phía trước thấy đàn ngựa gặm cỏ, Toa Đô chợt nhớ đến lời khác nhau của bọn kị mã “Thịt ngựa thồ hơi dai nhưng vẫn bổ dưỡng”.

Thịt ngựa là món ăn quen thuộc của dân thảo nguyên, song chẳng ai giết ngựa quân dụng để ăn thịt, trừ khi bức bách vì đói. Cuộc đời chinh chiến của Toa Đô chưa từng trải qua tình cảnh đói khát đến vậy, nên bản thân, cũng chưa một lần nếm thử thịt ngựa thồ để cảm nhận cái dai, cái bổ của nó. Y thầm nghĩ chẳng có lương để chở thì bầy ngựa thồ thành vô dụng, chúng chính là nguồn thực phẩm chống đói trước mắt, đừng phải làm thịt cả ngựa chiến là ơn trời rồi.

Từ ngày chiến tranh bùng nổ, các môn khách của Hưng Đạo Vương theo ngài bôn ba trận mạc khắp vùng đông bắc, trở thành những mưu sĩ đắc dụng trong trung quân. Mỗi khi có việc hệ trọng, vương thường cùng họ ngồi bàn bạc thấu đáo, có hôm tới tận canh ba mới xong việc.

Một buổi tối, Hưng Đạo triệu tập mọi người gấp tới soái phủ. Khi đã đủ mặt, vương lấy ra từ cáo thị của quân Nguyên, do thám báo đem về, để tất cả cùng xem. Ngài nói:

– Ích Tắc đã về hàng giặc, còn vô sỉ cao giọng kêu gọi quân dân theo gương y làm tôi đòi ngoại bang. Việc này sẽ tạo ra tác động xấu, chúng ta phải tìm cách ngăn chặn sớm.

Ngô Sĩ Thường tham mưu:

– Giặc ban bố cáo thị thì ta viết hịch đập lại luận điệu của Ích Tắc.

Hưng Đạo hỏi:

– Theo các huynh đệ, hịch nên viết gì?

Phạm Lãm đề nghị:

– Cần vạch trần sự ô nhục của y, tuyên truyền thế mạnh của ta, thế bí của giặc.

Trần Thị Kiến góp ý thêm:

– Chúng kích động dân ta làm phản thì ta tung hỏa mù để chúng nghi kị lẫn nhau, Thoát Hoan tất phải phòng bị, bấy giờ bọn phản quốc khó lòng mà yên thân.

Hưng Đạo hài lòng với cách thức thể hiện lời hịch, ngài bảo:

– Đây là cuộc đấu trí giữa ta và địch, phải tiến hành quyết liệt sao cho mưu đồ lôi kéo nhau hàng giặc trở thành trò cười của thiên hạ. Hoàng thượng không có ở đây, ta thay mặt ngài giao cho Ngô Sĩ Thường soạn thảo văn bản lấy tên là “Hịch giải tà kháng địch”.

Mấy ngày sau, khắp chợ cùng quê chỗ nào cũng thấy xuất hiện hịch của Quan gia dán đè lên bố cáo rách bươm của phản nghịch Trần Ích Tắc. Tại những nơi gần trại giặc, nhân dân truyền tay nhau các tờ hịch, người biết chữ đọc cho nhiều người cùng nghe, khiến ai ai cũng vui mừng trào lệ, tinh thần rắn rỏi thêm lên lấn át cả nỗi khiếp đảm cố hữu, niềm tin đang lớn dần trong tâm thức con dân Đại Việt về một ngày không xa đuổi sạch giặc thù, giành lại giang sơn xã tắc.

Nội dung hịch văn “Giải tà kháng địch” như sau:

Vừa rồi:

Vua lang sói khởi cuộc binh nhung

Tướng hồ ly nổi cơn hiếu chiến

Từ phía bắc rầm rộ tràn qua

Tận phương nam lũ lượt ùa đến

Thúc vó ngựa hung tàn, bãi Đà Mạc xương trắng phơi đồng

Vung lưỡi gươm bạo ngược, bờ La Giang máu đào nhuộm bến

Qua Vạn Kiếp đánh già khảo trẻ, mượn tiếng trị an sao ác tựa beo hùm

Đến Hoan Diễn vét thóc bắt gà, cao giọng phục chúng mà rách như tổ đỉa

Đêm đêm đốt phá giống lũ yêu ma

Ngày ngày cướp giết quen thói độc địa

Che trời cao hành bạo còn mạo uy đích thị con trời

Khỏa nước nhỏ dấy đục vẫn khoác danh ra vẻ đại quốc

Vậy mà:

Bầy cẩu trệ kết đảng bán nước cầu vinh

Bọn thỏ đế a tòng lừa thầy phản phúc

Mặc sơn hà chìm nổi, lương thưng tráo đấu, lo xác hèn nên lội ngược lòng dân

Kệ trăm họ tang thương, đục nước béo cò, thu lợi nhục mà bợ đỡ đít giặc

Bất chấp nồi da nấu thịt, đứa công hầu bẻ giáo dối vua

Chẳng quản theo đóm ăn tàn, thằng thuộc tướng quay dao chém chủ

Dâng Thanh Hóa cho giặc, còn dẫn đường giúp chúng đánh cha

Đến Thiên Trường hàng thù, lại thảo văn phụ địch hại chúa

Đáng thương thay! Một lũ hồ đồ cõng rắn cắn gà nhà

Tủi hổ thay! Mấy đứa dại khờ rước voi giày mả tổ

Lại ngẫm:

Lá rụng chân cội, phải con cháu Tiên Rồng hãy sớm sớm hồi tâm

Nước chảy đường xuôi, vẫn dòng dõi Lạc Hồng hãy mau mau tỉnh ngộ

Dù vàng phai đá nát, cải tà quy chính đấy cũng nên công

Có trời cao đất dày, bỏ ác theo thiện quyết chẳng truy tội

Mang giáo dẫn ngựa cùng về thì phục tước bồi hoàn

Giết quân bắt tướng đem nộp sẽ thăng cấp thưởng mới

Nay thấy:

Lý Hằng ở đông bắc vẫn loanh quanh chuột chạy cùng sào

Toa Đô náu Trường Yên cứ lấm lét chó chui gầm chạn

Cáo mượn oai hùm, vô tài vô dũng, Thoát Hoan lấy thúng úp voi

Cú dòm nhà bệnh, dở ông dở thằng, Giảo Kỳ đếm cua trong lỗ

Tháng tư kho cạn lương, A Lý đói lòi con mắt, lầm rầm sôi hỏng bỏng không

Tháng năm nắng đổ lửa, Khoan Triệt rộp phồng da cóc, than van lạ nước lạ cái

Mấy vạn tinh binh mặt xanh nanh vàng, quỷ tha ma bắt tiến nạn thoái nan

Mấy trăm chiến tướng đầu chày đít thớt, trời đánh thánh vật sống hạn chết hạn

Bấy giờ:

Quân dân ta chung lưng đấu cật quét bụi Hồ dơ dáy

Nam bang tướng sĩ ta trên dưới đồng tâm sửa máu Thát tanh ngòm Đông hải

Từ điêu linh trỗi khúc hoan ca mà xây thời trị bình

Qua tao loạn khơi nguồn pháp đạo mà dựng nền an thái.

Quan gia ban hịch

Bố cáo gần xa.