← Quay lại trang sách

Chương 3 Tứ diện thọ nạn, Thoát Hoan rời Thăng Long sang sông
Lưỡng đầu cấp nguy, Giảo Kỳ bỏ Thiên Trường đào nhiệm

Đang ngồi bàn bạc kế hoạch tiến đánh cầu phao của giặc trên sông Hồng, Trần Nhật Duật nghe quân vào báo có ba cụ già xin gặp chủ tướng. Chiêu Văn vội vã cho mời, sai người rót trà tiếp khách. Một ông cụ trình bày:

– Mấy lão là người ở đây, tuổi cao sức yếu không thể theo vua đánh giặc, đành đến góp ý giúp ngài phòng tránh rủi ro.

Nhật Duật nói:

– Chiêu Văn vô cùng cảm kích thịnh tình của các cụ. Vậy có ý kiến gì các cụ cứ cho biết?

Một cụ hỏi:

– Thời tiết mấy hôm nay oi bức khác thường, ngài có biết đây là hiện tượng gì không?

Nhật Duật ngớ người, đành đáp:

– Vương tôi tuổi đời chưa dày, còn thiếu kinh nghiệm, mong các bậc cao niên chỉ dạy.

Một cụ nói:

– Các dấu hiệu tự nhiên cho thấy trời đang ủ bão, chỉ mai hoặc mốt sẽ có trận bão lớn kéo vào, có thể ảnh hưởng đến việc binh của tướng quân.

Một cụ khác nói rõ hơn:

– Mưa gió sẽ dữ dội lắm, tướng quân không nên tiến hành hoạt động quân sự trên sông nước, cần cho quân tìm nơi trú đóng an toàn.

Chiêu Văn Vương mừng lắm, không ngớt lời cảm tạ tấm lòng của mấy ông cụ. Họ về rồi, ông hạ lệnh dừng kế hoạch đánh cầu phao, khẩn cấp chuyển quân lương đến nơi cao ráo và điều quân hiệu tỏa ra khắp hướng hỏa tốc cấp báo cho các lực lượng khác để kịp thời tổ chức phòng tránh thiên tai.

Mấy ngày liền nắng to, mặt trời đổ lửa nung mái ngói cung điện hoàng thành, phả hơi nóng hầm hập xuống sàn nhà làm lũ tướng soái Nguyên Mông rên rỉ suốt ngày rằng bị trời hành thì mới khốn khổ đến thế. Khoảnh sân trước cung cứ đỏ rực lên làm lóa cả mắt, lại còn bỏng rẫy như cái bếp lò, khiến Trấn Nam Vương bực bội, muốn sai người cạy bỏ hết lớp gạch cho đỡ ngứa mắt, nhưng thấy hao hơi tốn sức quá nên thôi.

Họa chăng cái sân gạch ấy cũng đem lại tí chút hữu ích, khi Thoát Hoan nghĩ ra một trò trừng phạt lạ lẫm, rất tức cười nhưng vô cùng hiệu quả. Số là có tên lính hầu bị bắt quả tang ăn vụng, theo lệ cũ thì phải phạt chục roi hoặc nhốt giam bỏ đói vài ngày. Nhưng lần này Hoan trị tội theo lối mới, bắt thằng ăn vụng đi chân trần trên sân vào giấc trưa. Tên lính nhảy loi choi giữa sân, chân này hạ xuống thì chân kia co lên vì không chịu nổi sức nóng của nền gạch trong lò nung tạo hóa. Đám quan tướng nhìn nó tưng tưng như con rối mà không nhịn được cười, rồi đua nhau nịnh chủ soái là người tài trí, rèn quân nghiêm cẩn theo cốt cách của bậc đại vương có chân mệnh trị quốc phục chúng. Thoát Hoan phổng lỗ mũi, càng được thể ra vẻ tâm đức “Tính ta vốn quý binh trọng tướng, không nỡ bắt nó nhịn đói hai ngày nên phạt nhẹ thế thôi. Mai mốt bình định xong xứ này, phải trông cậy các ngươi phò tá thì mới nên đại sự”. Y vẫn nuôi mộng theo gương cha chú dựng đế nghiệp riêng, như năm xưa cụ nội về trời, con cháu của ngài nghiễm nhiên xưng Hãn tại vùng đất chiếm được, làm chúa tể một cõi.

Sau nửa canh giờ, tên lính bị chủ soái “phạt nhẹ” lăn đùng ra giữa sân, ngất lịm. Được khiêng vào chỗ râm, hắn hồi tỉnh, nhưng đôi bàn chân thì phồng rộp, đỏ au như con tôm luộc. Nghe nói khi quân Nguyên rút khỏi Thăng Long, nó đi không nổi nên đồng bọn thương tình cho ngôi đỡ trên xe chở vật dụng nhà bếp của đại vương.

Đầu lĩnh các quân chứng kiến hiệu quả của chiêu thức xử phạt mới lạ, chúng bảo nhau rằng phải học hỏi để áp dụng “Đừng đánh đòn làm chi cho mang tiếng ác, đứa nào mắc lỗi, cứ phạt như vậy là chừa ngay”.

Ban ngày thì bị trời hun nắng phải lè lưỡi hổn hển giống chó mắc dại, tối về thì bức bối ngột ngạt đến mồ hôi cũng sôi sục. Màn đêm khô khốc, chẳng hề có một ngọn gió phe phẩy, bầu không khí từ ngoài sân cho tới nội cung phát ngộp muốn tắc thở, càng làm đám người xứ lạnh thấm thía nỗi cơ cực của mùa hè nhiệt đới. Da thịt lên cơn sốt khiến cái đầu bốc lửa. Dĩ nhiên, người duy nhất được phép bốc lửa khởi đầu là Trấn Nam Vương. Y bản tính gắt như hũ mắm của dân Nam, chửi quân mắng lính không cần duyên cớ, nằm trên phản ngủ có bốn tên hầu đứng bốn góc quạt phì phạch cả đêm, tên nào lơi tay là bị đe “Trưa mai cho ra sân hứng nắng”.

Đám tôi tớ mệt mỏi lờ đờ như lũ cá ngạt khí đến lạy lục viên Tổng quản nội vụ Vương Hạo bày mưu giải nạn. Gã hạ quan ăn của đút bền hiến kế... như thế... như thế... Bọn hầu cận hí hửng làm theo, hi vọng chủ soái sẽ ngủ ngon mà không quấy rầy cả đêm, có khi còn trọng thưởng cho công lao tận tụy.

Khuya về, đến lúc Thoát Hoan sửa soạn thượng sàng, mấy tên lính hớn hở mời đại vương sang ngự ở chỗ khác. Hoan bước vào của Thiên An, ngạc nhiên nhìn chiếc lều Mông Cổ được dựng giữa điện. Trong lều có chiếc phản gỗ đen bóng. Một tên thay mặt cả bọn thưa bẩm:

– Lều da cản được hơi nóng từ mái ngói dội xuống, không khí đỡ ngột ngạt, đại vương sẽ an giấc.

Viên chủ soái nửa tin nửa ngờ, nhưng muốn thử một lần xem sao. Dĩ nhiên vẫn có đủ bốn tên hầu đứng quạt phì phạch. Nằm trở qua trăn lại một lúc, Hoan bật dậy mắng xa xả:

– Thằng nào nghĩ ra cái trò này? Trong cung nóng như lò luyện đan mà chúng mày còn rinh thêm cái nồi hầm thịt rồi bảo ta vào nằm trong đấy. Mồ hôi đọng thành vũng trên phản kia kìa. Giờ ngọ ngày mai cho lũ bay ra sân nhảy nhót.

Bọn tôi tớ quỳ sụp dưới chân chủ soái xin tha tội. Thoát Hoan hậm hực bỏ đi.

Cái sự nắng nôi thì ai cũng khổ sở, riêng Khoan Triệt mắc thêm bệnh đau đầu. Vốn dĩ mỗi lần gặp mặt, thấy Trấn Nam Vương nhìn mình bằng ánh mắt hằn học, khiến y suy nghĩ nát óc mà không tìm ra nguyên do, thế là sinh chứng nhức đầu. Rồi một lần nghe Thoát Hoan mai mỉa “Mùa đông thì lạnh ớn xương, mùa hạ thì nóng há mồm, vậy mà có đứa còn bảo cung điện An Nam mát mẻ lắm”. Viên Hữu thừa giật thót, biết chủ soái ám chỉ mình, y thầm nhủ phải tìm cách sửa chữa cái lỗi bày đường dại dột. Nghĩ mất nửa buổi thì Khoan Triệt tìm ra một cách có thể hóa giải thành kiến của Trấn Nam Vương, biết đâu còn lấy được lòng chủ soái.

Lần nọ dẫn quân đi cướp bóc ở phía tây kinh thành Thăng Long, Khoan Triệt xộc vào một ngôi chùa có đề chữ Chiêu Thiền tự. Chùa nghèo xơ xác, ngoài mấy pho tượng sứt sẹo thì chẳng có gì đáng giá để mà vơ vét. Thấy ông thầy già và thẳng tiểu con con đang tụng kinh niệm Phật, Khoan Triệt sai điệu ra sân để tra xét. Y hỏi tăng về danh tính, chúc phận. Nhà sư đáp:

– Bần tăng họ Trần, tên Việt Cường, pháp danh là Khắc Nguyên, trụ trì chùa này.

Triệt vốn người Ô Tư Biệt Khắc, không mấy rành văn hóa Hán, dĩ nhiên chẳng hiểu nổi ý nghĩa sâu xa trong cách chơi chữ xỏ xiên của tăng già nên không bắt bẻ gì, mà lại hỏi:

– Sao chùa nghèo thế, đồ quý đâu cả rồi, nếu chôn giấu thì phải khai ra?

Sự Khắc Nguyên đáp:

– Chùa nhỏ, ít người đến viếng. Mấy năm mất mùa nên dân tình đói khổ, lo cái ăn không đủ thì lấy đâu ra tiền bạc cúng chùa. Thiền môn trống trải nghèo túng, làm gì có đỗ quý chôn giấu.

Khoan Triệt sai quân xuống hậu tự lục soát. Quả nhiên chẳng có gì đáng giá, ngoài một chiếc rương to dài cũ kỹ, gỉ xanh lè tứ phía. Triệt hỏi:

– Cái gì đây, bên trong có gì?

Sư đáp:

– Một cái rương cũ đựng kinh sách để mối khỏi xông.

Triệt bắt mở ra. Sư và tiểu hì hục mở nắp. Bên trong toàn kinh Phật và mấy bộ cà sa bạc màu. Gõ vào nắp rương kêu lanh canh, Triệt biết là đồ đồng, nghĩ bụng “Cái này dùng làm hậu sự chắc tốt”, nhưng thấy nó cồng kềnh quá, nên cũng không thiết lấy.

Đã có mục đích hành động, Khoan Triệt dẫn quan đến thẳng chùa Chiêu Thiền, đem theo cỗ xe ngựa làm phương tiện chuyên chở.

Thấy quân Nguyên lại kéo đến, biết có chuyện chẳng lành, tăng già Khắc Nguyên không chịu mở cổng, ông nói:

– Các ngài đã đến lục soát rồi, trong chùa chẳng có gì để lấy, xin đừng quấy quả cửa thiền, cho bần tăng tịnh tâm làm Phật sự.

Khoan Triệt gắt:

– Cứ mở cửa ra rồi hẵng nói. Nếu chần chừ ta sẽ cho quân phá cổng.

Trụ trì đành phải mở cửa cho lũ kẻ cướp. Đám lính xông vào, Khoan Triệt lên tiếng:

– Phụng mệnh thiên tử Đại Nguyên, ta đến chùa trưng dụng chiếc rương đồng để dùng vào việc quân, lão có ý kiến gì không?

Tăng già chắp tay đáp rằng:

– Nam mô A Di Đà Phật, cái rương cũ vốn là di vật của thiền sư Từ Đạo Hạnh, vị thánh tổ của chùa. Đối với các ngài nó chẳng có giá trị gì, nhưng với chùa lại là món đồ trân trọng. Xin ngài niệm tình đừng lấy, kẻo bần tăng mắc tội với tiền nhân.

Khoan Triệt khoát tay cương quyết:

– Lấy là lấy, không nói lằng nhằng nữa. Nếu chống đối, ta sẽ thiêu rụi chùa rồi cũng lấy đi, chi bằng tự động giao nộp.

Sư Khắc Nguyên bất lực, chỉ biết cùng chú tiểu quỳ trước Phật đường tụng Đại Bi Tâm Đà La Ni, giữa lúc bọn lính Nguyên vật tung kinh sách và áo mũ cà sa rồi hè nhau khiêng chiếc rương đồng ra xe ngựa.

Tương truyền, thuở thiếu thời, Từ Lộ đã gánh trên vai mối thù giết cha do sự hiểm ác của đạo sĩ Đại Điên, kẻ tà tâm nhưng giải pháp thuật. Đến tuổi trưởng thành, Từ Lộ quyết chí sang Tây Thiên học làm phép để đấu với Đại Điên, đòi món nợ máu. Trên đường thiên lý, chàng trai trẻ phiêu dạt đến một am nhỏ ở đâu đó dưới chân núi Thiên Sơn, nước Đại Lý. Thấy người trai rách rưới đói khát, sư trụ trì thương tình cho tá túc. Khi biết được nỗi niềm u uẩn trong lòng Từ Lộ, thầy có ý khai tâm, hướng chàng ta giác ngộ con đường Phật pháp để hóa giải nghiệp chướng ân oán. Thầy bảo “Oán cừu chồng chất oán cừu, bao giờ cho dứt. Trả được bán mà trừ bạo giúp đời thì hãy làm. Con đọc sách này, biết đâu ngộ ra điều hay lẽ phải”.

Ông đưa cho Từ Lộ cuốn kinh Đại Bi, Lộ đọc một lần rồi đọc lại lần nữa, thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, bèn xin quy y thiền môn. Trụ trì đặt pháp danh cho Lộ là Đạo Hạnh như lời răn dạy đệ tử phải bền lòng đeo đuổi con đường đức độ hạnh phúc. Ở với thầy được năm năm, Đạo Hạnh xin trả về cố hương. Trước lúc ra đi, thầy dặn dò tiểu tăng “Ta đã già rồi, không còn nhiều thời gian truyền bá đạo pháp nhà Phật cho nhân thế. Con hãy thay ta làm việc này. Trong chiếc rương đồng kia chứa toàn kinh kệ, cỗ xe và con ngựa duy nhất của chùa sẽ giúp con đưa rương sách về bản quán bình an vô sự”. Đạo Hạnh gạt nước mắt lạy tạ sư thầy, ngập ngừng xuống núi. Quả nhiên, đường về muôn dặm gập ghềnh mà ngựa xe rong ruổi một lèo, đã không gặp sự phiền nhiễu lại hay được quý nhân giúp đỡ miếng ăn, chỗ ngủ.

Trở về cố quốc, Từ Đạo Hạnh ở ẩn tại chùa Thiên Phúc dưới chân núi Sài Sơn, chuyên tâm niệm chú Đại Bi, giải kinh giảng đạo cho thí chủ thập phương mà không đoái hoài đến chuyện trả thù trả oán. Nhưng chính trong tâm thức vô ngã mà ngài có được cơ duyên tiếp cận sự vi diệu dị thường của thế giới thần Phật, để rồi trả được bán cừu xưa, trừ được nạn cho đời và tái sinh trong một kiếp đế vương Việt quốc.

Chuyện kể rằng, ngài cũng hay thăm thú đồng đạo các nơi và từng tu tập tại chùa Chiêu Thiền một thời gian. Trước lúc Từ Đạo Hạnh hóa thân chuyển kiếp, ngài dặn dò đệ tử “Ba đời sau sẽ có biến cố lớn. Bấy giờ các di vật của ta khó mà giữ được, các con đừng để chung một chỗ, hãy đem chia cho những chốn danh lam nơi ta từng thiền định, để các đồ ấy minh chứng cho sự lan tỏa của giáo lý thánh tổ tới thập loại chúng sinh”.

Theo lời căn dặn, đệ tử của Từ Đạo Hạnh chia các đồ vật của ngài cho các chùa cất giữ. Nơi này thiền trượng cà sa, nơi kia nghiên bút di cảo, nơi nọ chuông mõ tràng hạt... riêng chùa Chiêu Thiền lưu giữ chiếc rương đồng do ngài đem về từ Vân Nam, Trung Quốc.

Một trăm mười năm sau, triều đại thay đổi, nhà Trần thế chỗ nhà Lý làm vua trăm họ. Trần Thủ Độ, người thiết kế cuộc đổi ngôi kỳ vĩ ấy, hẳn nhiên không thể bỏ qua dấu tích của triều đại trước còn tiềm tàng trong dân gian, vốn là căn nguyên của nỗi hoài niệm nước cũ vua xưa. Chính cái huyền thoại Từ Đạo Hạnh hóa sinh làm Lý Thần Tông khiến cho ông trăn trở nhiều ngày rồi quyết định làm một việc có thể trái đạo người nhưng lại góp công vào việc ổn định nền móng cai trị của triều đại mới, theo một cách nghĩ đơn giản và thực dụng “Dân chúng lễ bái Đạo Hạnh ắt nhớ đến Thần Tông, muốn người ta mai một nỗi nhớ thì phải giảm thiểu thánh tích”.

Chùa chiền là chốn thờ phụng nghiêm cẩn, để tránh tai tiếng dễ tạo nên sự bất bình, Trần Thủ Độ không thẳng tay hành động công khai mà cho bí mật tìm hiểu rồi sai người đột nhập vào chùa Thiên Phúc trộm cắp các di vật của thiền sư họ Từ. Nhưng đạo tặc chỉ lấy được chuỗi tràng hạt và cái mõ gỗ mít mà theo điều nghiên đích thị là đồ hành lễ của Đạo Hạnh lúc sinh thời. Kẻ gian cũng mò đến chùa Chiêu Thiền, song hai thằng khiêng không nổi cái rương đồng chứa kinh kệ, đang loay hoay tính kế thì bị nhà chùa phát hiện, chúng đành bỏ chạy. Nhớ lời di huấn của thánh tổ xưa, trụ trì thời ấy đem rương đi chôn giấu. Hơn ba chục năm sau, khi thế sự đã bình ổn, việc thanh tảo dấu tích cựu triều cũng chẳng còn ai bận tâm, nhà chùa cho đào chiếc rương lên thì nó đã gỉ xanh. Ngại kẻ gian dòm ngó, chùa không đánh bóng, để lớp áo thời gian khuất lấp giá trị thánh tích.

Sự tiên đoán của thiền sư Đạo Hạnh về biến cố tương lai quả là nhiệm màu nên đã tránh được phần nào tác động hủy hoại chứng tích một thời từ cuộc thế dâu bể. Dẫu vậy, sự biến thiên của con tạo và sự can thiệp của con người cũng làm thui chột dần, thất thoát dần dấu ấn vật chất của bậc vĩ nhân. Có điều, trong nước cờ đổi ngôi của Thái sư Trần Thủ Độ, ông chưa hề tính đến giá trị tinh thần của triết lý tam giáo đồng nguyên trong đời sống dân gian. Cho dù thánh tổ chẳng để lại di vật gì và có hay không sự chuyển kiếp từ Đạo Hạnh sang Thần Tông, thì cái bóng của ngài vẫn tồn tại mãi trong tâm thức của người Việt.

Khi quốc biến, nhiều sư sãi trai trẻ trong chùa Chiêu Thiền đã đi lánh nạn hoặc cởi bỏ cà sa theo vua đánh giặc, nhiều pho tượng và đồ tế tự quý giá đã được cất giấu. Riêng chiếc rương đồng, thầy Khắc Nguyên không nỡ đem chôn lần nữa, sợ lòng đất sẽ hủy hoại nặng thêm thánh tích của thánh tổ. Sư cho rằng, nhìn bề ngoài cũ kỹ mốc meo như thế, chắc gì lũ kẻ cướp ngoại bang thèm để mắt tới báu vật vô giá. Rồi quân Nguyên đến cướp chiếc rương, lão tăng tụng kinh cầu khẩn Quan Âm Bồ Tát xá cho kiếp nạn của nhà chùa.

Chiếc rương dài sáu thước năm tấc, rộng hai thước bảy tấc, sâu một thước chín tấc, trông giống cái hòm chôn người chết, nhưng không có nắp rời như áo quan mà đậy nắp bằng bản lề gắn trên thành rương. Người nhỏ bé có thể nằm gọn trong đấy, người hơi quá khổ thì co chân lại cũng xong.

Trở về quân doanh, Khoan Triệt sai lính dùng cát đánh sạch gỉ xanh bám trên rương, cọ mài cho bóng lộn như gương rồi đốt trầm tẩy uế mùi tanh tao của đồng. Y còn cho làm cái bệ gỗ có một đầu vát lên và hai chiếc ghế gỗ cao bằng chiếc rương. Khi trời xẩm tối, Triệt chỉ huy đám lính vận chuyển hương đồng vào hoàng cung để tiếp kiến Trấn Nam Vương.

Thoát Hoan đang đánh trần ngồi hưởng gió từ hai cái quạt nan của tôi tớ, nghe lính hầu bẩm báo có Hữu thừa Khoan Triệt xin gặp, y lầm bầm trong miệng “Tối rồi mà còn thưa thốt gì nữa đây, phiền quá”. Chẳng qua Hoan ngại mặc áo, cởi trần tiếp thuộc tướng thì mất uy thế, khoác lệ bộ thì nóng nực hành hạ khổ sở.

Thấy bọn lính khệ nệ khiêng chiếc rương vào sân, mặt đồng phản chiếu ánh đuốc cứ vàng chóe lên khiến chủ soái mừng rơn, nghĩ thầm Khoan Triệt đem dâng rương châu báu.

Triệt có vẻ tự tin, vái chào Thoát Hoan rồi thưa gửi:

– Tại hạ kiếm được món đồ, nay xin dâng lên đại vương, chắc ngài sẽ vừa lòng.

Thoát Hoan nhấp nhổm, đòi mở xem ngay. Nắp rương bật ra, bên trong chỉ có cái kệ gỗ và hai chiếc ghế xếp nằm. Y cụt hứng mà rằng:

– Ngươi dâng cho ta cái này để làm gì? Mấy mẩu gỗ làm hình nhân thế mạng đem chôn theo quan tài à?

Khoan Triệt toe tét cười, đáp:

– Không phải vậy, ngài chờ cho một lát.

Y sai lính đem thùng ra giếng thơi trong cung lấy nước đổ đầy rương, cho kế ghế ở hai đầu, rồi thủng thẳng nói:

– Xin mời đại vương vào ngự giải nhiệt.

Thoát Hoan lưỡng lự hồi lâu mới chịu thay áo, mặc đồ mỏng leo vào rương nằm lên kệ gỗ, một ghế kê đầu, một ghế gác chân. Nước chỉ lấp xếp ngang bụng, nhưng được múc từ giếng nên rất trong mát. Tướng mạo chủ soái tầm thước, miệng mũi cần hít thở nên đầu phải nhô cao, còn đôi chân có thể tùy tiện co lại một chút mà ngâm trong nước hoặc duỗi thẳng ra kê lên ghế. Cái bục gỗ vát thoai thoải làm đầu cô không mỏi, rất tiện lợi và thoải mái. Ngâm nước mát lạnh, cơ thể sảng khoái hẳn lên, Thoát Hoan hồ hởi khen:

– Hảo ý, có thể nằm cả đêm mà ngủ đẫy giấc. Ta sẽ hậu thưởng cho Hữu thừa.

Khoan Triệt mừng ra mặt, y tự cho mình là bậc tài trí, chỉ một mưu chước cỏn con đã lách được nạn còn lập được công.

Hoan hỏi Triệt:

– Theo người, có nên tháo rời cái nắp ra cho đỡ vướng víu?

Triệt đáp:

– Tùy ngài thôi. Nhưng để nguyên còn có thể dùng vào việc khác.

Hoan không nói gì. Biết chủ soái thuận theo ý mình, Triệt càng đắc chí.

Ngày hôm sau, chưa qua canh thân Thoát Hoan đã sai tôi tớ soạn sửa nước nôi để ngài ngự sớm. Bọn lính tíu tít đi xách nước và rắc hoa vào cái rương mà chủ nhân gọi là “thủy sàng”. Tôi tớ nào mà chẳng vui, đại vương an giấc sớm thì người hầu kẻ hạ đỡ cực.

Viên chủ soái ngâm nước được nửa canh thì quân lính chạy vào báo:

– Có thư tín từ Thiên Trường gửi ra.

Thoát Hoan không chịu rời chỗ, nằm trong “thủy sàng” ra lệnh cho thư lại đọc thư. Giảo Kỳ thông báo với Trấn Nam Vương về việc cha con thế tử đem quân đánh chiếm Trường Yên, sẽ tiến ra Thiên Trường nay mai nên xin lệnh rút. Hoan nghĩ “Thiên Trường là lá chắn của đại quân, nó mà rút thì không ổn”, bèn sai thư lại phúc đáp cho Giảo Kỳ “Án binh tại Thiên Trường, chờ thời cơ kết hợp với Toa Đô ép chết bọn Trần gia”.

Gã đại vương nằm mơ màng được một lúc, lại có quân vào cấp báo:

– Bình chương A Lý Hải Nha xin trình diện.

Hoan nhổm dậy, chưa kịp nói năng gì thì một tên khác lại chạy vào hổn hển thưa:

– Sát Tháp Nhi Đài xin cầu kiến, Nạp Hải và Lý Bang Hiến đến tạ tội.

Chúng là tướng ở ngoài mặt trận mà chạy về cả tất có chuyện dữ. Hoan nhảy tót ra khỏi bồn, vội vàng thay áo xống rồi hớt hải chạy ra chính điện.

Một bọn tướng lĩnh dáng bộ như ma lem, võ phục rách bươm, máu me đỏ lòm mặt mũi cùng khom lưng với đại vương. A Lý Hải Nha là võ quan cao cấp nhất, lên tiếng trước:

– Chương Dương đã thất thủ, bọn Trần gia đông như kiến nên các tướng đánh không lại, buộc phải rút lui. Xét thấy ai cũng có tội, chẳng qua lực bất tòng tâm, mong chủ soái nương tay.

Thoát Hoan tốc tối gào lên:

– Tổn thất bao nhiêu, các tướng ai còn ai mất, đã kiểm đếm chưa?

Bình chương A Lý bẩm báo:

– Tại hạ giữ được mười lăm thuyền và hai ngàn tám trăm quân.

Sát Tháp Nhi Đài lên tiếng, thừa cơ đổ vấy cho A Lý:

– Bình chương giành quyền điều khiển bình thuyền buộc tiểu nhân phải chạy bộ, nay còn ngàn hai bộ binh và bốn trăm kị binh.

Lý Bang Hiến trình bày:

– Tiểu nhân ít quân, chỉ có một ngàn kị mã nhưng cũng còn một trăm năm mươi tên sống sót.

Nạp Hải mừng rơn vì thiệt quân ít hơn bọn khác, miệng lưỡi trở nên cứng cỏi:

– Tại hạ đánh một trận quyết liệt, bảo toàn hơn sáu ngàn binh.

Thoát Hoan trợn mắt gầm gừ:

– Bọn khác đâu cả rồi, các ngươi mau cho ta biết?

A Lý nói:

– Nghe nói binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ bị đánh tan tác, rút chạy về hướng nam.

Nạp Hải nói:

– Tôn Hựu dẫn quân chạy hướng khác, nay không biết ở đâu.

Lý Bang Hiến nói:

– Theo lời mấy tên lính sống sót thì quân của Lưu Thế Anh bị đánh tan, Thế Anh dồn xuống sông, không biết còn sống hay đã chết.

Lần này thì Thoát Hoan bủn rủn thật sự, không còn hơi sức để gào thét, y rên rỉ như người mắc bạo bệnh:

– Nghe các ngươi nói mà ta ớn lạnh xương sống. Một đám chiến tướng lẫy lừng chỉ huy bảy vạn quân, nay còn được hơn vạn. Nếu Bột La Hợp Đáp Nhĩ và Tôn Hựu tốt số giữ được một nửa lực lượng của chúng, thì mấy người đã thí mạng hơn bốn vạn tinh binh thiên triều rồi. Đánh trận mà hèn kém như vậy có xứng làm tướng không? Công tội sẽ xét sau, bây giờ phải tìm cách đối phó. Ta triệu tập toàn thể tướng lĩnh, một canh giờ nữa họp bàn việc quân.

Bọn bại tướng cáo lui, chủ soái quay vào cung tiếp tục giải nhiệt trong cái “thủy sàng”. Y cho rằng “Đã thua rồi, có ba đầu sáu tay cũng chẳng cứu vãn được. Thà nghỉ ngơi cho khỏe người, còn hơn đóng bộ ngồi một chỗ mà than van cái miệng, đôi tay chẳng biết làm gì ngoài việc vuốt mồ hôi đầm mặt”.

Nhưng đầu lĩnh Nguyên Mông muốn tranh thủ thư giãn cũng chẳng được, vừa nhúng mình vào nước thì quân hầu lại chạy vào thưa bẩm có mười mấy tiểu tượng trước sau lục tục kéo đến trình diện đại vương. Thoát Hoan phát hoảng, y lờ mờ đoán biết nguyên do, đành tạm quên cái “thủy sàng” mát mẻ để lại đóng bộ ra gặp lũ tép riu.

Chúng là đám hạ cấp trông coi những đồn trại nhỏ quanh Thăng Long, nay lũ lượt kéo về thì coi như rồi đời, quân Trần đã vây tứ phía, phải tính kế cho mau kẻo hối không kịp. Tên này thưa địch quân lướt như gió, loáng một cái đã san phẳng trại. Tên kia bẩm đối phương như cọp dữ, mà chúng thì bé như chuột nhắt, chẳng bõ cho họ giắt răng. Tên nọ kể lể quân Trần trẩy qua như thác lũ, nhìn thấy đồn có loe ngoe vài mống, họ chẳng thèm đánh lại bảo rằng cuốn xéo đi cho rồi.

Thoát Hoan vò đầu bứt tóc, chỉ mong các tướng lĩnh cao cấp hội sớm, nghe riết đám tiểu tướng bẩm báo làm đôi tai của yù đặc, còn trí óc thì hỗn độn cả mớ đồn trại chẳng nhớ nổi cái nào với cái nào.

Các đầu lĩnh lũ lượt kéo đến. Thấy đám tiểu tượng như ruồi nhặng vo ve quanh tại Trấn Nam Vương, Bình Chương A Lý lên giọng bề trên:

– Thượng cấp họp bàn việc quân, bọn người ra ngoài cả đi.

Thoát Hoan tỉnh ngủ, trợn trừng mắng A Lý:

– Ngươi cũng là bại tướng như chúng thôi. Ở đây ta là người quyết định ai được tham dự họp bàn quân cờ.

A Lý Hải Nha cụp mắt, im thin thít. Hoan chỉ thị cho bọn tiểu tướng:

– Ta biết các ngươi không đủ binh lực đánh lại địch quân nên không bắt tội. Nay cho xuống trại nghỉ ngơi, sẽ giao việc sau.

Bọn Chiêu thảo, Tổng bả bái tạ đại vương, quay gót lui ra. Ánh đèn nến soi tỏ khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của đám đầu lĩnh, đứa nào đứa nấy mắt lơ mày láo hoang mang chờ đợi chủ soái lên tiếng. Mấy kẻ bại trận đã thay áo xống, nên Lý Hằng, Khoan Triệt và Nạp Tốc Lạt Định không hình dung nổi sự thê thảm mà đồng bọn vừa trải qua. Thoát Hoan nín khe, chẳng buồn nhắc lại trận bại vong ở Chương Dương mà đi thẳng vào vấn đề cốt lõi:

– Các người vừa thấy đấy, bọn giữ đồn binh quanh Thăng Long thua chạy về cả. Như vậy là địch quân đã ở rất gần, bây giờ tính sao đây?

Khoan Triệt nói:

– Thành Thăng Long khá vững, nên cố thủ tại đây. Một mặt cho đại quân đóng trong thành, cử hai đạo binh động ngoài thành, trong ngoài tương trợ lẫn nhau, có thể giữ tới mùa thu. Mặt khác cho người về triều xin viện binh. Có thêm lực lượng, ta sẽ phản công.

Lý Hằng nói:

– Không được. Long thành nằm bên hữu ngạn sông Hồng, nếu quân Trần kiểm soát dòng sông ta sẽ hết đường tiến thoái, việc vận lương cũng tắc luôn. Binh thuyền chẳng còn nhiều, cầu phao mà bị phá thì đại quân đi về đâu? Chi bằng rút sang tả ngạn, tiến thoái đều thuận lợi.

Thoát Hoan dè bỉu chê Hằng:

– Ta giao cho hơn ba vạn quân thủy bộ chỉ để giữ cái cầu mà còn sợ giữ không nổi, thử hỏi ngươi làm tướng kiểu gì?

Lý Hằng chống chế:

– Tại hạ nói vậy không phải sợ không giữ được. Nếu đối phương ngang bằng thì há gì mà sợ. Quân Trần thế đang lên, ngộ nhỡ chúng tung mười vạn quân đánh cầu, bấy giờ sẽ khó bề chống đỡ.

Đường Ngột Đãi nói:

– Nên theo kế của Lý Hằng. Ở Thăng Long ta chỉ còn không đầy hai chục vạn binh, nếu chia quân trong ngoài thì chỗ nào cũng yếu. Sang tả ngạn co cụm lại, giặc tất phải gờm, không dám tiến đánh ồ ạt.

Thoát Hoan hỏi:

– Bọn Toa Đô, Giảo Kỳ và Bột La Hợp Đáp Nhĩ nên tính sao đây?

A Lý Hải Nha ngập ngừng một lát mới dám mở miệng:

– Theo tại hạ, Toa Đô và Giảo Kỳ không nên dịch chuyển, nếu họ rút đi thì bọn Trần gia sẽ rộng đường tiến quân ra bắc, lúc ấy càng nguy hơn. Bột La Hợp Đáp Nhĩ chạy xuống phía nam, quân Trần kiểm soát đoạn sông qua Khoái Châu, nên không chắc về được Long thành mà có thể sẽ hội quân với Giảo Kỳ hoặc ra biển rồi quay vào bằng lối khác.

Thoát Hoan lại hỏi:

– Đã có thông tin về Tôn Hựu chưa?

Đám tướng nhìn nhau, chẳng ai hay biết viên Vạn hộ này đang ở đâu. Bấy giờ Nạp Tốc Lạt Đinh mới lên tiếng:

– Không chạy về đây thì có thể Tôn Hữu dẫn quân lên tây bắc, nơi y đã quen thuộc lối nẻo. Nếu đúng vậy cũng tốt, Tôn Hựu sẽ cản đường đám dân binh từ trên núi tràn xuống tham gia công phá Thăng Long.

Thoát Hoan nhìn Nạp Tốc Lạt Đinh bằng ánh mắt dò xét. Ai cũng biết Tôn Hựu là thuộc tướng dưới quyền của gã Bình chương chỉ huy quân Vân Nam, họ không móc nối với nhau thì chớ kể. Biết Trấn Nam Vương có ý ngờ vực, Nạp Tốc Lạt Đinh nhanh nhảu chuyển hướng trọng tâm:

– Tại hạ thấy cần rút sang bờ trái càng sớm càng tốt. Có dấu hiệu bão đang đổ về trong nay mai. Dông bão ở xứ này ghê gớm lắm, nước sông cuồn cuộn kết hợp với gió thổi mạnh chỉ ba hồi là chiếc cầu của Lý Hằng tan nát, bấy giờ muốn sang sông cũng phải mất vài tuần làm cái mới.

Bọn đầu lĩnh giật mình kinh sợ. Chủ soái đập bàn quát lớn:

– Tại sao bây giờ người mới nói?

Nạp Tốc phân bua:

– Theo kinh nghiệm phán đoán thôi, chưa có gì chắc chắn nên tại hạ không dám bẩm báo. Nếu đại vương quyết định rút quân sang tả ngạn thì nên tiến hành ngay.

Thoát Hoan rối rít truyền lệnh:

– Không họp bàn nữa. Tổ chức chuyển quân khẩn cấp. A Lý Hải Nha, Sát Tháp Nhi Đài và Nạp Hải dẫn quân rút trước, tìm chỗ đất cao trú đóng. Đường Ngột Đãi tổ chức vận chuyển lương thực và lều bạt theo sau để lập trại. Khoan Triệt tháp tùng trung quân. Khi ta qua sông thì Lý Hằng bắt đầu rút. Nạp Tốc Lạt Định đoạn hậu, có nhiệm vụ dỡ cầu phao, đề phòng địch quân sử dụng.

Bấy giờ sắp tàn canh hợi, bọn đầu lĩnh các quân nháo nhào về trại để tổ chức di tản. Tuy mệnh lệnh của chủ soái đều phải răm rắp thi hành, nhưng người vui kẻ buồn, mỗi tên mỗi tâm trạng khác nhau.

Bọn bại trận ở Chương Dương cho rằng Thoát Hoan có thành kiến nên sai chúng đi tiên phong, nếu gặp địch quân thì gắng mà chống đỡ. Đường Ngột Đãi hí hửng nhận việc chuyển lương, có lẽ do ăn ở phải đạo nên bỗng dưng “chuột sa hũ nếp”. Khoan Triệt gật gù đắc chí nhờ vào chiếc rương đồng thành ra được ưu ái rút quân đoạn giữa, tránh cái nạn “hữu sự, thủ vĩ tiên khốncó việc thì đầu đuôi khổ trước”. Lý Hằng phàn nàn chỉ vì một câu lỡ lời mà chủ soái cho rút quân áp chót, nhưng không sao, thiếu gì cách luồn lách an toàn. Nạp Tốc Lạt Đinh biết Thoát Hoan chẳng ưa mình, y nghĩ bụng “Đoạn hậu cũng được, sang kịp thì sang, chẳng sang thì ở lại hữu ngạn hội quân với Tôn Hựu rồi thừa cơ dong thẳng về Vân Nam”.

Cũng vì cái sự tích trữ quá đà khiến cho trung quân Trấn Nam Vương mỗi ngày mỗi phình to bởi những món cống nạp, dâng tặng từ đầu lĩnh các quân. Hễ vớ được bất kể thứ gì mới lạ và đẹp đẽ, quý giá và hiếm hoi là chúng thì thọt đem tới cho chủ soái, hy vọng được ngài nâng đỡ chút đỉnh công danh. Nếu ở yên một chỗ thì quá lắm làm thêm nhà kho chứa đồ, nhưng phải di chuyển thì quả là tội nợ của bọn nô bộc.

Lệnh di dời ban ra trong đêm, đội ngũ phục dịch Thoát Hoan hối hả gói ghém đồ đạc, chuẩn bị ngựa xe để chuyên chở khối lượng đồ sộ hành lý bao gồm cả đồ ăn cướp lẫn đồ mang theo. Hai mươi cỗ xe song mã chất ngất đủ thứ thượng vàng hạ cám, từ tiện nghi sinh hoạt cho đến của nở vật chất vơ vét được trong cuộc trường chinh trận mạc của bậc đại vương nước lớn. Vậy mà còn hàng đống thứ không biết nhét vào đâu, trong khi chỉ còn một cỗ xe chưa xếp đồ. Bọn tôi tớ cãi nhau ỏm tỏi để giữ chỗ cho công cụ phục dịch đại vương thuộc bộ phận do mình phụ trách; thằng lo việc xí muốn đem cái bộ đại tiện hục hặc với thằng quản việc rửa quyết mang cái chậu ngâm chân; đứa phụ kì lưng đòi chất giỏ đá cuội giằng co với đứa đảm kê mông tranh xếp mấy bịch gối lông vũ.

Thấy đám hầu chí chóe ngoài sân, Thoát Hoan hỏi Tổng quản nội vụ Vương Hạo:

– Chúng nó đang cãi nhau vì chuyện gì?

Viên phụ trách hậu cần thưa:

– Bẩm, mấy đứa giành chỗ xếp đồ nghề của chúng. Việc này không đáng để ngài quan tâm.

Hoan lại hỏi:

– Cái “thủy sàng” của ta cho lên xe chưa?

Hạo đơ lưỡi, nói lắp bắp:

– Dạ... hình như chưa. Để tiểu nhân đi thu xếp ngay.

Hoan lừ mắt:

– Cái xe còn lại chở “thủy sàng”, mấy thứ khác bỏ lại hết. Ta mà không nhắc nhở thì người gánh tội to đấy. Nhanh chân lên.

Vương Hạo chạy ra sân quát bọn tôi tớ bỏ đồ linh tinh xuống, cỗ xe cuối cùng ưu tiên chở “thủy sàng” của đại vương. Hết cãi nhau, mấy tên hầu lại thầm thì kể lể, thằng lo việc xí phàn nàn “Lúc đại vương mệt mà không có cái cho ngài dùng thì khốn, đành ôm bộ theo người vậy”, thằng kì lưng than thở “Cái bô nhẹ tênh xách một tay cũng được. Đống đá cuội mà công trên lưng thì thân tạo có khác gì ngựa thồ”.

Khi chủ soái cho lui binh, mỗi Lý Hằng là tiện lợi nhất, không phải mất công di chuyển đến đầu cầu để vượt sông. Quân của y đóng hai đầu cầu phao, cứ gói ghém lều trại là xong, nhưng cái lệnh “áp chót” của Thoát Hoan buộc Hằng phải tương kế tựu kế, tìm chỗ lách mà không phạm lệnh. Trước nay, với ba vạn quân thủy bộ, Hằng đóng trại bên hữu ngạn hai vạn rưỡi, vừa gần kinh thành lại thuận tiện tương hỗ với các lực lượng khác; phía tả ngạn chỉ có năm ngàn quân canh giữ đầu cầu. Tranh thủ lúc các đạo quân chưa tới, viên Tả thừa cho hai vạn binh từ hữu ngan kéo sang tả ngạn, coi như một sự đổi đầu, bên tả ngạn có hai vạn rưỡi, bên hữu ngạn chỉ còn năm ngàn quân, vẫn đảm bảo chức phận lại sẵn sàng đội ngũ bám gót đại quân, quá lắm thì bỏ rớt một phần nhỏ quân số ở lại bên kia sông.

Là con sông lớn nhất Đại Việt, vào mùa mưa lũ, đoạn sông Hồng chảy qua kinh thành có lúc rộng tới vài dặm. Cầu phao của Mông Thát được cột ghép bằng hàng trăm thuyền bè cướp đoạt của ngư dân, rồi đóng ván lên mạn để níu giữ và thuận tiện đi lại. Lớp ván bắc qua sàn thuyền dài như một con rắn khổng lồ, có thể đóng ngựa hàng ba hoặc bộ binh hàng bốn qua cầu. Khi có thuyền bè của Nguyên qua lại thì tạm gỡ một đoạn cầu phao để lưu thông phương tiện, thuyền qua rồi lập tức nối lại cầu.

Ngoài lực lượng kị bộ, dưới quyền của Lý Hằng còn có năm mươi chiến thuyền làm nhiệm vụ tuần tiễu trên sông nhưng cũng có thể dùng vào việc chuyển quân, tuy khá chậm trễ và chở được ít. Đoàn quân của Lý Hằng bắt đầu di chuyển từ canh tư, tới canh năm mới chuyển được vạn rưỡi người ngựa sang tả ngạn.

Đã vào thời điểm chạng vạng, nhưng bầu trời vô cùng u ám, mây đen cuồn cuộn trên đầu và gió càng lúc càng mạnh dần lên, đánh gãy cả lá đại kỳ “Lý Tả thừa” chưa kịp thu vén. Cho là điềm gở, Hằng hoảng sợ thật sự, giục quân khẩn cấp xuống cầu, huy động cả binh thuyền chuyên chở. Đoán chắc bão đang đổ về, y cùng đám thủ tục nhanh chân vượt sông sau khi dặn dò bọn ở lại ráng chờ đại quân kéo qua.

A Lý Hải Nha dẫn quân vượt cầu khi mưa bắt đầu rơi và gió thổi mạnh làm thành cầu vặn vẹo kêu răng rắc, dập dềnh trên mặt nước khiến người, ngựa rùng rình. Đoàn quân lương của Đường Ngột Đãi kéo đến khi quân của Nạp Hải chưa qua hết. Viên Tả thừa đòi đi trước:

– Ưu tiên quân lương, lỡ chậm trễ để bão hất xuống sông thì nhịn đói cả.

Nạp Hải không chịu, cự lại:

– Theo lệnh đại vương, quân tiên phong phải sang trước, ngài sang sau.

Đường Ngột Đãi dọa:

– Đại vương ban lệnh khi chưa gió bão, nay tình thế thay đổi, phải nhường đường cho quân lương. Nếu để thiếu lương, quân của ngươi sẽ bị cắt khẩu phần trước tiên.

Nạp Hải đành chịu lép, dẫn số quân còn lại ra bãi sông chờ xuống thuyền.

Đứng bên tả ngạn trông sang cảnh hồi loạn bên hữu ngạn, Lý Hằng nói với bọn thuộc cấp:

– May ta nhanh trí chuyển quân qua trước, cứ răm rắp theo lệnh đại vương thì bây giờ các ngươi khốn rồi.

Viên tiểu tướng Lý Quán nói:

– Bọn bề tôi chịu ơn chủ tướng lớn lắm, chỉ mong có dịp báo đáp.

Hằng tỏ ra khoái chí, cho rằng Quán là đứa trung thành, sẽ lưu ý cất nhắc vào chỗ xứng đáng hơn. Y tự nhủ “Nó cũng tên Quán mà dễ ra, còn cái thằng Quán kia hễ nhìn thấy mặt là muốn nọc ra đánh cho bõ ghét”.

Tên Quán mà Lý Hằng để bụng chính là Giám mã Dương Tự Quán. Ban đầu Hằng định cho y ở lại đi sau cùng với năm ngàn quân “áp chót”, nhưng bầy ngựa dự bị không chịu dời trại khi chưa có lệnh của quản ngựa. Dù hậm hực trong lòng, Hằng phải để Tự Quán và đám lính coi ngựa dẫn bẫy chiến mã qua sông.

Trôi nổi trong cuộc đại tàn sát, không biết đánh nhau thì phải nghĩ kế để sinh tồn, bọn chiến tướng có sở trường đao kiếm thì Dương Tự Quán có sở đoản luyện ngựa. Nghề dạy nghề, y sớm học được cách thu phục ngựa chiến. Bầy ngựa nòi Ả Rập, Mông Cổ quen dần với sự điều khiển của viên Giám mã, Quán trở thành chủ nhân mặc nhiên của những con ngựa cao lớn khỏe mạnh, cho dù y chẳng có quyền quyết định số phận của chúng. Tuy mang chức trách nhỏ nhoi quản lý dăm chục con ngựa làm nguồn thay thế khi ngựa của các tướng lĩnh trong binh đội bị giết hoặc trọng thương, song y luôn nhủ thầm “Chớ có xem thường ta, kẻ nào làm Quán này phật ý hãy coi chừng”.

Lúc qua cầu, Nông Trí Nãi gồng gánh trên vai cặp bồ đựng dụng cụ chải lông ngựa, nhưng Dương Tự Quán cho rằng quá nhẹ nên bắt chất thêm bốn bộ yên cương dự phòng. Gió mạnh, cầu phao chòng chành, Nãi liêu xiêu muốn ngã, Quán được dịp bợp tai rồi đe nẹt “Làm rớt yên ngựa xuống sông thì ta quẳng người xuống lấy”. Nhìn dòng sông đục ngầu cuồn cuộn chảy, Trí Nãi rùng mình, còn chút hơi sức nào cố mà lết cho tới bờ bên kia.

Năm vạn quân đã tề tựu ngoài thành chỉ còn chờ đại vương đến là tiến thẳng ra bờ sông. Gió bắt đầu thổi mạnh mà soái đội vẫn chưa thấy đâu, Khoan Triệt nóng ruột quá bèn vào thẳng hoàng cùng xem sao. Thấy đám lính đang chằng dây cột chiếc rương đồng trên xe ngựa, còn Thoát Hoan ngồi trong cung thưởng thức bữa sáng là món gà hầm thảo dược để bồi bổ sinh khí. Triệt bẩm báo:

– Gió đã nổi lên rồi, đại vương nên khởi hành sớm.

Hoan ngạc nhiên:

– Thật hả, ta ngồi đây có thấy gió máy gì đâu?

Triệt đáp:

– Cấm cung tường cao nên cản bớt gió. Nếu chậm trễ sợ không qua được.

Thoát Hoan buông đũa, không kịp chùi miệng chạy ra sân hét lớn:

– Đi thôi. Tả hữu, vệ sĩ, tôi tớ khẩn cấp lên đường.

Một cỗ xe tam mã bít bùng với hai chục cận vệ hộ tống từ vườn thượng uyển phóng ra, Hoan vén rèm leo vào, chiếc xe vượt lên hàng đầu, có năm chục thủ tục và ba trăm vệ sĩ tháp tùng. Theo sau là một đoàn dài xe ngựa chở đồ được hai trăm tôi tớ áp tải. Ra đến cổng thành, đội ngũ soái phủ đi đoạn giữa, tiền hậu tả hữu là năm vạn tinh binh của Hữu thừa Khoan Triệt và các tướng lĩnh khác.

Triệt chẳng lấy làm lạ khi chủ soái không cưỡi ngựa mà ngồi xe tam mã. Từ hồi ở Thiên Trường kéo quân về Thăng Long, bỗng dưng Trấn Nam Vương thích ngự trong cái xe bít bùng mà đố kẻ nào cả gan dòm dỏ bên trong có gì. Chẳng ai nói ra nhưng các tướng đều biết cả, thôi thì chốn riêng tư của ngài hãy để ngài tự nhiên thưởng thức.

Từ cổng thành đến bãi sông chưa đầy ba dặm nhưng mưa gió làm chậm trễ việc di chuyển do mấy chiếc xe chở nặng bị sụt lún xuống các hố bùn nước, buộc bọn lính phải hò nhau kéo đẩy từng chiếc một. Đoán biết tình hình ở phía cầu phao sẽ rất lộn xộn, Khoan Triệt dẫn thủ tục phi ngựa đến trước, chưa tới chân cầu y đã hò hét ầm ĩ “Trung quân đang tới, dẹp đường cho đại vương qua”.

Những tên lính đã xuống cầu cố sống cố chết mà chạy qua sông, bọn còn ở trên bờ đành dạt ra mở lối cho trung quân. Đội ngũ của Khoan Triệt qua cầu khi gió vần vũ dữ dội và mưa bắt đầu nặng hạt. Đoàn xe của đại vương đến nơi, Triệt dùng chuyển quân, ưu tiên soái phủ qua trước. Chiếc cầu oằn mình gánh mấy chục cỗ xe ngất ngưởng cứ cong lên gập xuống theo từng đợt sóng xối xả đập vào mạn. Nước mưa tạt tối mày tối mặt và những cơn lốc hung dữ thổi nghiêng ngả đám người đi theo hộ tống đoàn xe. Quan tướng soái phủ run cầm cập, tim thót lại sau mỗi cái lắc mình kêu ken két của tiếng gỗ nghiến vào nhau. Binh lính và tôi tớ ướt như chuột lột, vừa đẩy vừa lôi mấy con ngựa kéo xe đang chùn chân mỏi gối giữa lớp ván chênh vênh trên con sông cuồng nộ.

Nhìn chiếc cầu uốn éo xô lệch, có thể vỡ bụng bất cứ lúc nào, Khoan Triệt hối hả chia quân xuống bãi thuyền. Bọn thủy binh đã dằn thuyền và cột dây chằng chống thì được lệnh tiếp tục chở quân, chúng hoảng hồn thưa bẩm với viên Hữu thừa:

– Bão mạnh lắm, qua sông không an toàn. Xin tướng quân nán chờ cho mưa gió giảm bớt.

Khoan Triệt quát nạt:

– Trung quân còn hơn bốn vạn binh sĩ, biết chờ đến bao giờ. Các người phải chuyển quân bằng bất cứ giá nào.

Không dám kháng lệnh nhưng chúng cứ chùng chình tháo dây, gỡ dằn, hy vọng cơn bão sẽ qua đi. Đột nhiên mưa gió giảm dần rồi tạnh hẳn, bầu trời sáng sủa trở lại, vài tia nắng hắt xuống mặt sông lấp loáng. Khoan Triệt cả mừng, ngẩng mặt nhìn cao xanh, mà rằng:

– Ông trời cũng biết chiều người, không nỡ để quân ta khốn khổ gánh chịu tai ương của ngài.

Bọn lính Nguyên tranh thủ vắt áo, lượm nhặt tư trang bị gió thổi bay, chỉnh đốn đội ngũ, lũ lượt kéo nhau qua cầu. Binh thuyền cũng được khởi động, mỗi chiếc chở bảy tám chục quân, đón đưa chộn rộn bến bãi. Đội quân của Nạp Tốc Lạt Định đã đến bờ sông, nhưng thấy tình hình chuyển quân đang thuận lợi nên không có ý tranh chấp. Viên Bình chương chẳng vội, y cho quân dừng chân nghỉ ngơi cách đầu cầu nửa dặm.

Triệt sai lính kiếm một chiếc bàn đặt trên bờ, kêu thủ tục mang tới một vò rượu nút bằng lá chuối khô, ung dung ngồi uống và ngắm nhìn đoàn quân trẩy qua. Từ dạo chinh chiến phương Nam, một lần được uống thứ rượu bản địa có vị thơm nồng, cay đậm nhưng không gắt, say âm ỉmà chẳng hề làm nhức đầu, Triệt đâm ra mê mẩn, chỉ khoái uống loại này mà không thèm động đến bất cứ mỹ tửu nào khác. Vốn tửu lượng khá, uống độ nửa vò, Triệt thường có cảm giác ngất ngưởng như tiên ông, mà chưa một lần bí tỉ lè nhè như lũ nát rượu. Đối với y, cái xứ An Nam man mọi và dốt nát chẳng có gì đáng tiếc nuối ngoài thứ nước linh diệu đựng trong chiếc vò thô thiển được đậy kín bằng cái nút có mùi ẩm mốc ngai ngái.

Đang nhâm nhi thưởng thức ơn huệ của trời và hương vị của đời thì có tên lính già Hán tộc mon men lại gần phá đám cảm giác khoan khoái của Triệt, hắn nói:

– Bẩm ngài, nên giục quân khẩn trương hơn nữa. Ta đang ở tâm bão, gió mưa sẽ ập đến ghê gớm hơn trước nhiều.

Khoan Triệt cằn vặn:

– Ngươi lấy cơ sở nào mà dám khẳng định như thế?

Tên lính già thưa:

– Tiểu nhân là người Châu Giang, từng trải qua nhiều trận bão như thế. Chủ tướng hãy nhìn hướng đông mà xem, mây đen đang đùn lên khủng khiếp.

Khoan Triệt bật dậy, hò hét ba quân khẩn cấp vượt cầu. Đội binh thuyền dưới bến cũng hối hả tổ chức lượt chuyển quân thứ tư. Chốc lát đã thấy mây phủ kín trên đầu, cuồng phong quái vũ trút cơn thịnh nộ làm chiếc cầu quằn quại rung chuyển như con thú bị thương.

Đoàn quân của y chỉ còn hơn năm ngàn đang nối đuôi nhau xuống cầu, chợt đội ngũ rối loạn vì sự chen lấn của bọn binh sĩ thuộc quân Lý Hằng. Chúng phải đi sau, sao dám cả gan vượt mặt trung quân, Khoan Triệt nổi đóa dẫn bộ tướng nhảy vào can thiệp. Mạng sống bị đe dọa, bỏ ngoài tại sự hò hét của thượng cấp, đám người ẩu đả loạn xạ, bất chấp tất cả để cố vượt lên trước kẻ khác, nhiều thằng vật nhau cùng lăn tòm xuống sông, chìm nghỉm dưới dòng nước xiết. Không thể lập lại được trật tự, thây kệ đám quân hỗn loạn, Khoan Triệt và bọn thủ tục vung đao dẹp đường vượt thoát sang bờ bên kia.

Gió xoáy từ trên cao dội xuống và sóng mạnh từ mặt sông đập lên làm đứt tung các dây chằng cột, thổi bay từng mảng ván cầu, đánh tan tác và nhấn chìm những chiếc thuyền dùng làm phao, cuốn theo hàng ngàn sinh mạng xuống nước. Đội thuyền chở quân cũng bị sóng và gió vùi dập tả tơi, nhiều chiếc va vào nhau nứt toắc, nhiều chiếc bị quăng quật như một búi giẻ rách, không đầy mười chiếc cập được vào bờ, số còn lại vỡ nát hoặc chìm xuống đáy sông. Binh lính trên cầu và trên thuyền chết đuối hầu hết, một số tên vớ được ván gỗ làm phao lại bị nước cuốn trôi mất dạng.?️

Tin tức Trường Yên bị quân Trần đánh chiếm khiến Giảo Kỳ nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa, chỉ sợ thế tử bất ngờ tiến quân ra Thiên Trường, bấy giờ vài vạn binh của y chống đỡ sao nổi. Kỳ lẳng lặng viết thư cho Thoát Hoan, trình bày hoàn cảnh và đánh tiếng xin rút về Thăng Long.

Bọn lính được thả về kể lể toàn điều tai nghe mắt thấy khiến quân tình hoang mang dao động, Giảo Kỳ sai thập cổ mấy thằng tới tra xét, chúng tình thật thông báo hơn chục vạn quân An Nam đang sửa soạn tiến đánh Thiên Trường. Gã thân vương hoảng loạn tinh thần, đầu óc lú lẫn chẳng nghĩ được mưu kế gì giải nạn. Lại nghe báo liên lạc từ Thăng Long đã trở về, Kỳ cho gọi vào ngay. Liên lạc trình hồi đáp của Trấn Nam Vương, Kỳ đọc mà đôi tay run lập cập, lá thư rơi xuống đất. Tổng bả Lỗ Cư Xích Khoát nhặt lên, tiện thể liếc mắt vào tờ giấy rồi đưa lại cho chủ tướng.

Thấy Giảo Kỳ ngồi đuôn mặt như kẻ mất hồn, Lỗ Cư Xích Khoát đánh bạo hỏi:

– Có phải Trấn Nam Vương từ chối việc rút quân ở Thiên Trường?

Kỳ đáp:

– Còn gì nữa. Binh thì ít, lương thì thiếu, thử hỏi làm sao đánh lại hơn chục vạn địch quân. Phía nam đầy giặc, phía bắc đầy giặc, Thiên Trường bị cô lập ở giữa, không cho rút tức là muốn ta ở đây chờ chết.

Lỗ Cư Xích Khoát nói:

– Biệt hồng thất tín. Vô lệnh tự quyết.Chẳng thấy hồi âm. Nên phải tự quyết. Coi như ngài chẳng nhận được thư trả lời, không nhận được lệnh thì phải tự quyết định việc tiến thoái, ai dám trách.

Giảo Kỳ được tham mưu, mắt sáng rõ, nhưng vẫn còn một chút e ngại:

– Chỉ sợ Lưu Khuê không chấp nhận. Y là kẻ cứng đầu, dù muốn hay không vẫn một mực làm theo lệnh của Trấn Nam Vương.

Lỗ Cư Xích Khoát lại mách nước:

– Mấy hôm trước Lưu Khuê có đề nghị ngài dẫn binh lên ngã ba sông Trà Lý, từ đấy về Long thành cũng gần thôi. Còn Vạn hộ muốn cố thủ Thiên Trường thì mặc kệ ông ta tự lo lấy thân.

Giảo Kỳ mừng lắm, bèn ban lệnh nhổ trại gom quân, toàn binh đội rút về Thăng Long khẩn cấp. Để trả ơn viên Tổng bả bày kế giải nạn, Kỳ phong cho hắn làm tham nghị, một chức không có trong quan chế, nhưng được Kỳ lý giải là người giữ vai trò quân sư trong đội ngũ của mình. Trước lúc khởi hành, Giảo Kỳ không quên sai người đem thư tới cho Lưu Khuê đang đóng quân ở bờ bắc sông Đáy.

Lưu Khuê dẫn một vạn quân và bảy mươi chiến thuyền đến địa điểm tập kết mới được hai ngày, đồn trại chưa hoàn thành, chiến lũy còn dang dở, khi đọc thư của Giảo Kỳ trong lòng, không khỏi nghi hoặc. Kỳ cho biết đã dẫn quân lên ngã ba sông Trà Lý lập phòng tuyến, nhưng mấy hôm trước chúng chình không đi, sao bây giờ đổi ý nhanh vậy? Nếu đến Trà Lý vẫn phải để lại một bộ phận canh giữ hành cung Thiên Trường, cho người đi tìm hiểu khắc biết thực hư.

Viên Vạn hộ điều động hai toán thám mã, một toán quay về hành cung xem còn ai ở đấy, một toán phóng thẳng đến Trà Lý dò xét động tĩnh. Một canh giờ sau, toán thám mã thứ nhất trở về cho biết trong hành cung Thiên Trường không còn một tên lính, các trại xung quanh cũng dời đi hết. Lưu Khuê bắt đầu lo ngại, y có linh cảm gã thân vương nói một đằng làm một nẻo. Quả nhiên, đội thám mã thứ hai trở về thông báo chẳng có lực lượng nào ở ngã ba Trà Lý. Như vậy đã rõ, Giảo Kỳ dẫn hai vạn quân đào nhiệm khỏi Thiên Trường, bỏ mặc chiến hữu đối diện với một đạo quân An Nam đông hơn mười lần.

Lượng sức của mình, Lưu Khuê quyết định lui quân bằng thuyền, rút ra biển tuy có xa hơn nhưng an toàn nhất. Với bảy mươi chiến thuyền, không thể chở hết một vạn binh sĩ, Khuê cho tám ngàn quân lên thuyền theo dòng Đáy qua sông Đào đổ vào sông Hồng ra cửa Giao Hải, hai ngàn quân và năm trăm kị mã rút bằng đường bộ, men theo bờ sông mà đi. Trên bộ dưới sông được lệnh càn quét các làng mạc ven bờ, cướp cho bằng được thuyền bè lớn nhỏ để khi tới cửa biển có đủ phương tiện chuyên chở binh lính.

Không mất một mũi tên, không thiệt một người lính, quân dân nhà Trần đã thu hồi Thiên Trường trong những ngày đầu tháng năm năm Thiệu Bảo thứ bảy. Nghe tin giặc đã tháo chạy, vua Nhân Tông điều động Tiền điện chỉ huy sứ Lê Mạnh dẫn một vạn quân tiên phong từ Tam Điệp hành binh vượt sông Đáy, kéo vào tiếp quản vùng đất phát tích sự nghiệp nhà Trần. Vào thời điểm ấy, từ phía nam kinh thành Thăng Long cho đến Trường Yên đã sạch bóng giặc thù, quân ta hoàn toàn làm chủ một vùng lãnh thổ rộng lớn, tạo bàn đạp vững chắc cho cuộc tiến công cuối cùng nhằm quét sạch giặc Nguyên Mông ra khỏi giang sơn Đại Việt.