← Quay lại trang sách

Chương 4 Chốt chặn Như Nguyệt, Hoài Văn Hầu xả thân báo quốc
Dàn trận Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương lập kế phá thù

Lại nói về Bình chương Nạp Tốc Lạt Đinh. Từ lúc chia quân cho Tôn Hựu tham gia phòng thủ Chương Dương, dưới quyền chỉ còn không đầy sáu nghìn binh mã, khi được Trấn Nam Vương sai đoạn hậu đại quân rút qua tả ngạn sông Hồng, Lạt Đinh đã dự tính kế hoạch thoát hiểm của riêng mình, nên chẳng hề lo nghĩ có sang được bờ bên kia hay không.

Lúc bão tràn qua, chẳng dại gì chường mặt ra chỗ trống trải ngoài bờ sông để hứng dông lốc đang hoành hành dữ dội, Nạp Tốc Lạt Đinh cho quân ẩn náu trong một ngôi làng ven đê bị bỏ hoang từ ngày khởi loạn.

Cuối giờ mùi, mưa gió ngớt hẳn, viên chủ tướng dẫn một toán kị mã ra sông xem xét tình hình. Cây cầu đã biến mất, các thuyền phao vỡ nát nửa chìm nửa nổi nhấp nhô trên mặt sông, vô vàn mảnh vỡ bị sóng đánh dập dềnh bên mép nước. Đội binh thuyền cũng tan tác hết, chỉ còn lại dăm chiếc nằm gãy đổ phía bờ bên kia. Nước sông dâng cuồn cuộn, mỗi lúc mỗi lên cao, báo hiệu lũ lớn đang đổ về.

Mấy ngàn binh sĩ tả tơi nằm ngồi vật vạ trên bờ sông, đăm đăm nhìn dòng nước đang lên bằng ánh mắt tuyệt vọng của những kẻ mất phương hướng, không biết nên đi đâu, về đâu? Chúng là quân của các binh đội đã qua cầu, do không thể tranh chấp với đồng bọn nên bị rớt lại trong bão tố. Thấy Bình chương xuất hiện, bọn chúng xúm lại cầu cứu, lời than tiếng kêu náo loạn cả bãi sông.

Nạp Tốc Lạt Đinh quát lớn:

– Tụi bay im miệng cả đi. Là quân của ai thì đứng riêng ra từng đội để ta còn biết. Bấy giờ muốn thưa bẩm thì một đứa lên tiếng thôi.

Bọn lính vội vàng tề tựu theo đơn vị. Quân của Lý Hằng có hai ngàn mốt, của Khoan Triệt có một ngàn tám, của Nạp Hải có năm trăm rưỡi, của Đường Ngột Đãi có hai trăm hai cùng với bảy xe lương đầy nhóc. Tên chỉ huy cao cấp nhất của đám lính bị bỏ rơi là Tổng bả Triệu Vinh thuộc quân Khoan Triệt, thay mặt cả bọn trình bày:

– Bọn tiểu nhân yếu thế nên bị bỏ lại, giờ như rắn mất đầu chẳng biết nên làm gì. Nay gặp được đại tướng quân, mong ngài bày đường chỉ lối.

Nạp Tốc Lạt Định hỏi:

– Tình hình lúc ấy ra sao, kể rõ cho ta biết?

Triệu Vinh đáp:

– Giữa lúc bão tố hoành hành dữ dội, trung quân chưa qua hết thì quân của Lý Hằng ào xuống đòi đi trước, hai bên ẩu đả kịch liệt, rồi sóng gió phá vỡ cây cầu, cuốn trôi hàng ngàn người. Đoàn thuyền cũng bị bão đánh tan hoang, người chết nhiều lắm.

Nạp Tốc Lạt Định nạt đám quân của Lý Hằng:

– Trấn Nam Vương đã có lệnh, binh đội của các ngươi phải rút sau trung quân, có phải muốn làm loạn không?

Bọn quân của Lý Hằng co rúm lại vì sợ bắt tội. Một tên Mông Cổ đánh bạo lên tiếng:

– Tổng bả chỉ nói đúng một nửa. Trung quân phải đi sau đoàn vận lương và bọn dựng lều trại, nhưng khi vừa đến thì họ cũng tranh đi trước nên nhiều xe lương còn nằm ở kia. Lúc trời lặng gió, họ không biết tranh thủ qua sớm, còn thủng thẳng như đi dạo mát, bọn tiểu nhân thấy ngứa mắt quá bèn can thiệp, thế là xảy ra xung đột.

Quân của các bên lại giở thói gầm ghè, phùng mang trợn mỏ chửi mắng nhau ầm ĩ, nhưng vì đứng tách biệt theo từng đội nên chúng chỉ đánh võ mồm, không dám xô xát trước mặt đại quan. Nạp Tốc Lạt Đinh chịu hết nổi, lớn tiếng quát tháo:

– Sắp chết cả nút mà còn thích sinh sự, nếu không câm miệng hết thì ta bỏ đi cho tụi bay tha hồ đánh chửi lẫn nhau.

Bọn lính im bặt. Bấy giờ viên Bình chương hạ giọng, mà rằng:

– Trong rủi có may, các ngươi chậm chân không xuống được cầu nên mới còn mạng. Những thằng cậy khỏe giành đường có khi bị nước cuốn trôi ra biển rồi. Bị bỏ lại nhưng còn sống chẳng tốt hơn à? Hãy nhìn sang bờ bên kia, đại quân đã đi mất hút, thế là bề trên phó mặc các ngươi cho số phận. Nước sông đang lên, thuyền bè chẳng có, vượt sông theo đại quân là điều không thể. Nay các người chỉ có hai lựa chọn, một là theo ta tìm đường quay về Vân Nam, hai là cứ ở đây mà chờ đợi. Các ngươi tính sao?

Hơn bốn ngàn binh sĩ Nguyên Mông đồng loạt quỳ rạp xuống, hô vang:

– Xin tướng quân cho chúng tôi theo ngài.

Nạp Tốc Lạt Đinh phấn khởi lắm, được bổ sung lực lượng mà không cần chủ soái điều động, y ra điều kiện:

– Nếu muốn theo ta, phải ghi nhớ điều này, từ nay mọi người là quân của Bình chương chính sự Nạp Tốc Lạt Đinh, không chia bè theo đơn vị cũ, tất cả phải tuân lệnh của ta. Đường về qua ngả Vân Nam an toàn hơn, nhưng không phải không có cạm bẫy, nếu nỗ lực đánh dẹp thì sẽ có nhiều cơ hội thoát nạn. Các ngươi có làm được không?

Bọn binh sĩ đồng thanh đáp ứng:

– Chúng tôi nguyện sát cánh với ngài mở đường về nước.

Từ dưới hàng quân, có một tên lính tiến lại gần Bình chương thưa gửi:

– Tiểu nhân có hai thằng con cùng trong quân ngũ, lúc náo loạn mấy cha con lạc nhau, nay chẳng biết chúng còn sống hay đã chết. Dù rất muốn theo tướng quân rút về Vân Nam, nhưng nghĩ tới chúng nó, tiểu nhân thấy không đành. Vậy xin ngài cho ở lại, chờ nước rút bớt, tiểu nhân sẽ tìm cách vượt sông tìm con.

Nạp Tốc Lạt Đinh nhìn tên lính già bằng ánh mắt cảm thông, y nói:

– Ta hiểu tình phụ tử của ngươi, nhưng nước sông đang lên, muốn vượt qua phải chờ vài ba ngày. Sang được bờ bên kia cũng chưa chắc tìm được đại quân. Người đã nghĩ kỹ chưa?

Nhướn cặp mắt đỏ hoe, gã lính già không đáp, chỉ lặng lẽ gật đầu. Nạp Tốc Lạt Đinh bảo “Thôi được, ta cho phép”, rồi sai quân đi thu lượm ván gỗ đóng cho lão một cái mảng bằng chiếc phản nhỏ và để lại một bao lương. Người cha bất chấp mạo hiểm quyết chí tìm con quỳ sụp xuống lạy thịnh tình của chủ tướng. Bọn binh sĩ rất cảm kích tấm lòng trắc ẩn hiếm thấy trong quân ngũ Nguyên Mông, giữa bậc tướng lĩnh hàng đầu với hạng tiểu tốt.

Nạp Tốc Lạt Đinh nấn ná ven sông thêm một ngày, chờ chỉ thị mày chẳng hề mong đợi từ bên kia sông gửi sang. Qua ngày hôm sau, viên Bình chương dẫn một vạn quân cũ mới tiến về vùng tây bắc của nước non Đại Việt. Y chắc mẩm sau này không ai có thể khiển trách việc tự ý rút quân của mình, khi đã cố công chờ đợi mà Trấn Nam Vương vẫn chẳng đoái hoài tới số phận của đám người bị bỏ lại.

Đoàn quân của Giảo Kỳ bôn tẩu qua sông Châu Giang, đến ngã ba Hòa Mạch thì đụng độ với quân của Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền. Quân ta yếu thế nên Khả Lạp cho lui binh, giặc cậy đông truy đuổi bị các chiến binh sơn cước dùng cung nỏ đánh chặn. Giảo Kỳ không ham đánh, tiếp tục hành quân lên hướng bắc. Anh em Khả Lạp dẫn quân bám theo, đồng thời sai người phi ngựa cấp báo tới các lực lượng của ta đóng rải rác bên hữu ngạn sông Hồng.

Dông tố ập đến bất ngờ, quân Nguyên buộc phải dừng chân tránh bão. Qua ngày hôm sau, khi chúng vừa khởi hành thì bị Trần Quốc Toản và Trần Quốc Thành kéo quân đến công kích, Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền cũng tung quân tập hậu bọn Mông Thát. Ba mặt giáp địch, Giảo Kỳ hoảng loạn ngồi trên ngựa không vững, Tổng bả Lỗ Cư Xích Khoát ra sức khuyến cáo:

– Nếu đại vương không lấy lại tinh thần thì tất cả chết hết. Ngài là đầu lĩnh phải dũng mãnh để binh sĩ noi theo.

Gã thân vương thở hổn hển, mà rằng:

– Ta sẽ cố gắng, nhưng việc binh không giỏi nên cử người làm phó tướng thay ta khiến quân đối phó.

Là một chức quan nhỏ nay được trao quyền lớn, Lỗ Cư Xích Khoát hung hăng hò hét binh sĩ dốc sức kháng cự. Y dẫn quân tả xung hữu đột giáp chiến với đội ngũ của Trần Quốc Thành. Hoài Văn Hầu và anh em Khả Lạp vội chuyển hướng tiến công, giải nguy cho đồng đội. Thừa cơ, năm nghìn quân hộ tống Giảo Kỳ chạy thoát. Nhưng trước mặt chúng là dòng Thiên Mạc chảy cuồn cuộn, cuốn theo nhiều xác chết mặc binh phục Nguyên và những mảnh thuyền vỡ. Gã thân vương chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra với đồng bọn của y ở thượng nguồn, chỉ còn biết vò đầu bứt tai than thở mà không quyết định được phương hướng hành động.

Đội quân Nguyên bị chặn lại ở phía sau phải đối đầu với ba cánh quân của các tướng lĩnh nước Nam. Thế trận giằng co quyết liệt, tương quan lực lượng cân bằng khiến đôi bên cùng thiệt hại nặng nề. Kịp lúc Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải kéo quân đến tiếp ứng, vây chặt bọn Lỗ Cư Xích Khoát trên cánh đồng Trác Bút”. Quân ta bắc loa kêu gọi giặc đầu hàng. Viên Tổng bả hét lớn “Tướng sĩ thiên triều chỉ biết đánh không biết hàng”, rồi thúc quân đột phá vòng vây tìm đường thoát hiểm. Trần Quốc Thành dẫn quân xông ra tiếp chiến, tướng đối tượng, quân địch quân, đao thương đằng đằng nộ khí, gươm mác hừng hực máu tanh, hai bên lăn xả vào nhau mà mặc sức chém giết.?️

Từ ba hướng, Chiêu Minh Vương, Hoài Văn Hầu và anh em Nguyễn Khả Lạp chia cắt đội hình địch ra làm nhiều khúc mà tiêu diệt. Lỗ Cư Xích Khoát bị Trần Quốc Thành chém chết trên lưng ngựa, vạn rưỡi địch quân bị đánh tan tác, ngoài gần ngàn tên bị bắt sống, số còn lại đều bị giết sạch.

Quân ta cũng thiệt hại đáng kể, hơn sáu ngàn chiến binh đã ngã xuống trong trận giết chóc kinh hoàng. Nhìn cánh đồng đang gặt hái dở dang ngập ngụa máu thịt và xác chết, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải thở dài nuối tiếc vì không đến kịp để tổ chức một trận đánh thật hiệu quả mà không hao tổn quá nhiều xương máu binh sĩ. Ngài nói với các tướng:

– Thắng trận mà ta chẳng hề thấy vinh hiển. Chém giết tàn khốc quá, quân ta mất mát nhiều quá, người dân còn phải gánh chịu thua thiệt mùa màng. Thôi, hãy quên trận này đi.

Sử sách nước Nguyên không ghi chép trận này, cũng dễ hiểu khi quân Mông Thát bị tiêu diệt sạch trên cánh đồng Trác Bút. Sử sách nước Nam cũng không hề nhắc tới, phải chăng nỗi đau của các tướng lĩnh tham chiến để lại trong tâm thức của họ sự day dứt khôn nguôi, khiến con người ta không muốn khơi gợi lại một kí ức xót xa?

Trong quân của Giảo Kỳ có một nhóm người Việt, trước là lính của Chương Hiến Thượng Hầu Trần Kiện theo chủ tướng sang hàng Nguyên ở Ái Châu, rồi được chia nhỏ phân bổ vào các đơn vị thuộc đạo quân Mông Thát từ Chiêm Thành kéo qua Đại Việt. Trong số này có hai anh em Nguyễn Phú Định và Nguyễn Phú Điền, vốn người Hòa Mạc nên rất thông thuộc địa hình, lối nẻo trong vùng. Phú Định có biết đôi chút chữ nghĩa, thông minh và gian xảo, Phú Điền khờ khạo nhưng luôn nghe lời anh. Lúc quân Trần vây đánh, anh em chúng nhanh chân chạy theo bọn Giảo Kỳ đến bờ sông. Ở đoạn này sông Hồng ngoặt sang hướng tây khiến gã hoàng thân mất phương hướng, không biết nên dẫn quân về đâu. Thấy có cơ hội lập công, Phú Định mon men đến gần đại vương thưa bẩm:

– Tiểu nhân là người ở đây, mọi ngóc ngách đều biết cả. Đi theo bờ sông mà về Thăng Long thì xa xôi ngoằn ngoèo, địch chỉ cần tra khảo vài tên lính rồi đuổi theo, bấy giờ sẽ lâm nguy. Nếu đại vương tin tưởng hãy dẫn quân theo bề tôi tìm chỗ ẩn náu, chờ đêm tối lại lên đường.

Chẳng còn lựa chọn nào khác, Giảo Kỳ chấp nhận theo kế của tên hàng kinh người Việt. Phú Định dẫn quân Nguyên đổi sang hướng tây nam, đến thượng nguồn Châu Giang thì dừng chân, lẩn trốn trong bãi lau sậy um tùm hoang vu. Quả nhiên, sau khi tra hỏi bọn lính bị bắt, biết giặc kéo nhau về Thăng Long, Chiêu Minh Vương điều quân men theo sông truy kích, song không tìm thấy tung tích của bọn chúng.

Trời về chiều, Nguyễn Phú Định xin Giảo Kỳ cho đi thám thính. Y cởi bỏ trang phục quân Nguyên, khoác áo thường dân, xăng xái lên đường. Xẩm tối, Định quay về thông báo với chủ tướng:

– Trấn Nam Vương đã rút khỏi Thăng Long sang tả ngạn. Bão làm gãy cầu phao dìm chết nhiều người, nên mới có nhiều xác trôi trên sông. Tin đồn lan tới tận đây rằng quân Trần đang rục rịch kéo về kinh.

Giảo Kỳ rụng rời khiếp đảm, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc hỏi ý tên mạt tốt phản nghịch:

– Theo ngươi, làm sao giải nạn?

Phú Định chỉ chờ có thế để mách nước trục lợi:

– Về Thăng Long chẳng để làm gì, còn muốn hội quân với Trấn Nam Vương thì phải vượt sông. Ngặt nỗi sông lớn, nước to, lại không có thuyền bè.

Giảo Kỳ gắt:

– Chẳng lẽ ở đây chờ chết à?

Phú Định nói:

– Có cách nhưng rất tốn kém.

Kỳ giục:

– Nói mau, cách gì?

Định thưa:

– Tiểu nhân đã liên lạc được với mấy người chủ thuyền, họ đồng ý chở quân qua sông nhưng đòi tiền công một ngàn lạng bạc.

Kỳ xưa nay chỉ biết vơ vào mà không quen nhả ra, nghe nói vậy bèn trừng mắt quát nạt:

– Dám trắng trợn yêu sách với ta à? Đúng là lũ kẻ cướp. Chúng là bọn nào, ngươi mau chỉ đường để ta cho quân đến tịch thu thuyền bè của chúng?

Định đủng định đáp:

– Tiểu nhân cũng từng nghĩ đến cách này nhưng thấy không ổn. Họ tất có đề phòng, đem thuyền cất giấu rồi. Quân Trần còn quanh quất gần đây, nếu đi cướp thuyền làm om xòm cả lên thì khác nào tự mình làm lộ mình.

Kỳ thấy Định nói có lý, đành nghe theo những hỏi kỹ:

– Chúng có bao nhiêu thuyền, giao tiền bạc cho chúng liệu có bị lừa không?

Định trình bày:

– Cả thảy có tám thuyền, mỗi thuyền chở một trăm hai mươi người, vị chi mất năm chuyến. Nếu khởi hành trong đêm thì chưa sáng đã qua hết. Lúc đi giao tiền, đại vương cử năm thủ túc tin cẩn áp tải, để đảm bảo không bị lừa gạt.

Giảo Kỳ bạc nhược nhưng không ngu đần, y cảnh giác dò xét:

– Lỡ ngươi cấu kết với kẻ khác đánh giết bọn áp tải rồi cướp sạch tiền bạc thì sao?

Định nhìn quanh, gọi thằng em Phú Điền đang lởn vởn từ xa, rồi nói với Kỳ:

– Nó là em ruột của tiểu nhân, cũng mặc áo Nguyên đấy thôi. Đại vương còn ngờ vực thì nó sẽ là con tin của ngài.

Bấy giờ Giảo Kỳ mới thấy yên tâm, sai mở hòm của nả ăn cướp lấy số vàng ngọc tương đương một ngàn lạng bạc, bọc trong vài giao cho một tên đầy tớ lực lưỡng cột sau lưng. Phú Định cùng nhóm Mông Thát lên ngựa đi giao dịch, Phú Điền chạy lại dặn dò:

– Anh nhớ quay về, đừng bỏ em ở lại.

Định trấn an Điền:

– Làm sao bỏ em được. Dù đi đâu anh cũng dẫn em theo. Thế là tên lính phản trắc ban đầu dự định lập công với giặc đã xảo trá chuyển hướng trục lợi, khi thấy theo quân Nguyên bôn tẩu chưa chắc giữ được mạng nói gì đến công cán, chẳng thà ôm một mớ của để sống đời phú quý dài lâu. Phú Định thỏa thuận ăn chia ba bảy với bọn chủ thuyền vì tham tiền mà bán rẻ lương tâm, giúp lũ ngoại bang thua chạy thoát nạn. Khi gần năm nghìn quân của Giảo Kỳ đã sang hết tả ngạn sông Hồng, thừa cơ nhộn nhạo, Định cùng thằng em trốn xuống thuyền, quay về quê cha đất tổ.

Các binh đội dưới quyền của Thái sư Trần Quang Khải tập trung bên bờ hữu ngạn để tiến về Thăng Long, phía tả ngạn không còn lực lượng nào đáng kể. Đám tàn quân của Giảo Kỳ rút chạy thuận lợi, một ngày sau đã gặp đại quân của Trấn Nam Vương.

Bọn A Lý Hải Nha đi tiên phong, chạy đến Gia Quất thấy thế đất cao bèn dừng chân lập trại bên bờ sông Đuống. Các binh đội khác cũng lũ lượt kéo đến. Chiều tối bão tan. Sáng hôm sau, Trấn Nam Vương triệu tập chư tướng đến bàn nghị. Thoát Hoan hỏi:

– Tình hình về cầu thế nào, thiệt hại ra sao?

Các tướng không ai lên tiếng. Hoan quát ầm lên:

– Nạp Tốc Lạt Đinh đâu rồi, ai là người đi sau cùng?

Khoan Triệt đành mở miệng:

– Nạp Tốc Lạt Đinh còn ở bên kia sông, cầu vỡ nên không thể qua. Tại hạ là người đi sau cùng. Đáng lẽ Lý Hằng phải đi sau tại hạ, nhưngy lại dẫn quân qua trước.

Lý Hằng cãi lại:

– Ô hay, ta có nhiệm vụ giữ cầu thì ở đầu cầu nào cũng vậy. Khoan Triệt chùng chình chuyển quân, nếuy ráo riết đốc thúc thì quân đã qua hết, nhiều người không bị nước cuốn trôi.

Thoát Hoan gắt gỏng:

– Không biện minh, tranh cãi nữa. Chết bao nhiêu, bao nhiêu quân rớt lại?

Khoan Triệt hạ mức tổn thất:

– Chừng ba trăm quân bị nước cuốn. Ngoài quân của Nạp Tốc Lạt Định còn độ vài ngàn quân của các tướng không sang được.

Hoan lại hỏi:

– Có cách nào đưa chúng qua sông không?

A Lý Hải Nha lên tiếng:

– Không thể, nước sông lên to, thuyền cũng vỡ hết cả. Nạp Tốc Lạt Đinh còn ở đấy, y sẽ thu nhận chúng.

Hoan hỏi nữa:

– Tình hình lương thực ra sao?

Đường Ngột Đãi thông báo:

– Chỉ đủ ăn năm ngày. Đáng lý được bảy ngày, nhưng có ba xe lương rớt xuống sông, hai xe bị trôi theo cầu vỡ, còn nhiều xe nằm lại bên kia, do phải nhường đường cho trung quân.

Trấn Nam Vương đập bàn quát tháo:

– Thế là nguy rồi, quân thì hụt, lương thì cạn, bây giờ các ngươi tính sao đây?

Bọn chiến tướng cúi gằm mặt, chẳng gã nào dám ho he bàn tính. Thoát Hoan cáu tiết hất tung chiếc bàn, đồ vật rơi vỡ loảng xoảng. Giữa lúc đang căng thẳng thì quân lính vào bẩm báo “Giảo Kỳ vương đến trình diện”. Hoan há hốc mồm kinh ngạc, vội giục “Cho vào ngay”. Đám chư tướng nhìn nhau khiếp hãi, chắc mẩm lành ít dữ nhiều. Giảo Kỳ bước vào, áo quần lấm lem, đầu bù tóc rối, người ngợm bốc mùi khăn khẳn. Kỳ vái chào Thoát Hoan, định mở miệng trình bày đã bị chủ soái chặn họng, phủ đầu:

– Ta đã gửi thư yêu cầu án binh ở Thiên Trường, tại sao lại kéo về đây, có phải ngài cố tình kháng lệnh?

Gã thân vương giả bộ ngơ ngác, làm như không hề hay biết có thư phúc đáp:

– Thư nào? Tại hạ không hề nhận được thư của ngài. Thử hỏi mười mấy vạn quân thế tử chuẩn bị tiến đánh Thiên Trường, với vài vạn binh đói ăn, làm sao giữ nổi? Lui binh là thượng sách, thiết nghĩ trong tình thế ấy không ai có thể làm khác.

Nhìn bộ dạng của Giảo Kỳ, kẻ xuẩn ngốc cũng đoán ra nguyên do, Bình Chương A Lý hỏi móc:

– Vậy là ngài dẫn vài vạn quân kéo về đây an toàn.

Giảo Kỳ đơ lưỡi, ấp úng nói:

– Dọc đường bị tập kích... cũng thiệt hại một số.

A Lý truy tiếp:

– Nay ngài còn bao nhiêu quân?

Kỳ đáp:

– Chừng... năm ngàn.

Các tướng bụm miệng cười. Kỳ ngượng đỏ mặt nhưng vẫn cố cãi:

– Mấy người ở vào hoàn cảnh ta mà xem, chắc gì đã giữ được ngần ấy binh sĩ. Ta còn cứu được Lưu Thế Anh cùng với mấy thằng lính sắp chết đói trốn trong bụi rậm.

Lý Hằng dè bỉu:

– Tưởng cứu được ai, nó đánh đâu thua đấy, có chết đói cũng chẳng tiếc.

Thoát Hoan ngán ngẩm xua tay, ra cái điều đừng tranh cãi nữa. Trong đầu của Trấn Nam Vương vừa lóe lên hai chữ “Hồi binh” tươi roi rói. Nghĩ mưu tiến quân thì chủ soái phải cầu cạnh chư tướng, riêng chuyện rút quân thì trí tuệ tự nhiên thông suốt, y hồ hơi thông báo với đầu lĩnh các quân mà chẳng thèm tham vấn kế hoạch cụ thể:

– Ở thêm ít ngày không bị địch bao vây tiêu diệt thì cũng chết đói. Mai rút quân về nước. Vào lối nào thì ra lối ấy. Bình chương A Lý cử người cấp báo cho Nạp Tốc Lạt Đinh rút theo đường Vân Nam, Toa Đô tạm lui binh qua Chiêm Thành chờ đợi. Giảo Kỳ đã ở đây thì theo quân ta nhắm hướng đông bắc sang Long Châu, nhưng dọc đường phải tự túc cái ăn. A Lý Hải Nha đi tiên phong, Khoan Triệt hộ tống trung quân, Lý Hằng đoạn hậu. Giờ mão xuất phát.

Bình chương A Lý thắc mắc:

– Nạp Tốc Lạt Đinh rút về Vân Nam là hợp lý, bọn Toa Đô rút sang Chiêm Thành thì lấy gì mà sống.

Thoát Hoan gắt:

– Toa Đô từng ở Chiêm Thành gần một năm nhưng vẫn sống khỏe, đâu cần ngươi phải lo. Nếu chúng tháo chạy ra ngoài này thì đường đâu mà đi, chen chúc nhau qua ải để hứng tên tẩm thuốc độc của bọn Trần gia à?

Giảo Kỳ phàn nàn:

– Ngài cho rút theo đại quân mà bắt tự kiếm lương ăn thì khác nào cứu người chết đuối lên bờ rồi lại xô họ xuống nước.

Thoát Hoan cáu kỉnh phản ứng:

– Đừng ví von nữa, mệt óc lắm. Làm gì còn đại quân mà theo, chết chóc và tan tác hết cả rồi, đám tàn quân rút chạy thì thân ai nấy lo. Ngài có Lưu Thế Anh còn sợ gì đói, hắn chui nhủi mà không chết tất sẽ có cách kiếm ăn. Không lôi thôi gì cả, cứ như thế mà làm.

Ngày mồng sáu tháng năm năm Ất Dậu, mười mấy vạn quân còn lại của Thoát Hoan rút chạy về nước. Xế chiều ngày hôm trước, ba tên lính truyền tin kiếm được một chiếc thuyền nhỏ, nhưng khi qua sông lại chẳng thấy bóng dáng đội quân của Nạp Tốc Lạt Đinh, chúng gặp được tên lính già đang vẩn vơ ven sông chờ nước xuống. Hóa ra chủ tướng Vân Nam đã rút chạy trước khi có lệnh. Bọn truyền tin cho người lính tìm con đi nhờ, sáng sớm về đến Gia Quất thì quân đã nhổ trại cách đây nửa canh giờ.

Nghe tin quân Nguyên bỏ thành Thăng Long rút sang tả ngạn, Hưng Đạo Vương sai thám mã chuyển thư hỏa tốc cho Chiêu Minh Vương, trong thư ngài viết “Giặc tháo chạy khỏi Thăng Long, tụ lại bắc sông Hồng, trước sau chúng cũng rút về nước. Mong huynh dẫn quân thu hồi kinh sư và sai tướng chặn giặc tại Như Nguyệt để phòng chúng chạy qua sông Thương đến Chi Lăng, là nơi quân ta thưa mỏng. Nếu giặc dạt sang đông bắc thì ta và các tướng ở Vạn Kiếp đã bố trận chờ chúng đến”.

Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung và Tả Thiên Vương Trần Đức Việp dẫn binh thuyền từ Trường Yên ra, Hưng Đạo Vô cùng phấn khích vội vàng ra tận bến thuyền đón các huynh đệ. Anh em nắm tay nhau mừng rỡ, chuyện trò thăm hỏi tíu tít. Quốc Tung thông báo:

– Ta đang ở Tam Điệp đề phòng Toa Đô từ Thanh Hóa đánh ra, nghe tin nó rục rịch dẫn quân tháo chạy, nhị hoàng sai kéo binh thuyền trợ chiến đông bắc.

Hưng Đạo hỏi:

– Sức khỏe của Thượng hoàng và Quan gia thế nào? Các ngài có dự tính gì?

Quốc Tung đáp:

– Đội ơn trời Phật, nhị vị thánh thượng vui khỏe lắm, thắng trận liên tiếp nên tinh thần rất sảng khoái. Giặc ở Thiên Trường cũng chạy cả, hai vua sẽ sớm kéo quân ra ngoài này.

Hưng Đạo lại hỏi:

– Bọn Toa Đô rút bằng đường nào?

Đức Việp nói:

– Chưa nắm được thông tin. Nếu chúng rút bằng đường biển thì có thể qua cửa Hải Thị. Toa Đô có lẽ không biết bọn Thoát Hoan chạy khỏi Thăng Long, hẳn sẽ theo sông Hồng tiến về kinh sư.

Hưng Đạo cười giòn, mà rằng:

– Nếu đúng vậy thì không đáng lo. Phía trước Toa Đô là hơn chục vạn binh của Chiêu Minh Vương, phía sau hắn là đại quân của nhị hoàng, trốn đâu cho thoát. Giặc đang rút chạy về nước, ta hãng lo bày trận đón đánh chúng tại đây.

Tả Thiên Vương hồ hởi nói:

– Phải đấy. Giặc ở Trường Yên ít quá, đánh không bõ. Tiết chế để tại hạ tham gia một trận cho đáng.

Hưng Đạo vui vẻ đáp:

– Tất nhiên rồi. Dịp này tướng sĩ nhiều cơ hội lập công lắm.

Lại có quân báo tin Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đến. Hưng Đạo cho mời vào ngay. Khánh Dư bước vào, chưa kịp chào hỏi đã phàn nàn:

– Tiết chế ác thật, sau trận Tam Trĩ bắt ta ở lì tại Vạn Ninh, tít tắp trên vùng biển đông bắc. Cả nước đánh giặc như vũ bão, còn ta làm thằng lính trấn thủ lưu đồn.

Hưng Đạo an ủi:

– Đây là nơi hiểm yếu, tướng giỏi mới được giao phó. Nhưng nay cũng triệu Nhân Huệ về để bày trận diệt giặc còn gì nữa.

Khánh Dư cười xòa:

– Huynh nói vậy nghe còn được.

Mấy người cùng cười vang, sôi nổi nghị bàn kế sách đánh tan đạo quân thất trận của Thoát Hoan.

Nhận được thư của Hưng Đạo Vương, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải cho triệu tập các tướng đến hội họp. Ngài nói:

– Giặc đang tháo chạy về nước. Việc trước mắt phải chặn đánh bọn tàn quân của chúng. Tiết chế có bàn với ta cần cử lực lượng lên Như Nguyệt lập chiến tuyến ngắn Thoát Hoan rút qua đường sông Thương về Chi Lăng. Ai có thể gánh vác việc này?

Trần Quốc Toản, Trần Thông và Trần Quốc Thành xin nhận trọng trách lên Như Nguyệt dàn trận. Quang Khải mừng lắm, nói:

– Bọn Thoát Hoan dù thua chạy nhưng vẫn còn hơn chục vạn quân. Ta không thể điều động tức thời lực lượng tương xứng để đối phó với chúng ở hướng bắc, các tướng chỉ có ba vạn quân nên chủ yếu phô trương thanh thế, khiến giặc lo ngại mà đổi hướng tháo chạy qua đông bắc, tại đấy Hưng Đạo Vương đã có sẵn mười lăm vạn binh mã đón đợi chúng đến.

Trần Thông hỏi:

– Bão vừa tan hôm qua, đất còn lầy lội sẽ khó đi lại, làm sao chuyển quân kịp thời để ngăn giặc?

Quang Khải nói:

– Đi ngay trong đêm nay, đạo thuyền chở quân ngược dòng sông Hồng lên Đông Ngàn rồi hành binh đường bộ đến Như Nguyệt. Phải khẩn trương thì mới giành được thế chủ động. Ta đã cho người liên lạc với các tướng đóng quân quanh Thăng Long. Chiêu Văn Vương, Chiêu Thành Vương, Trung Thành Vương và Nguyễn Khoái sẽ tham gia quấy phá quân địch.

Quốc Toản hỏi:

– Nếu giặc không chuyển hướng mà quyết vượt qua sông Như Nguyệt thì phải tính sao?

Quang Khải chặt tay xuống bàn, cất giọng đanh thép:

– Quyết tử. Binh ta kém chúng nhiều lần song tinh thần lại mạnh hơn chúng gấp bội. Các tướng bằng mọi giá giữ vững trận địa, quyết không cho giặc thù vượt qua sông Như Nguyệt. Nếu chúng thoát theo lối này thì ở Chi Lăng, Khâu Ôn ta không có đủ binh lực để chặn giặc. Bằng ý chí quyết chiến, phải buộc chúng đổi hướng chạy sang vùng Vạn Kiếp. Đây là quân lệnh, có làm được không?

Trần Quốc Toản, Trần Thông và Trần Quốc Thành cùng dõng dạc đáp:

– Dứt khoát làm được.

Cuối giờ thân ngày mồng năm tháng năm, một đạo thuyền hơn ba trăm chiếc xuất phát từ Chương Dương chở quân ngược dòng sông Hồng lên phía bắc. Lúc qua Thăng Long trời đã tối, nhìn về phía kinh thành không thấy một đốm lửa nhỏ, Trần Quốc Thành thở dài, mà rằng:

– Kinh sư chắc hoang tàn lắm, biết bao giờ lại được như xưa?

Trần Thông nói:

– Nhị hoàng và triều đình trở về, dân chúng trở về thì kinh sư lại sáng rỡ ánh đèn.

Quốc Toản nói:

– Lúc Thượng hoàng và Quan gia hội kinh chắc sẽ vui như hội. Hy vọng ai cũng có mặt để lạy mừng các vị chí tôn.

Đoàn binh thuyền không gặp trở ngại nào trên đường. Bọn truyền tin mò qua sông tìm kiếm Nạp Tốc Lạt Đinh cũng đã quay về, nên giặc hoàn toàn mù tịt tin tức về đạo thuyền Đại Việt. Sang giờ tý, thuyền đổ quân xuống Đông Ngàn cách trại giặc ở Gia Quất chừng mười dặm mà chúng chẳng hề hay biết. Sáng sớm ngày mồng sáu, quân ta đã có mặt tại địa điểm tập kết. Lúc ấy, đoàn quân thất trận của Thoát Hoan bắt đầu kéo nhau lên phía bắc.

Các chiến tướng Đại Việt chia quân làm ba cụm dọc bến đò Như Nguyệt, Quốc Toản án ngữ trung tâm, Trần Thông ở cánh phải, Quốc Thành ở cánh trái. Họ quyết định chặn giặc ở vị trí này vì bờ sông thoai thoải, kẻ thù tất kéo đến đóng bè làm cầu qua sông. Đứng trên bờ lũy bao quát trận địa, Quốc Toản nói:

– Nơi này có địa thế giống như chiến lũy, phải chăng người xưa đắp lên để cản phá giặc Tống?

Quốc Thành đáp:

– Đúng vậy. Lý Thường Kiệt đánh bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết tơi bời ngay tại đây.

Trần Thông là người chỉ huy lớn tuổi nhất, các tướng đề nghị ông có đôi lời khích lệ tinh thần ba quân. Thông quay mặt về phía binh sĩ, cất giọng hùng hồn:

– Dưới chân ta là dải đất được đắp từ hơn hai trăm năm trước. Dấu tích vẫn còn đây, nơi danh tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy quân dân Đại Việt dựng lũy phá Tống. Ngày trước tiền nhân chặn giặc kéo đến, ngày nay chúng ta cản giặc rút chạy, bọn ngoại bang phương Bắc kéo đến hay rút đi đều phải trả giá. Các anh em hãy tiếp nối tinh thần của người xưa mà đánh một trận cho xứng đáng với tổ tiên.

Binh sĩ hò reo hưởng ứng, sự quyết tâm tỏ rõ trên gương mặt sắt đá của từng người lính vệ quốc. Tranh thủ lúc giặc chưa đến, quân ta hối hả đắp đất vào những chỗ sụt lở và chặt tre vát nhọn đầu làm vũ khí đâm chiến mã. Theo lời dặn dò của Chiêu Minh Vương, Trần Quốc Toản cho dựng cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân” trên mô đất cao, để bọn Mông Thát thấy được khí thế quyết chiến của quân dân nước Nam.

Qua giờ ngọ bọn thám báo Nguyên phát hiện quân ta dàn trận trên bến sông, chúng cấp báo cho chủ tướng tiên phong A Lý Hải Nha. Viên Bình chương dẫn vài chục tên tướng đi thị sát trận địa. Đứng cách chừng một dặm, nhìn quân An Nam tinh kỳ phất phới, chiến lũy tinh khôi, đội ngũ chia làm ba cụm phòng thủ, y cân nhắc thế trận đôi bên rồi sai truyền:

– Đoạn giữa thuận lợi nhất để vượt sông. Sát Tháp Nhi Đài chỉ huy hai vạn quân đánh vào trung tâm, Lý Bang Hiến dẫn một vạn quân công tả, Nạp Hải dẫn một vạn quân công hữu. Ta còn đội kị mã dự bị, chỗ nào cần thiết sẽ tung ra ứng cứu. Nếu qua được ải phía trước thì đường về nhà gần thêm một đoạn, các ngươi phải nỗ lực đánh trận này.

Bọn tướng Nguyên hối hả lấy quân và huấn thị binh lính “Quẩn quanh sẽ chết. Vượt ải mà về” rồi chia làm ba cánh ồ ạt xông tới. Bên phía trận địa của ta, tướng sĩ đã sẵn sàng tiếp chiến, cung nỏ giương lên, gươm giáo chĩa tới, tiếng hò reo “Sát Thát” vang dội bật ra từ hàng vạn lồng ngực chất ngất hờn căm.?️

Từ sau lũy đất, hàng ngàn mũi tên phóng thẳng vào đội hình quân Nguyên, bọn đi đầu gục chết, bọn phía sau lại ào tới áp sát chiến lũy. Các chiến binh dùng sào tre đâm ngựa giặc rồi nắm đao mác lăn xả vào đâm chém bọn ngã ngựa. Ở cánh trung tâm, Sát Tháp Nhi Đài hò quân tràn qua lũy, Trần Quốc Toản dẫn kị binh xông lên đánh bật quân Nguyên về bên kia chiến tuyến. Chớp thời cơ, người tướng trẻ tay vung trường kiếm đi đầu đoàn kị mã vọt qua lũy đất lao vào đội hình của giặc, gươm đao lướt theo Vó ngựa ra sức chặt chém bọn bộ binh Mông Thát. Sát Tháp Nhi Đài chỉ huy quân kị kéo ra nghênh chiến. Quốc Toản hò hét lui quân, ba trăm chiến mã quay đầu, phóng ngựa vượt lũy. Đội cung nỏ bắn tên đánh chặn gần một ngàn kị binh giặc đang rầm rập đuổi theo phía sau.

Ở cánh trái, bọn Lý Bang Hiến tiến công vào trận địa của Trần Quốc Thành. Mang sẵn tư tưởng thoái binh, Bang Hiến vừa la hét giục quân xông lên, vừa liếc mắt dòm chừng cánh quân Sát Tháp Nhi Đài đánh chác ra sao. Giặc đến tầm tên bắn, Quốc Thành phát lệnh xạ kích, những mũi tên xé gió hạ gục toán lính đầu tiên. Bọn kị mã thúc ngựa lao tới chiến lũy, quân ta dựng ngược tre nhọn, đám ngựa chùn bước hết chủ ngã lăn. Quốc Thành dẫn quân nhảy lên giáp chiến, hai bên đánh nhau kịch liệt. Thấy kị mã Đại Việt Xông ra đánh phá đội hình của Sát Tháp Nhi Đài, Lý Bang Hiến đề phòng bất trắc, vội cho lui binh.

Bên cánh phải, bọn Nạp Hải hùng hổ xông vào chiến lũy của Trần Thông. Tên bắn không cản được sức giặc, tướng sĩ ta đồng loạt nhảy lên lũy cận chiến. Nạp Hải chẳng hơn gì Bang Hiến, vừa đánh vừa dòm dỏ tình thế các cánh quân khác. Thấy đồng bọn lui binh, y cũng nổi hiệu rút quân. Trần Thông dẫn quân tràn qua lũy, đuổi theo đánh giết bọn chậm chân, rồi lại quay về cố thủ trận địa.

Trung quân của giặc buộc phải dừng lại khi bọn tiên phong chưa thể vượt qua ải Như Nguyệt. Thoát Hoan sai thám mã truyền lệnh cho A Lý Hải Nha “Dốc lực mở đường, đánh không được sẽ nghiêm trị theo quan pháp”. Nhận được lệnh của chủ soái, A Lý rất hậm hực nhưng không thể trái lệnh. Vốn ngại đánh, gã Bình chương hy vọng các tướng dưới quyền bỏ công dọn dẹp, còn y chỉ việc đủng đỉnh bước qua. Phải trực tiếp ra tay, A Lý mắng nhiếc tướng sĩ hèn kém, rồi dẫn hai ngàn năm trăm kị binh dự bị đến tăng cường cho Sát Tháp Nhi Đài.

Bọn giặc mở đợt tấn công mới, dồn binh lực đột phá phòng tuyến của Trần Quốc Toản. Lực lượng kị binh của giặc áp đảo trận địa, các chiến sĩ kiên cường chống đỡ, nhưng thế giặc quá mạnh, khó bề giữ nổi chiến lũy. Trần Thông và Trần Quốc Thành thấy khu trung tâm nguy cấp, bèn chia quân kéo sang trợ chiến. Lực lượng hai cánh tả hữu yếu hẳn, bọn Nạp Hải và Lý Bang Hiến thừa cơ đốc quân đánh tràn.

Một dải lũy đất dài gần ba dặm ngập ngụa máu thịt, cả hai bên cùng tổn thất nặng nề. Giặc Nguyên cố chiếm cho được chiến lũy để mở đường vượt sông tháo chạy về nước. Quân ta quyết tử bảo vệ phòng tuyến, buộc giặc phải đổi hướng rút sang đông bắc, nơi có sẵn đạo quân trừng phạt của nước Nam chờ chúng đến để đòi nợ máu.?️

Giành giật nhau từng tấc đất, các chiến binh Đại Việt thà chết quyết không lùi bước, người này ngã xuống, người kia xông ra lấp chỗ trống để cản bước quân địch. Vó ngựa của Trần Quốc Toản tung hoành ngang dọc, lưỡi kiếm trong tay vị tướng trẻ chém xả vô số giặc thù, cho đến lúc sức cùng lực kiệt, chàng bị bọn kị binh Mông Thát vây chặt và hứng chịu hàng chục mũi gươm giáo. Không rời yên ngựa, người anh hùng trẻ tuổi bước vào cõi bất tử mà bàn tay vẫn nắm chặt dây cương.

Phòng tuyến bị chọc thủng, quân Nguyên tràn ngập chiến lũy, các tướng Trần Thông và Trần Quốc Thành đầm mình trong máu gào thét ba quân kháng cự đến cùng. Chợt vang dội tiếng hò la của một đạo quân từ phía tây kéo đến, đi đầu đoàn quân là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và các tướng của ngài. Thấy có viện binh, quân ta phấn chấn tinh thần vùng lên đánh bật bọn Mông Thát ra khỏi bờ lũy. Quân của Chiêu Văn tạt ngang sườn giặc, cắt đôi binh đội của chúng, buộc A Lý Hải Nha phải co cụm lại để phòng thủ. Vì hoảng sợ, viên Bình chương đã phạm sai lầm khi dùng bộ binh làm lá chắn cho đội kị binh của hắn. Thấy được yếu điểm của giặc, Chiêu Văn chỉ huy quân kị xoáy thẳng vào bọn bộ binh buộc chúng chạy dạt tứ tán, đến lượt các thê đội bộ binh của ta nhảy xổ tới đánh giết từng mảng đám quân Nguyên đang rã rời, đuối sức.

Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến tháo lui đầu tiên, rồi đến lượt Nạp Hải cũng dẫn tàn quân rời khỏi trận địa. A Lý Hải Nha không muốn chậm chân hơn thuộc cấp, hò hét quân đánh cản đối phương để y chạy trước. Chúng chạy về hướng nam theo lối vừa đi qua, hy vọng có trung quân của Thoát Hoan che chở. Bôn tẩu được ba dặm thì bọn Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến thấy đạo quân của chủ soái đang rùng rùng chạy tới, thì ra quân An Nam tập hậu, đuổi rát phía sau. Phía bắc, phía nam đều thọ nạn, phía tây là sông Hồng, chẳng còn tiền quân, hậu quân với trung quân, cả đoàn quân thất trận chạy theo hướng đông sang vùng đông bắc, tính đường qua Vạn Kiếp, Nội Bàng và Khả Ly để về Tư Minh.

Nguyên do nhận được lệnh của Chiêu Minh Vương, Trần Nhật Duật bàn với các tướng chia quân phá giặc. Ông dẫn hai vạn quân đến tăng viện cho phòng tuyến Như Nguyệt để cản phá tiền quân của Thoát Hoan. Chiêu Thành Vương và Minh Hiến Vương ở cánh tả, Trung Thành Vương và Nguyễn Khoái ở cánh hữu cùng công kích hậu quân của giặc. Không chịu nổi sức ép của các binh đội Đại Việt, bọn Thoát Hoan chẳng còn con đường nào khác để về nước, buộc phải kéo nhau tháo chạy lên Chí Linh - Vạn Kiếp, nơi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã bày sẵn thế trận diệt thù.

Hoài Nhân Vương Kiện bị thương trong trận Tây Kết, mất cánh tay cầm binh khí nên đành giã từ đội ngũ, cùng ba thủ tục thân tín trở về thái ấp, sau khi gửi gắm toàn bộ nghĩa binh dưới quyền cho người anh em, người bạn chí cốt Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Trước lúc chia tay, Kiện nói với Toản:

– Hoài Nhân bất lực rồi, trách nhiệm nam nhi đành nhờ Hoài Văn gánh hộ. Hãy bảo trọng, phá xong cường địch hai huynh đệ còn được thấy mặt nhau.

Toản cười vui vẻ cho bạn yên lòng:

– Không chỉ phá cường địch, phải đòi bọn Thát trả nợ máu cánh tay của huynh. Mai mốt bình yên, ta sẽ chèo thuyền tam bản chở huynh rong chơi sông nước, đến thăm những nơi anh em ta từng đánh giặc.

Sau này, khi tan giặc, nghe tin Hoài Văn đã tử trận ở Như Nguyệt, Hoài Nhân vật và cảm thương, nỗi vò xé còn đớn đau hơn cả lúc bị giặc chặt mất cánh tay. Trong niềm nhớ bạn khôn nguôi, chàng trai trẻ bật ra những lời thơ bi thiết.

Thơ rằng:

Nước loạn, thân trai dậy bất bình

Dựng cờ tụ nghĩa quân chưa tinh

Nhị Hà cướp thóc, gan tày bạn

Tây Kết ngăn thù, dũng tựa huynh

Máu hồng tôi đổ ươn phần thịt

Xương trắng anh phơi hiến trọn mình

Tiếc nhớ tri âm đêm chẳng ngủ

Nghe gió vi vu gợi cảm tình.

Bài thơ vốn không có tựa đề, người đời sau đặt tựa là Hoài hoàiNhớ nhớ mang ngụ ý về tình bạn cao đẹp giữa hai vị vương hầu trẻ tuổi có tước hiệu chung chữ “Hoài”.

Chạy khỏi phòng tuyến Như Nguyệt chừng bốn chục dặm thì trời tối mịt, lại gặp lúc mưa to, Thoát Hoan buộc phải dừng binh, lập trại trú mưa.

Bôn tẩu nhiều ngày khiến gã thân vương Giảo Kỳ bơ phờ mỏi mệt, vừa dựng xong lều tạm là chui đầu vào nằm lăn trên chiếc ván gỗ vừa ngắn vừa hẹp, chờ lính hầu dâng cơm. Đang đói cồn cào lại được quân báo tin có một vị khách xin tiếp kiến, xưng là Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. Ban đầu Kỳ không muốn tiếp nhưng thấy lạ bèn cho mời vào. Tắc đi cùng hai thủ tục khệ nệ khiêng một chiếc hòm nhỏ, song có vẻ rất nặng. Sau màn chào hỏi, Tắc trình bày:

– Tại hạ có chí hướng quy phụ thiện triều, chẳng may đại quân tạm rút về, Tắc tôi không thể ở lại trong nước nên theo các ngài sang Nguyên chuyến này. Biết phận mình là kẻ đeo chân bám cẳng đâu dám làm phiền Trấn Nam Vương, đành cầu mong ngài che chở khi gặp tai ách cạm bẫy dọc đường. Được vậy thì xin hậu tạ toàn bộ tiền bạc của mình.

Nói rồi, Tắc sai người hầu mở chiếc hòm mang theo. Giảo Kỳ lóa mắt trước đống vàng ngọc trị giá nhiều ngàn lượng bạc, nhưng vẫn làm bộ đưa đẩy ra cái điều là bậc trượng phu khí khái xem nhẹ của cải vật chất:

– Ngài làm vậy không nên. Lúc đồng hành nguy cấp thì dù là ai, nếu giúp được là ta giúp liền, đâu cần phải chờ trả ơn.

Tắc nói:

– Đây là tấm lòng của tại hạ, xin ngài nhận cho. Có như vậy thì Tắc tôi cùng gia quyến và thuộc hạ mới an tâm mà rong ruổi theo ngài hồi binh.

Kỳ tặc lưỡi như thể bất đắc dĩ phải nhận, song cũng muốn biết bụng dạ của kẻ cầu cạnh:

– Ngài đã nói vậy, ta đành nghe theo. Nhưng trong quân có nhiều tướng giỏi, tại sao ngài không nhờ cậy mà phải đến ta?

Tắc đáp:

– Họ giỏi đánh trận chứ không giỏi luồn lách, lại thường lỗ mãng coi rẻ người nội phụ. Ngài từ Thiên Trường vượt qua muôn trùng binh đội Trần gia mà toàn mạng tới đây, đấy chính là niềm tin để tại hạ đến nương bóng.

Kỳ được nịnh, đắc chí lắm, khoe khoang:

– Thoát hiểm cũng cần mưu trí, bọn võ biền làm sao bằng được người nửa đời nghiền ngẫm binh thư, thời gian đọc sách còn nhiều hơn ăn ngủ. Vậy ngài có bao nhiêu người, để ta còn thu xếp?

Tắc trả lời:

– Không còn được bao nhiêu, chỉ độ trăm hai. Có năm chục người cần bảo vệ, số còn lại là tôi tớ, giữ được thì giữ, đứa nào tận mạng thì đành chịu.

Kỳ nói:

– Phải chia ra thôi, kẻo lúc hỗn loạn không biết ai với ai mà trợ giúp. Ta sẽ cử năm trăm quân hộ vệ năm mươi người thân tín của ngài, bọn tôi tớ thì đi theo binh sĩ, thân đứa nào đứa ấy lo.

Ích Tắc về rồi, Kỳ quên cả đói, ngồi bệt xuống đất, bày đống vàng ngọc lên miếng ván mà săm soi ngắm nghía dưới ánh đuốc, nói cười hề hả “Ta mất một ngàn lượng bạc để giữ mạng về đây nên xứng đáng được đền bù gấp mười”.

Sở dĩ có chuyện như vậy vì trải qua mấy ngày hồn xiêu phách lạc theo tàn quân của Thoát Hoan tháo chạy từ Thăng Long đến Như Nguyệt, thấy tính mạng như chuông treo chỉ mình mà tướng soái Nguyên Mông lại chẳng thèm đoái hoài đến đám hàng binh, Ích Tắc bàn với đồng bọn tìm kế thoát hiểm. Y cho rằng chỉ có tiền bạc mới cứu được mạng, bèn nặn sạch hầu bao của bọn Phạm Cự Địa, Lê Điền và Trịnh Long rồi bỏ thêm chút đỉnh phần của mình, đem cống nộp cho Giảo Kỳ để nhờ che chở.

Sáng sớm hôm sau, trước lúc khởi hành, Giảo Kỳ sai năm trăm quân làm nhiệm vụ hộ tống bọn Trần Ích Tắc, với lời dặn dò “Làm cho tốt, về đến nước sẽ trọng thưởng”. Lưu Thế Anh phàn nàn:

– Quân của ngài không nhiều, lại còn phải lo canh giữ đám người vô tích sự kia.

Giảo Kỳ giải thích:

– Trước kia, khi lên đường chinh Nam, đại đế chỉ dụ nếu có quan tướng trụ cột của Chiêm Thành, An Nam xin quy phục thì phải bao bọc, bảo vệ để dùng về sau. Trần Ích Tắc là vương, có vai vế lớn ở xứ này, nên làm sao có thể coi nhẹ. Người ta thân cô, Trấn Nam Vương lại bỏ mặc, ta đành gánh vác cái việc chẳng vui thú gì cho Đại Nguyên không mất thể diện với kẻ có lòng về theo. Nay còn bốn ngàn rưỡi quân, giao cho ngươi ba ngàn để lo phòng vệ, đừng trông chờ bọn tướng soái kia kẻo có ngày ân hận.

Thua trận liên miên, quân chẳng còn, danh cũng mất, không dám đến trình diện Trấn Nam Vương nên Lưu Thế Anh phải chấp nhận thân phận đeo bám Giảo Kỳ. Nay được giao mấy ngàn quân, y cho rằng vận hội chưa mạt, hí hửng đón nhận mà không hỏi han gì thêm về hành vi lạ đời của gã thân vương mà bọn người Nam gọi là kẻ “dở ông dở thằng”.

Đoán biết bọn Thoát Hoan thua trận ở phòng tuyến Như Nguyệt sẽ chuyển hướng chạy sang vùng Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương điều Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung và Tả Thiên Vương Trần Đức Việp dẫn hai vạn quân chặn giặc tại bến Phú Lương, nơi dòng Như Nguyệt bị bồi lắng, ở giữa nổi lên một bãi cồn lớn, giặc có thể vượt qua dễ dàng.

Giảo Kỳ và Lưu Thế Anh đang đoạn hậu thì có quân hiệu đến giao lệnh của Thoát Hoan. Lệnh viết “Phía trước sông cạn, ở giữa là bãi bồi, quân có thể vượt qua. Hôm trước tiền quân đã đánh trận mệt nhọc, nay cho nghỉ. Giảo Kỳ và Lý Hằng sai người đi trước mở đường ra bãi, nếu thuận lợi toàn quân sẽ vượt sông”. Kỳ bảo với Thế Anh:

– Đây là cơ hội của ta. Hậu quân hay bị quấy nhiễu, chuyển sang tiền quân nếu gặp địch thì ta chạy trước.

Giảo Kỳ và Thế Anh dẫn năm ngàn quân vượt lên tuyến đầu, lúc đi qua trung quân, Khoan Triệt nhìn thấy trong đội ngũ của Kỳ có cả bọn về hàng và gia quyến của chúng, bèn mách lẻo với chủ soái đang ngồi trong xe tam mã bít bùng:

– Lạ quá, tại hạ thấy bọn Trần Ích Tắc được quân của Giảo Kỳ hộ vệ.

Hoan nói vọng ra:

– Kệ nó đi. Lo thân mình chưa xong, hơi sức nào mà chăm bẵm đám Nam man phản chúa. Chúng bỏ tiền bạc thuê Giảo Kỳ hộ mạng, sớm nay ta đã biết tin rồi nên mới sai Kỳ đi mở đường.

Triệt nghĩ “Thì ra là thế. Ta làm tướng chỉ biết đánh trận, đâu có ngờ mấy kẻ quyền cao chức trong mua bán vệ sĩ chẳng khác gì thương lái buôn trâu ngựa. Nhưng chủ soái cũng thâm thúy lắm, giả vờ không hay biết rồi điều ngay gã thân vương hám lợi vào chỗ dễ chết cho biết thân”.

Lý Hằng nhận được lệnh, sai Lý Quán dẫn năm ngàn quân đi tiên phong mở đường, còn y vẫn tụt hậu, vì tin tưởng hậu quân an toàn hơn tiền quân. Từ hồi chinh chiến An Nam, Hằng học được câu tục ngữ “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” của người bản địa, mà y cho rằng mai mốt về già ngồi viết binh thư có thể vận dụng vào cái mục gọi là “Nghệ thuật tình huống”. Tức là trong phép dụng binh, mọi việc trôi chảy bình thường thì thôi, nhưng nếu có tình huống đột biến thuận lợi thì gắng gọi đi trước để tranh công, nhược bằng bất lợi thì tìm cách tụt lại phía sau để tránh đòn phủ đầu của đối phương.

Bọn Thế Anh, Lý Quán dẫn quân ra triền sông, nhìn dòng nước nông choèn, bên bãi cạn nhiều lau sậy và bụi cây nhưng thấy chim chóc vẫn đậu trên cành, cho rằng không có mai phục, chúng đốc thúc quân vượt qua. Lưu Thế Anh là kẻ xảo trá, chờ cho bọn Lý Quán ra đến giữa dòng mới cho quân lội nước.

Đột nhiên trống thúc vang lừng, từ sau cồn cát cách bãi lau trăm thước có hàng ngàn mũi tên bắn ra vun vút nhắm vào đám quân Mông Thát đang tràn ngập dưới nước và trên bờ. Giặc bị đánh bất ngờ, không kịp chống đỡ, nhiều tên gục chết giữa sông làm nghẽn cả dòng chảy. Thừa cơ giặc hỗn loạn, Trần Quốc Tung và Trần Đức Việp dẫn quân ào tới đánh giết. Lý Quán là tướng nhỏ, mới có chút công lao đã tưởng mình tài, “ngựa non háu đá” Quán hùng hổ hò quân đối đầu. Hai bên loạn đả giữa sông, máu thịt lênh láng làm nước đổi màu đỏ lòm làm. Trần Đức Việp dẫn quân vượt sông, đạp lên xác giặc mà lướt tới xông thẳng vào thê đội của Lưu Thế Anh. Viên tướng cáo già vừa đánh vừa lui, mắt trước mắt sau tìm chỗ trống để né đòn.

Thoát Hoan đã ra khỏi xe tam mã, cùng chư tướng đứng từ xa quan sát tình hình chiến địa. Thấy quân Nguyên nguy cấp, y hỏi các tướng:

– Ai muốn dẫn quân ra ứng cứu?

Đám tướng lĩnh không nói năng gì khiến nét mặt chủ soái bắt đầu cau có, chợt A Lý Hải Nha chỉ ngọn đại kỳ mới giương lên ở bờ bên kia, lên tiếng bàn lui:

– Bọn Quốc Tuấn đang chờ ta tung quân vào trận là kéo sang. Nghe nói y có tới mười lăm vạn binh mã.

Trấn Nam Vương chột dạ, vội xuống lệnh rút quân. Cả bọn khẩn cấp tháo chạy về hướng Chí Linh, nơi có dòng sông Thương vắt ngang. Vì men theo bờ sông, hướng đi của giặc chuyển dịch dần từ đông sang đông nam và buộc phải qua Phả Lại. Lưu Thế Anh chỉ còn không đầy hai ngàn quân, nhanh chân nhập vào đội hình Giảo Kỳ, thuộc nhóm đầu của đoàn binh mã thất trận. Lý Quán đánh nhau trên sông bãi, nhận được lệnh lui binh nhưng không dám rút ồ ạt, phải dùng chiêu cuốn chiếu, toán sau hỗ trợ toán trước rút dần lên bờ. Hơn ba ngàn quân của Quán đã bỏ mạng, chôn vùi thân xác nơi đất khách quê người. Tàn quân của y tháo chạy sau cùng, cách bọn hậu quân Lý Hằng chừng nửa dặm.

Ngọn cờ ở bên kia sông là đại kỳ màu đỏ thêu tám chữ vàng “Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương” được ngài cho dựng lên để ra đòn tâm lý. Biết binh lực của Thoát Hoan còn đông đảo, Vương dẫn quân đến bờ bắc thị uy. Quả nhiên đám chủ tướng Mông Thát đã sờn lòng khi biết có quân của ngài ở phía trước, buộc chúng một lần nữa phải đổi hướng bôn tẩu.

Cho đến lúc ấy, kế sách đánh tàn quân Nguyên Mông tháo chạy của Hưng Đạo đã phát huy hiệu quả. Vương chủ mưu không bày trận đối đầu sinh tử với cả chục vạn quân Thát, ngài dùng sở trường gặm nhấm dần từng mảng binh đội của chúng, mỗi trận một mớ, mỗi nơi một đám, sao cho đến lúc bước chân sang đất Nguyên, bọn giặc chỉ còn trơ lại một nhóm người nhỏ nhoi, xơ xác.