← Quay lại trang sách

Chương 5 Tháo chạy từ Thanh Hóa, Toa Đô bàn kế hợp tung
Thuận đường viếng Long Hưng, Nhân Tông phá mưu liên kết

Trần Nhật Duật định tổ chức truy kích giặc thì gặp mưa to, đành phải bỏ cuộc. Lại nghe tin Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản tử trận, ngài và các tướng đau xót lắm, bèn tổ chức một lễ tiễn biệt đơn sơ tại bãi chiến trường rồi sai chôn cất trên một gò đất cao, đợi ngày tan giặc sẽ cất bốc về thái ấp an táng. Đấy là việc chẳng đặng đừng, thái ấp của Hoài Văn ở châu Nam Sách, chiến trường đang dịch chuyển về đấy, họ đành ngậm ngùi để người dũng tướng trẻ tuổi nằm lại nơi chốn hoang vu, trong một cỗ quan tài thô mộc.

Sáng hôm sau, Chiêu Văn Vương nhận được thư của Hưng Đạo Vương. Thư viết “Hôm qua các quân đã đánh một trận oanh liệt, làm giặc tổn thất nặng nề, buộc chúng phải chạy sang Chí Linh - Vạn Kiếp. Quân ta cũng thương vong nhiều nên huynh cho họ nghỉ ngơi để chấn chỉnh đội ngũ, nhưng vẫn cần điều động vài vạn binh mã khỏe mạnh tiếp tục truy kích đánh vào hậu quân của địch. Tiền quân và trung quân của chúng đã có các huynh đệ Vạn Kiếp thu xếp chỗ vùi thây lũ khốn”.

Đọc xong thư của Hưng Đạo, Nhật Duật nói với các vương hầu, tướng lĩnh:

– Quốc Tuấn huynh tài thật, đang ở tận đâu đâu mà vẫn nắm vững tình hình nơi này. Việc truy kích giặc cũng là ý đồ của ta. Các quân đều suy giảm, cần thời gian hồi phục và tranh thủ thu dọn chiến trường, nhớ chôn cất binh sĩ tử tế. Ta và Nguyễn Khoái sẽ dẫn quân đuổi đánh địch.

Đầu giờ ngọ, Chiêu Văn Vương và Nguyễn Khoái chỉ huy ba vạn quân cấp tốc đuổi theo đạo quân thất trận của Thoát Hoan. Họ gặp giặc khi chúng đang tổ chức vượt qua sông Thương để sang Phả Lại. Trong đoàn quân của Trần Nhật Duật, đội thám báo cảm tử của Hứa Tông Đạo luôn đi tiên phong. Hai anh em Phạm Thái và Lô Viên Dụng thuộc nhóm chiến binh quả cảm nhất dưới quyền vị đội trưởng gốc Hán từng thề nguyền gắn bó cuộc đời với nước Nam.

Thấy giặc đang trong tình thế bất lợi, quân ta chia làm hai mũi ồ ạt xáp tới. Lý Hằng bị tập hậu, vội dừng vượt sông, lập đội hình chống cự. Gươm đao đấu với thương kiếm, vó ngựa chồm lên ức ngựa, đôi bên kịch chiến tơi bời, cái sắc lạnh của vũ khí bổ xả vào nhau phát ra những thanh âm khô khốc trước khi máu tuôn xối xả và những bộ phận cơ thể bị gãy rời. Chợt trong trận ở bên kia sông nổi lên ầm ĩ, biết tiền quân cũng bị chặn đánh, Hằng nghĩ “Đầu cũng nạn mà đuôi cũng nạn, thà cố đánh cho rồi”, y hò hét thúc binh tả xông hữu đột hòng phá thế gọng kìm của quân Trần.

Lô Viên Dụng hăng máu chém giết, con ngựa của chàng trai sơn cước bị giáo giặc đâm thủng bụng làm chủ ngã lăn ra đất. Dụng bật dậy vung đao thủ thế, bọn Thát ùa tới đâm chém, chàng phạt trúng hai tên nhưng cũng dính ba mũi giáo của giặc. Người trai trẻ kiên cường của núi rừng Lạng Giang ngã xuống khi mới tròn mười bảy tuổi.?️

Phạm Thái thấy em lâm nguy, quất ngựa nhảy chồm tới giải cứu. Nhìn máu nhuốm đỏ thân xác Viên Dụng, Thái gào lên “Thù này phải trả” rồi dùng mã đao chém rụng đầu một tên giặc đang loay hoay rút mũi giáo cắm trên lồng ngực của Dụng.

Bỏ lại gần một vạn quân giữa chiến địa máu lửa, Lý Hằng dẫn một vạn rưỡi tàn quân tháo chạy về phía nam sông Thương. Chạy được năm dặm, thấy không bị truy đuổi, Hằng cho quân vượt qua ngã ba sông Thiên Đức rồi tiến về Phả Lại, hy vọng gặp được các binh đội khác để hợp lực tìm đường về nước.

Một trận đánh giết để đời, quân ta tiêu diệt và bắt sống được hơn vạn tên giặc, song lực lượng của Trần Nhật Duật và Nguyễn Khoái cũng thiệt hại đáng kể. Ba ngàn chiến binh Đại Việt đã vĩnh viễn nằm lại, khi ngày chiến thắng đang cận kề. Các chủ tướng quyết định dừng tiến công, binh sĩ đã thấm mệt, việc truy kích bọn Lý Hằng trong đêm khó đạt được kết quả như ý.

Cùng đồng đội tổ chức chôn cất anh em tử trận, Phạm Thái lấy chiếc khăn choàng là phần thưởng Chiêu Văn Vương ban tặng cho chiến công chém tướng giặc Tào Vĩnh Sơn ở tây bắc để gói xác Lô Viên Dụng. Không “da ngựa bọc thây”, chỉ có những chiếc hố sâu vài thước vùi lấp thi hài các chiến binh đã bỏ mình vì nước; không một tấm bia, không một nén hương, chỉ có những dãy mộ đắp đất khum khum và những mặt người sắt lại dưới ánh đuốc bập bùng lặng lẽ tiễn đưa chiến hữu đã đành đoạn kiếp người. Những chiến sĩ vô danh chôn cất những chiến sĩ vô danh, họ không còn nước mắt để khóc nhưng trong tâm can của người sống biết mấy quán thắt đớn đau.

Mọi người đã quay về trại, Phạm Thái vẫn ngồi lại bên nấm mộ Viên Dụng lầm rầm kể lể, trách móc “Dụng ơi! Huynh giận đệ lắm. Hai anh em triền miên đánh giặc trong nam ngoài bắc đã nửa năm rồi, bây giờ sắp về với đội ngũ Vạn Kiếp, đệ cũng đang ở gần quê nhà, lại bỏ mà đi sao đặng. Huynh không muốn chuyển lời nhắn nhủ của ai cả, huynh đã từ chối, sao đệ cứ ép huynh phải làm cái việc đau đớn ấy. Đệ có biết huynh ân hận lắm không, nếu huynh nhanh chân hơn nữa thì biết đâu đệ vẫn toàn mạng. Thù của đệ, huynh sẽ đòi giặc trả đủ, nhưng huynh rất sợ khi phải gặp cha đệ mà thưa gửi: con của ông mãi mãi không trở về”.

Bên kia sông cũng là bãi chiến trường đẫm máu, chẳng biết anh em Vạn Kiếp ai còn ai mất, Phạm Thái lại đau đáu nỗi niềm hoài cảm dĩ vãng. Nghe tin Chiêu Văn Vương sắp sang sông hội kiến với Hưng Đạo Vương, Thái đến xin ngài cho trở về binh đội cũ. Được chủ tướng chấp thuận, Thái chia tay đồng đội thám báo trong tâm trạng buồn bã bứt rứt. Cả đội chỉ còn bảy người, cuộc chiến tranh tàn khốc đã nuốt dân sinh mạng của nhiều anh em từng gắn bó như ruột thịt, nay lại phải tiễn biệt nhau, kẻ ở người đi lòng trĩu nặng. Hứa Tông Đạo cố giữ bình thản mà rằng:

– Về bên đấy đánh cho hăng nhưng gắng giữ mạng. Hãy hứa với ta, mai này hết giặc, đệ lên chơi Bạch Hạc để uống với huynh một bữa rượu thật say.

Thái mấp máy đầu môi “Đệ hứa mà” còn tim óc thì ngập tràn biết bao nhiêu cảm xúc sinh ly tử biệt.

Khúc sông Thương mà bọn Thoát Hoan tổ chức vượt qua nằm ở hạ lưu, do đoạn này chảy qua châu Nam Sách nên còn được gọi là sông Nam Sách. Đoạn sông hẹp nhưng nước khá sâu buộc chúng phải chặt tre nứa ghép lại thành cầu phao. Quân ta bày binh mai phục trên bờ, phía bắc có quân của Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, phía nam có quân của Tiền điện chỉ huy sứ Phạm Ngũ Lão, trung tâm có quân của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, từ bến Phả Lại có đội binh thuyền của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, tất cả đã sẵn sàng vào trận “nghênh đón” kẻ thù đến nơi đến chốn.

Hưng Đạo có chủ ý không đánh ngay khi giặc đang làm cầu hoặc bắt đầu vượt sông qua bờ đông, bấy giờ chúng sẽ co cụm lại bờ tây kéo nhau chạy sang chỗ khác, quân ta sẽ mất cơ hội tiêu diệt. Ngài dự tính để cho giặc qua sông quá nửa mới phát lệnh tiến công, lúc ấy đội hình của chúng bị chia cắt làm đôi, quân ta dễ thao túng.

Bọn Giảo Kỳ, A Lý Hải Nha vượt sông trước tiên, tiếp theo là đoàn quân của Thoát Hoan và Khoan Triệt, bọn Đường Ngột Đãi bắt đầu xuống cầu, còn quân của Lý Hằng cũng rục rịch chờ đến lượt. Bất chợt phía bờ tây vang dội tiếng hò la, biết Chiêu Văn Vương đang tập hậu địch quân, thời cơ thuận lợi hơn bao giờ hết, Hưng Đạo Vương phát lệnh tấn công.

Từ ba hướng, quân ta ào tới chia cắt đội hình của giặc thành từng mảng lớn. Vó ngựa của đoàn kị binh Hưng Trí Vương chặn đầu cuộc tháo chạy của Giảo Kỳ. Trong tình thế nguy cấp, gã thân vương xảo quyệt và tên bại tướng Lưu Thế Anh nhanh chân ngoặt sang hướng đông bắc, dẫn theo đám phản quốc Trần Ích Tắc đang tá hỏa trên yên ngựa. Một nhóm quân tách ra, đuổi theo bọn Giảo Kỳ, dùng cung nỏ tiêu diệt được dăm chục tên đuối sức bị rớt lại, số đông chạy mất dạng. Khi binh đội của Quốc Hiện ập tới, bọn A Lý Hải Nha ở phía sau đành chịu trận. Ta và địch quần thảo kịch liệt, Bình Chương A Lý cùng bọn Sát Tháp Nhi Đài, Nạp Hải hò quân kháng cự, mở đường máu dẫn tàn binh chạy bán sống bán chết lên hướng bắc.

Hưng Đạo Vương và Phạm Ngũ Lão chỉ huy binh đội đánh thẳng vào cánh quân trung tâm của Thoát Hoan, là lực lượng có đến năm vạn quân, đông đảo nhất trong đội hình Mông Thát. Quân ta cắt đôi đạo quân của giặc, Quốc công Tiết chế nước Nam chặn đầu Trấn Nam Vương đất Bắc, đại tướng Ngũ Lão kình địch Hữu thừa Khoan Triệt, soái đối soái, tướng chiến tướng, một trận thư hùng trời long đất lở. Hưng Đạo mặc áo giáp bên ngoài khoác tấm choàng đỏ tía, đứng trên đồi cao dùng cờ hiệu điều khiển các binh đội công thủ. Thoát Hoan đứng trên xe ngựa xung quanh có cả vạn quân bao bọc, tay cầm kiếm lệnh hò hét tướng sĩ đột khẩu phá vây.

Ngũ Lão tung quân bịt chặt hướng bắc rồi dẫn hai ngàn kị binh xông vào đội hình của Khoan Triệt. Viên Hữu thừa né đón, thúc quân mở đường thoát ra, quân ta quá dày đặc, lớp này đổ gục, lớp sau ùa lên lấp đầy khoảng trống. Triệt tay gươm tay giáo, đi đầu hàng quân như một mũi tiêm kích khoan sâu vào lực lượng bủa lưới của Đại Việt. Quân ta ép hai sườn, dùng câu liêm giật vó ngựa giặc rồi vung giáo hạ sát bọn ngã ngựa. Trong lúc ấy đội kị binh của Ngũ Lão mặc sức tung hoành giữa đám bộ binh Mông Thát, xác giặc ngã đổ la liệt chiến địa.

Tiết chế Hưng Đạo giương đông kích tây, đội kị binh cắt đôi trung quân của giặc quay sang công phá về hướng trung tâm, hòng diệt tên đầu sỏ Nguyên Mông. Thoát Hoan thấy địch quân đang tiến dần về phía mình vội điều quân từ dưới lên tăng viện. Bấy giờ Hưng Đạo tung lực lượng dự bị hơn một vạn quân đánh vào đội ngũ phía nam của Thoát Hoan. Ở dưới sông, trận chiến cũng vào hồi dữ dội, một bộ phận quân An Nam đã đổ bộ lên bờ, đánh phá sườn tây của cánh quân trung tâm, khiến giặc rơi vào tình thế hỗn loạn. Bốn mặt đều nguy cấp, Trấn Nam Vương hồn vía lên mây, tâm thần tê liệt, không biết vượt thoát bằng lối nào.

Khi trống lệnh thúc vang, đạo binh thuyền của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư từ Phả Lại thuận dòng lao như tên bắn về phía cầu phao của giặc. Chiếc cầu làm vội nên rất sơ sài bị mũi thuyền Đại Việt xé toang thành nhiều khúc. Đội ngũ của Đường Ngột Đãi lúc ấy đang hành binh qua cầu nên bị chết đuối vô số kể. Quân ta áp thuyền sát các bè mảng trôi lềnh bềnh, nhảy sang tiêu diệt sạch những tên giặc bấu víu vào đấy. Đường Ngột Đãi cũng bị rớt xuống sông, được bọn vệ sĩ nhanh chân kéo lên bè, rồi chủ tớ ra sức khua nước tấp vào bờ.

Trên sông ta đã làm chủ tình thế, Nhân Huệ quyết định chỉ huy một cánh quân đổ bộ lên bãi, tấn công vào mặt tây của đội hình Thoát Hoan. Giặc bị đánh tứ phía, quân tướng sa sút tinh thần, hỗn loạn như đàn ong vỡ tổ. Quân ta càng đánh càng hăng, đạp lên xác giặc mà xông vào khu trung tâm, quyết bắt cho được tên đầu lĩnh của đạo quân xâm lược.

Giữa lúc hoàn toàn bế tắc, không tìm được lối thoát, gã chủ soái vô cùng mừng rỡ khi thấy một đoàn quân từ phía nam kéo đến giải vây. Lý Hằng vượt sông ở đoạn dưới, dẫn quân quay lên hướng bắc kịp thời tăng viện cứu nguy cho Trấn Nam Vương.

Bọn Hằng hung hăng đánh tới, bọn Thoát Hoan được lên gân, quay lại phản công lực lượng dự bị của Trần Quốc Tuấn. Viên tiểu tướng Trần Thiệu, người tôi trung dưới trướng Hưng Đạo nhảy xổ tới cản phá quân Lý Hằng, tay vung mã đao chém giặc như phạt cỏ, miệng hô vang lừng “Anh em Vạn Kiếp hãy đánh dập đầu lũ tăng viện”. Hằng chỉ Thiệu mà bảo lính “Giết cho được tên kia”. Bọn giặc quay lại, tách Trần Thiệu khỏi đồng đội, xỉa giáo đâm chết người chiến binh can trường.

Thấy giặc có thêm quân, ép ta ở giữa, Hưng Đạo cho thu binh. Bọn Thoát Hoan, Lý Hằng và Đường Ngột Đãi thừa cơ dẫn đoàn quân tơi tả tháo chạy thục mạng, bỏ lại giữa sa trường hơn bốn vạn quân vĩnh viễn không có ngày trở về quê hương. Hoan vừa chạy vừa chửi vung trời đất khi thấy tàn quân của Khoan Triệt đang vắt chân lên cổ mà chạy ở phía trước, để lại một đám bụi mù cho chủ soái mà chẳng thèm ngoái đầu lại.?️

Đạo quân của Thoát Hoan khi kéo vào đông bắc nước ta có tới ba mươi lăm vạn binh mã, sau trận chiến trên sông Thương, giặc chỉ còn không đầy năm vạn quân. Chỉ riêng cánh quân này, có tới ba mươi vạn tên Nguyên Mông bỏ xác khắp các chiến địa nước Nam. Số quân còn lại xé lẻ thành ba, bốn mảnh, tựa như con mãng xà khổng lồ bị chặt làm nhiều khúc, từng khúc vẫn cố ngoe nguẩy cứu vãn sự sống. Song năm vạn tàn quân của giặc vẫn chưa thể yên thân, đường từ Vạn Kiếp đến biên giới còn nhiều cạm bẫy của Trần Hưng Đạo.

Ngay trong đêm, Tiết chế triệu tập các tướng họp bàn kế sách đánh giặc những ngày tới. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cũng vượt sông sang dự. Hưng Đạo Vương nói:

– Bọn Thoát Hoan thua to, quân không còn nhiều, đang tan rã nên dễ đánh. Toa Đô có thể từ Thanh Hóa kéo quân ra, binh lực của chúng còn khá mạnh, Chiêu Văn nên rút quân về gần Thăng Long, lúc cần thiết có thể tiếp ứng nhị hoàng và Chiêu Minh tiêu diệt bọn này. Nhân Huệ điều động binh thuyền khẩn cấp ngược dòng sông Thương qua sông Lục Nam lên Nội Bàng tăng cường cho lực lượng của Hưng Nhượng đang chốt chặn ở đấy. Hưng Trí và Ngũ Lão hành quân đường bộ đuổi theo giặc, ta sẽ điều binh tiếp ứng phía sau.

Chiêu Văn đề nghị:

– Bọn Tả thừa Lý Hằng gây cho quân của ta nhiều tổn thất. Để ta tham gia truy kích bắt nó trả món nợ này, huynh cử Nguyễn Khoái về Thăng Long là được rồi.

Hưng Đạo nói:

– Không nên. Đừng khinh suất Toa Đô, cần dùng lực lượng áp đảo để đập tan đạo quân của y. Chẳng riêng gì Lý Hằng, tướng giặc nào cũng đáng phải đền tội cả, hãy để các đầu lĩnh khác đòi nợ giúp huynh.

Chợt quân vào báo tin Thoát Hoan cử người đưa thư sang. Hưng Đạo và các tướng ngạc nhiên, không hiểu viên chủ soái đạo quân đang giãy chết định giở trò gì? Vương cho vào, tên quân hiệu người Hán khúm núm đưa lá thư của Hoan rồi xin phép ra ngoài chờ phúc đáp. Hưng Đạo đọc xong thu, bình thản nói:

– Thoát Hoan muốn ta nương tay để chúng về nước. Đâu dễ như vậy. Lúc năm chục vạn binh mã từ ba hướng kéo sang chà đạp nước Nam, y có nương tay không? Đã khuya rồi, mọi người về trại nghỉ ngơi để sớm mai xuất kích. Mời Chiêu Văn và Nhân Huệ ở lại, ta có việc cần bàn.

Khi các tướng đã về hết, Hưng Đạo đứa thư của Thoát Hoan cho Nhật Duật và Khánh Dư xem qua. Thư viết “Binh đao trận mạc là việc đàn ông, dù thắng hay bại ta cũng cam lòng, song cung tên gươm giáo không có mắt, dễ làm gãy đổ thân xác vô tội. Kỳ hoa đang kết trái, lẽ nào để hệ lụy đến hình hài nhỏ nhoi? Đường sang Nguyên chắc còn nhiều cạm bẫy, mong ngài lấy cái tình hoàng tộc mà sai quân không chặn đánh một cỗ xe ngựa và chục tên lính hộ tống. Nếu ngài nghi kị thì có thể điều dăm chục quân đi theo giám sát. Được vậy, giữa ta với ngài dẫu thề không đội trời chung nhưng suốt đời ta luôn trọng ngài là người trượng nghĩa”. Hai vương đọc xong thư thì đăm chiêu lắm, Nhân Huệ nói:

– Việc này khó nghĩ đây, có lẽ ta đừng tiết nóng quá.

Chiêu Văn trăn trở:

– Chưa có tiền lệ như thế này, dù là giọt máu vô tình nhưng không làm gì nên tội, nghĩ tới chỉ thêm buồn. Ý của huynh thế nào?

Hưng Đạo đáp:

– Đây là chuyện đau lòng, đành lấy cái nhân mà chấp thuận cho hắn.

Ngài cho gọi Nguyễn Hòa đến sai việc, đồng thời thảo lệnh qua ải. Lệnh viết “Nhất xa thập tốt, di đắc hội Nguyên, quá quan vô cảnMột xe mười lính, được phép về Nguyên, qua ải không cản”.

Nguyễn Hòa đến, Vương chỉ thị:

– Ngươi lấy ba mươi kị binh khỏe mạnh, theo tên lính Nguyên qua trại của chúng, giám sát một cỗ xe ngựa và mười lính hầu, dùng cờ hiệu của ta qua các cửa ải đến biên giới. Nếu nơi nào gây khó dễ thì đưa lệnh cho họ xem. Việc của ngươi là chấp hành, không cần biết xe chở gì, tuyệt đối không cho phép ai dòm ngó, xem xét bên trong xe.

Rồi ngài cho gọi tên lính Nguyên vào, mà bảo:

– Về nói với chủ ngươi rằng ta chấp nhận thỉnh cầu của y, chỉ một xe ngựa và mười tên lính tháp tùng. Công lệnh ta đã viết, nếu làm khác thì khó mà qua được các cửa ải Đại Việt.

Hòa nhận công lệnh, phụng mệnh điều quân theo tên lính Nguyên lên đường tức thời. Hưng Đạo dặn dò các vương:

– Việc này nên giữ kín, chỉ ba huynh đệ ta biết là đủ rồi. Đừng để đến tai nhị hoàng, kẻo tâm tư đế vương lại dậy sóng.

Nhật Duật lầm rầm than thở:

– Cuộc thế nghiệt ngã quá, chiến tranh đưa đẩy phận người ngược dòng lạc xứ mà không thể cưỡng lại. Vĩnh biệt ái muội từ đây.

Đội giám hộ của Nguyễn Hòa phi ngựa năm mươi dặm thì đến trại Nguyên. Họ đứng ngoài chờ đợi, nửa canh giờ sau, một chiếc xe ngựa bịt mui và mười tên lính kị từ trong trại kéo ra. Nguyễn Hòa dẫn quân đốt đuốc mở đường, trên tay ông cầm ngọn giáo có buộc cờ hiệu đuôi nheo đề chữ “Tiết chế đại vương”, lính Nguyên tháp tùng xe ngựa đi phía sau. Đoàn người nhắm hướng bắc mà phóng tới.

Sau một ngày phi ngựa hối hả, vượt qua các ải Nội Bàng, Động Bản, Khả Ly và hẻm núi Khâu Cấp Lĩnh, nơi nào cũng có quân ta chốt chặn nhưng không hề làm khó dễ khi thấy cờ hiệu và công lệnh của Hưng Đạo Vương, đoàn người dùng ngựa cách quan ải Tây Phong của nước Nguyên chừng một dặm. Nguyễn Hòa nói với đám lính Mông Thát:

– Đến đây bọn ta hết trách nhiệm. Mấy người hãy hộ tống xe ngựa đến nơi bình an.

Hòa và đồng đội chưa kịp rời đi thì từ trong xe có tiếng phụ nữ vọng ra:

– Tiểu tướng, mời lại gần đây.

Nguyễn Hòa giật mình, cuống quýt xuống ngựa, tiến lại gần chiếc xe. Một bàn tay thon bé cầm mẩu giấy thò ra khỏi rèm, nữ nhân cất lời nhỏ nhẹ:

– Cám ơn sự tận tụy của các ngươi. Hãy chuyển cho Hưng Đạo Vương cái này.

Người bị tướng ngỡ ngàng, hai tay đón nhận mà không thốt nổi một lời. Hòa đứng trân trân ngó theo chiếc xe ngựa qua quan ải vào Nguyên, liếc nhìn mẩu giấy, ông đọc được mấy chữ viết tháu “Cảm tạ vương huynh. Thiên nam địa bắc, vạn lý viễn biệt”.

Toa Đô nghe tin quân Trần đánh chiếm Trường Yên, rồi lại phong thanh bọn Giảo Kỳ đã rút chạy khỏi Thiên Trường, bèn gọi Mã Nhi đến bàn bạc. Y nói:

– Bọn Giảo Kỳ chạy cả rồi. Ở đây ta không có cơ hội đánh thắng lại còn thường xuyên đói khát vật vạ, theo ngươi nên làm gì?

Mã Nhi đề nghị:

– Nên rút ra phía bắc. Nếu chậm trễ, để bọn Trần gia tập hợp binh lực ép từ hai đầu thì nguy lắm.

Toa Đô chấp thuận ngay:

– Vậy thì soạn sửa rút thôi. Nhưng rút bằng cách nào?

Mã Nhi đáp:

– Nay còn hơn bốn vạn quân, nếu rút hết bằng thuyền thì không đủ. Theo tại hạ, nên chia làm hai đường, ngài chỉ huy ba vạn binh mã theo ngả tây mà tiến ra để tránh đụng độ với quân Trần ở Trường Yên và Thiên Trường. Tại hạ sẽ dẫn hơn một vạn binh vượt biển vào sông Hồng, ta sẽ hội quân ở ngã ba Luộc, bấy giờ tùy theo tình hình sẽ tính tiếp.

Toa Đô cho là hợp lý, truyền lệnh quân tướng nhổ trại, thu vén lương thực, đóng gói vật dụng và của nà ăn cướp. Do không biết rõ về địa danh của Luộc, viên Hữu thừa buộc Ô Mã Nhi phải điều thuộc hạ thông thuộc địa bàn theo y hành quân đường bộ.

Sáng sớm ngày mồng bảy tháng năm, đạo quân của Toa Đô khởi hành ra bắc mà không hề hay biết chủ soái Thoát Hoan đã dẫn quân rút chạy về nước từ hôm trước. Biết binh lực của mình không thể địch nổi hàng chục vạn quân Trần, y dẫn quân ngược lên hướng tây rồi hành binh qua vùng rừng núi heo hút để tới hữu ngạn sông Hồng.

Không có đường đi, phải phạt cây mở lối và trèo đèo lội suối vô cùng cực nhọc, lương thực thiếu thốn trầm trọng, các bản làng thưa vắng nên việc cướp bóc chẳng đem lại hiệu quả, Toa Đô phải cắt cử luân phiên một lực lượng gồm hai ngàn tên chia thành nhiều toán làm nhiệm vụ đào củ rừng, bẻ măng hái rau và săn bắt muông thú. Sau một ngày thu hoạch, chúng đuổi theo đoàn quân, cung cấp cho ba vạn cái miệng những gì kiếm được. Ngày hôm sau đến lượt đội khác đi kiếm ăn, sục sạo khắp núi rừng trên đường hành quân mà moi móc mọi cái có thể ăn chín hoặc ăn sống. Nhưng với ngần ấy con người, việc lo ăn hằng ngày quả là vấn đề nan giải, dẫu tận thu ráo riết, cái đói vẫn là nguy cơ hàng đầu đeo bám cuộc hành binh của chúng.

Nghĩ tới nghĩ lui thấy mình quá dại, Toa Đô tự trách bản thân nghe theo lời phân công của thuộc cấp “Nó chỉ là tên Vạn hộ bé nhỏ mà lại ung dung cưỡi thuyền. Còn ta đường đường là Hữu thừa quyền cao chức trọng thì lặn lội thâm sơn cùng cốc, đói mệt vật vờ như bầy chó hoang. Bây giờ đành im tiếng cho qua, mở miệng phàn nàn chỉ chuốc sự cười chê của thiên hạ”.

Dọc đường bắc tiến, chỉ một lần duy nhất quân của Toa Đô đụng độ với quân Trần ở Đông Lai. Hôm đấy, bọn lính Nguyên chia nhau tản mát khắp núi rừng để kiếm ăn thì bị một toán quân của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải phát hiện. Họ là các tiểu tướng Trần Đà Phạp và Nguyễn Thạnh được Thái sư sai dẫn năm trăm quân đi tuần tiễu phía tây.

Trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, Chiêu Minh Vương dặn dò hai người “Tuần tiễu tìm kiếm dấu vết của giặc, đề phòng đạo quân Toa Đô theo ngả tây ra bắc. Nếu phát hiện thấy thì chỉ cần âm thầm bám theo và cử người về cấp báo”. Khi bắt gặp một đám người mặc trang phục binh sĩ Mông Thát đem theo cả xe ngựa đang hì hục chặt măng trong rừng, Trần Đà Phạp bàn với Nguyễn Thanh:

– Chủ soái dặn né tránh đạo quân lớn, bọn kia chỉ có hơn trăm thằng, ta thừa sức tiêu diệt.

Nguyễn Thanh nói:

– Nên đánh nhưng giữ mạng vài tên để khai thác tin tức.

Quân ta bí mật bao vây rồi ào tới đánh giết. Bị tấn công bất ngờ, bọn giặc dùng dao kháng cự, chỉ vài tên chạy thoát, số còn lại bị tiêu diệt tại trận. Các tướng tra hỏi một tên lính bị thương, hắn thành khẩn khai báo để được tha mạng. Đà Phạp sai người phi ngựa khẩn cấp về bản doanh báo tin cho Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải.

Được biết nhiều toán quân Nguyên đang săn bắn và đào củ trong vùng, Đà Phạp và Nguyễn Thạnh tổ chức truy lùng. Họ đột kích vào một toán khác, bắt giết hơn trăm tên.

Mấy tên trốn thoát chạy về cấp báo Với Toa Đô, viên Hữu thừa lồng lộn tức tối, trực tiếp chỉ huy năm nghìn binh mã quay lại tìm diệt thê đội tuần tiễu của ta. Các chiến binh của Trần Đà Phạp và Nguyễn Thanh đã dũng cảm kháng cự, song lực lượng quá thưa mỏng nên bị giặc tiêu diệt toàn bộ. Để khỏi vướng bận việc trông giữ, Toa Đô sai giết tù binh. Hai người chiến tướng kiên cường và hơn chục binh sĩ nước Nam bị lính Nguyên Mông đem xuống khe núi chém chết.

Thuyền cũ, thuyền mới cả thảy có trăm hai chục chiếc, Ô Mã Nhi dẫn quân ra biển rồi kéo đến cửa Giao Hải. Quan sát từ xa, thấy một đạo thuyền đang đậu ở cửa sông, nhìn kỹ thì ra cũng là quân Mông Thát, Ô Mã Nhi yên tâm cho binh thuyền tiến lại gần. Đấy là đội thuyền của Lưu Khuê từ Trường Yên kéo ra, chưa biết đi đâu nên đậu tạm ở chỗ sông biển giao hòa, tiến thoái thuận lợi. Hai tên Vạn hộ thông báo tình hình của nhau rồi thống nhất hợp quân ngược dòng sông Hồng đến điểm hẹn với Toa Đô.

Buổi chiều hôm ấy chúng phát hiện một đoàn thuyền Nguyên Mông đậu bên bờ sông cách của Luộc chừng vài chục dặm. Thì ra binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Sau trận chiến Chương Dương, Đáp Nhĩ chạy xuống phía nam ẩn náu, chờ cơ hội rút về Thăng Long. Khi chiến sự lắng xuống, y cho quân đi dò la thì được chúng báo tin “Dưới sông đầy thuyền đối phương, trên bờ quân đông như kiến. Không có đường an toàn tới Thăng Long”. Bột La Hợp Đáp Nhĩ cử một tên lính giả dạng thường dân lén lút mò đến kinh thành gặp chủ soái để xin chỉ thị. Sáng nay nó trở về cho biết Trấn Nam Vương đã rút khỏi Thăng Long, nghe nói gặp bão và bị quân Trần đuổi đánh tan tác, hiện không biết đang ở nơi nào.

Gặp được Ô Mã Nhi và Lưu Khuê, nghe chúng bàn đến ngã ba Luộc hội quân với Toa Đô để hợp lực đánh Trần, Bột La Hợp Đáp Nhĩ không phản đối nhưng trong bụng nghĩ khác “Đánh chác gì nữa. Chủ soái đã chạy mất dạng, ở đâu còn chẳng biết, nói gì đến chuyện hợp tung”. Vừa trải qua mấy trận chiến kinh hoàng trên sông Hồng, Bột La Hợp Đáp Nhĩ hiểu rõ hơn ai hết tình thế đại bại của Mông Thát, nhưng y không thể bộc lộ ý định thoái lui trước mấy tên chiến tướng đồng cấp còn hăng máu ăn thua, đành bấm bụng theo chúng đua binh thuyền tới của Luộc.

Rạng sáng hôm sau, đội quân của Toa Đô lếch thếch kéo đến điểm hẹn. Dù căm tức Ô Mã Nhi và đang rất mệt mỏi, song Toa Đô vẫn ra vẻ đàn anh, ngồi phán như chủ soái:

– Thêm các tướng hội về, binh lực ta đang mạnh lên, phải tìm cách hợp tung với Trấn Nam Vương, dưới đánh lên, trên đánh xuống, lật ngược tình thế, giành quyền chủ động, ép chết bọn Trần gia ngông cuồng.

Lưu Khuê nói:

– Muốn vậy phải liên lạc được với Trấn Nam Vương, nhưng sau khi rời khỏi Thăng Long, không biết ngài đang ở đâu?

Bột La Hợp Đáp Nhĩ nói:

– Thám báo của tại hạ cho biết, chủ soái hành binh về hướng đông, có lẽ tiến sang vùng Hải Đông.

Mã Nhi nói:

– Hải Đông rộng lắm, biết đâu mà tìm?

Bột La Hợp Đáp Nhĩ chớp thời cơ, đề nghị:

– Đúng vậy, cử vài tên thám mã đi lùng sục thì không biết bao giờ mới hợp tung được. Nếu Hữu thừa cho phép, tại hạ dẫn binh thuyền lên Hải Đông phô trương thanh thế, tất yếu Trấn Nam Vương sẽ nghe tin mà cho người đến tìm.

Toa Đô ưng thuận, bảo:

– Vậy Vạn hộ hãy lên đường cho sớm sủa. Gặp được Trấn Nam Vương thì nói rằng ta sẽ dẫn quân đánh phá dọc sông Hồng, tiến về Thăng Long. Đề nghị chủ soái quay đầu tiến sang hướng tây, hợp lực hai bên đánh cho bọn Trần gia chạy dài lên núi. Nhớ cử liên lạc thông báo tin tức, ta nghỉ ngơi tại đây vài ba ngày rồi tiến quân ngược dòng.

Bột La Hợp Đáp Nhĩ hối hả đưa binh thuyền xuôi ra biển. Không còn phụ thuộc vào đám tướng lĩnh hiếu thắng, y nói với bọn thủ túc thân tín:

– Đã thua tơi bời, không biết tìm đường rút về lại còn lên gân đòi đánh tiếp. Đánh gì nổi, hàng chục vạn quân của Trấn Nam Vương còn chạy dài, huống chi một nhóm người của Toa Đô. Có lẽ chủ soái dẫn quân về nước rồi. Ta cũng về nhà thôi.

Đám binh sĩ của Bột La Hợp Đáp Nhĩ vui mừng hát hò nhảy nhót. Con đường sống của chúng đã mở, chỉ cần thoát ra tới biển và không gặp bão tố thì coi như bọn họ giữ được cái mạng để mà về với gia đình sau một cuộc viễn chinh nhớ đời.

Thái sư Trần Quang Khải đang điều quân về Thăng Long thì nhận được tin của thám mã. Ngài quyết định thay đổi một phần phương án điều động. Lệnh cho Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đóng quân gần Chương Dương, sai Minh Hiến Vương Trần Uất và Chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh đem quân chốt chặn gần Hàm Tử, còn chỉ thị cho các tướng “Nếu bọn Toa Đô kéo đến, đừng vội khiêu chiến, chờ đại quân của nhị hoàng xuất hiện, bấy giờ tiền hậu tấn công, tả hữu đột phá, giặc tất vỡ”. Chiêu Minh viết thư gửi Thượng hoàng và Quan gia, cho thám mã hỏa tốc đem vào Trường Yên. Ngài cùng các tướng khác dẫn quân về Thăng Long như kế sách ban đầu.

Ngày mồng mười tháng năm, nghe tin từ Châu Ái báo ra cho biết bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi đã rút khỏi Thanh Hóa, các vua vội triệu tập quan tướng nghị bàn. Nhân Tông nói:

– Giặc đã bỏ Thanh Hóa, song chưa biết chúng đi đâu, trước mắt ta cần bàn kế sách đối phó.

Đinh Củng Viên nói:

– Theo thần, chúng chạy ra bắc. Đấy là đường sinh tồn duy nhất của đạo quân Toa Đô.

Lê Văn Hưu nói:

– Xưa nay bọn phương Bắc quen hành bình nhiều ngả. Có thể chúng chia quân thủy bộ tiến ra.

Thượng hoàng Thánh Tông thắc mắc:

– Nếu chúng đi đường biển thì không nói làm gì. Nếu chúng đi đường bộ tất phải qua Trường Yên, sao không thấy động tĩnh

Nguyễn Thuyên lý giải:

– Có một cách chúng làm được là vòng qua vùng rừng núi phía tây, ra đến bắc sẽ theo hướng đông kéo xuống.

Nhân Tông nhíu mày lo âu:

– Liệu giặc có phạm vào nơi ẩn náu của hậu cung không?

Nguyễn Thuyên trấn an các vua:

– Khởi bẩm nhị hoàng, hậu cung náu gần biên giới Ai Lao, chúng không đi xa tới vậy đâu. Mục đích của Toa Đô chỉ muốn kéo ra hội binh với Thoát Hoan hoặc tìm đường tháo chạy về nước. Giặc sẽ men theo vùng bán sơn địa không có quân ta trú đóng chứ đời nào leo lên tận vùng biên cương núi non trùng điệp.

Nhà vua có vẻ yên lòng, ngài hỏi:

– Ta nên đối phó cách nào?

Đinh Củng Viên đề nghị:

– Quân Thoát Hoan vỡ trận, rã đám từng mảng, việc thanh toán chúng đã có lực lượng của Hưng Đạo Vương. Binh lực của Toa Đô còn quy củ, nhị hoàng nên tiến quân ra bắc, kết hợp với Thái sư đập tan bọn này, lúc ấy mới thật sự giải quyết xong cuộc chiến.

Lê Văn Hưu gợi ý:

– Để củng cố tinh thần ba quân đồng thời có dịp bái tạ ân đức và uy vũ của liệt tổ Đông A, thần khẩn mong nhị hoàng trên đường hành binh ghé vào Long Hưng cho bầy tôi được theo chí tôn chiêm bái lăng mộ của tiên đế và các vị tiền nhân khai sáng đế nghiệp.

Thượng hoàng vui mừng lắm, ngài nói:

– Ta cũng có ý này, vậy bệ hạ hãy điều động binh lực khởi hành cho sớm.

Vua Nhân Tông sai truyền:

– Cử Tiền điện chỉ huy sứ Lê Mạnh làm chủ tướng, Hồ Đức Trọng làm phó tướng chỉ huy quân Thần Sách và Thiên Chương tiên phong mở đường ra Long Hưng. Sáng mai Hồ Đức Trọng lên đường cấp tốc, qua Thiên Trường giao lệnh cho Lê Mạnh, rồi hai người dẫn quân đến Chiêu Lăng soạn của nghi lễ. Các chư khanh văn thần võ tướng sẽ hộ giá Thượng hoàng và trẫm thống xuất đại quân sáng mắt, Vua tôi trực chỉ lăng miếu của tổ tiên, bái lạy tiền nhân xin các ngài độ trì cho con cháu quét sạch giặc Hồ, thu hồi giang sơn xã tắc của dòng giống tiên rồng.

Quần thân khấu đầu hô vang “Chúng thần tuân chỉ”. Từ vua chí quan vô cùng hồ hởi, niềm tin chiến thắng đang lớn dần từng ngày trong tâm tư của những người đầu lĩnh dân tộc gánh vác sứ mệnh giải phóng giống nòi khỏi họa xâm lăng.

Cho đến thời điểm trung tuần tháng năm năm Ất Dậu (1285), trên chiến trường phía bắc Đại Việt tạo thành cục diện đối kháng theo hình thái tam cường nhị suy. Nhà Trần hiện hữu ba cụm binh lực tại ba khu vực với quy mô hàng chục vạn quân ở mỗi nơi; cụm đông bắc dưới quyền chỉ huy của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đang tổ chức truy kích quân Nguyên tháo chạy về nước; cụm tả hữu sông Hồng Quanh Thăng Long do Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đầu lĩnh kết hợp phòng thủ kinh sư với việc ngăn chặn quân Nguyên từ phía nam tràn qua; cụm cơ động do hai vua thống soái từ Trường Yên hành binh ra bắc để phá thế hợp tung của giặc. Quân Mông Thát có hai cụm quân với lực và thế yếu kém rõ rệt; cụm quân của Thoát Hoan trong tình trạng phân rã đang cố tháo chạy qua ngả đông bắc để về nước; cụm quân của Toa Đô từ Thanh Hóa kéo ra tuy còn khá quy củ nhưng lâm vào hoàn cảnh đói khát và mỏi mệt. Tuy chúng còn một lực lượng khác nhưng không đáng kể, đó là cánh quân của Nạp Tốc Lạt Đinh đang trên đường bôn tẩu về Vân Nam. Rõ ràng lợi thế trên bàn cờ quân sự nghiêng hẳn về phía Đại Việt, báo hiệu ngày toàn thắng đã rất gần.

Ngày mười hai tháng năm, đại quân của hai vua chuẩn bị khởi hành thì có thư khẩn cấp của Trần Quang Khải gửi vào. Thư viết “Toa Đô đã kéo quân ra đến Thiên Quan. Có thể tràn xuống đánh chiếm sông Hồng và bàn kế hợp tung với Thoát Hoan. Thần đã điều một lực lượng mạnh chặn giặc ở Thiên Mạc. Khẩn thiết xin nhị hoàng sớm dẫn quân ra bắc để kết hợp với chúng thần phá vỡ mưu đồ của chúng. Bọn Thoát Hoan bị đánh tơi tả trên đông bắc, theo tin tức từ Hưng Đạo Vương giặc đang tìm đường thoát thân về nước, song cũng nên đề phòng chúng liên kết với Toa Đô quay lại phản công. Nhằm ổn định dân tình và tổ chức phòng thủ lãnh thổ mới thu hồi, thần xét thấy cần đem binh vào Thăng Long. Mong nhị hoàng bảo trọng cho chúng thần yên tâm đánh giặc”.

Các vua giục binh hối hả lên đường, sáng ngày mười lăm tháng năm đã tới địa phận Long Hưng, nhìn từ xa thấy khu lăng mộ của tổ tiên cờ xí rợp trời, biết quân tiên phong đã bày nghi lễ nghênh đón đế vương, Thượng hoàng Thánh Tông xúc động lắm, ngài nói với con trai:

– Lần nào đến Chiêu Lăng lòng trẫm cũng bồi hồi, lần này có hơi khác. Ta thấy trong người ngập đầy cảm xúc rạo rực, phải chăng tiên đế và các vị liệt tổ linh thiêng đang tiếp thêm uy vũ để con cháu của các ngài có thêm tinh thần và sức lực đi đến tận cùng cuộc chiến cam go này.

Nhân Tông đáp:

– Bẩm phụ hoàng, lòng con cũng đang lâng lâng, nhưng không trầm lắng mà rất phấn khích. Hoàng nhi luôn tin tưởng ông nội và tổ tiên phù trợ cho mình vững vàng ý chí đối đầu với bọn Nguyên Mông. Trải qua biết bao trầm luân khổ ải, ngày chiến thắng gần kề mới có dịp bái lạy Chiêu Lăng, chắc các cụ không nỡ trách.

Thánh Tông cười xòa vui vẻ:

– Không trách, không trách đâu. Tổ tiên đều là người đức độ, nội tổ phụ là bậc hiền nhân, lẽ nào lại trách cứ con cháu đang miệt mài chống giặc, giữ cho được bờ cõi của cha ông.

Đoàn xa giá dừng trước khu lăng miếu. Thượng hoàng Trần Thánh Tông đứng đầu, theo sau là hoàng thượng Trần Nhân Tông và Bảo Thánh hoàng hậu, quan tướng lớn bé xếp hàng phía sau, kính cẩn uy nghi tiến vào nội khu. Hàng vạn binh sĩ quỳ gối hai bên, đồng thanh hô vang “Thượng hoàng vạn vạn tuế. Hoàng thượng vạn vạn tuế. Hoàng hậu thiên thiên tuế”. Thánh Tông liếc nhìn thấy mấy pho tượng voi, ngựa đá bị sứt mẻ, ngài thầm đoán đã có chuyện xảy ra, nhưng chưa tiện hỏi. Phía trước nhà thái miếu, hai chiến tướng Lê Mạnh và Hồ Đức Trọng cùng chưởng cơ các thê đội cung kính lạy chào các vua. Lê Mạnh tấu trình:

– Chúng thần Lê Mạnh và Hồ Đức Trọng Phụng chỉ nhị hoàng dẫn quân tiên phong đến Chiêu Lăng soạn sửa nghi lễ. Nay mọi việc đã hoàn tất, cung thỉnh các đấng chí tôn và hoàng hậu vào thái miếu hành lễ.

Thánh Tông nói:

– Các ngươi hãy bình thân.

Ngài cùng bầu đoàn chỉnh trang áo mũ, soạn sửa bước vào chính điện thì thấy lão bộc Trần Tư xõa tóc trắng phơ, bận đồ vải gai, vẫn một mực quỳ gối trước cửa.

Vốn là người hầu thân tín của vua Thái Tông khi ngài lánh tục để tịnh độ ở Phổ Minh tự, sau ngày hoàng đế băng hà, lão xin được lên Long Hưng trông giữ lăng mộ chủ. Cảm kích lòng trung thành của bề tôi đối với tiên đế, Thượng hoàng và Quan gia ủy thác cho Trần Tư đến thái miếu chăm nom hương khói cho mồ mả của tiền nhân Đông A.

Thánh Tông thấy lạ bèn hỏi:

– Lão bộc, sao quỳ mãi vậy, ta cho phép đứng lên rồi mà?

Trần Tư vẫn không chịu đứng dậy, chỉ ngước mặt lên mà rằng:

– Bề tôi đắc tội với tiên đế và liệt tổ liệt tông nhà Trần, xét thấy mình không xứng ngẩng đầu nghênh đón Thượng hoàng và Quan gia, xin được quỳ ở đây chờ các vua hạch tội.

Thánh Tông nói:

– Lão có tội gì, hãy đứng lên trình bày cho rõ?

Nhân Tông cũng khuyên nhủ:

– Thượng hoàng đã cho phép, lão chớ có ngại ngần nữa.

Trần Tư lồm cồm bò dậy, nước mắt dàn dựa trên gò má già nua, nức nở trình tấu:

– Lúc giặc Nguyên tràn ngập bờ cõi, sợ chúng phạm vào chốn linh thiêng, bề tôi cùng với mấy thằng tiểu tử đem chôn hết bảo khí thờ tự. Nhưng vẫn thấy không yên lòng bèn vào làng rủ bà con đến giúp sức di dời các bia đá, tượng đá giấu dưới ao đầm, cái nào không lay chuyển được thì bôi bẩn và chất cỏ rác lên để giặc khỏi nhòm ngó”. Sáng qua các tướng đến cho hay hôm nay nhị hoàng giá đáo, bấy giờ bề tôi được binh sĩ trợ giúp trục vớt bia tượng, đào đồ thờ tự, khiêng về chỗ cũ, lau chùi dọn dẹp cho sạch sẽ phong quang. Kẻ hèn mọn đã tự tiện làm ô uế nơi an nghỉ của tiên đế và các bậc tiền nhân, xúc phạm vào chốn thánh địa thâm nghiêm, tội đáng chết muôn lần, xin các vua thẳng tay trừng trị.

Hết thảy vua quan đều kinh hãi, họ nhìn nhau ngơ ngác trước một sự việc liều lĩnh ngoài sức tưởng tượng, chẳng ai ngờ nổi tác động của chiến tranh len lỏi vào tận nơi chốn giao cảm âm dương, khuấy đảo cả giấc ngủ vĩnh hằng của các vị tổ tông đương triều.

Nhìn nét mặt đớn đau tột độ của người nô bộc, thấy được cả nỗi ăn năn chất chứa trong cặp mắt trĩu nặng sầu muộn, Thánh Tông có phần thương cảm, ngài hỏi để tìm lý do gỡ tội cho lão:

– Giặc Mông Thát có kéo vào đây không?

Lão bộc đáp:

– Khi giặc đến lập trại ở A Lỗ, một lần chúng ập vào tra xét lục lại nhưng chẳng lấy được gì. Một viên tướng hỏi “Có phải đây là nơi chôn cất tổ tiên của nhà Trần không?”. Bề tôi nói “Đúng vậy. Nhưng bỏ hoang phế lâu rồi. Hài cốt và bia mộ dời đi hết. Các ngài thấy đấy, ngoài kia toàn rác rến và cỏ dại, rắn nhiều lắm, lão còn chẳng dám lai vãng”. Bọn Nguyên sợ rắn cắn nên không dám mò ra, chúng tức tối lấy búa đập phá voi, ngựa nhưng đá cứng quá nên chỉ làm sứt mẻ một phần.

Nhân Tông hồ hởi nói:

– Vậy lão bộc đâu có tội. Xét việc làm tuy có phần bất kính nhưng lại che được mắt giặc, bảo toàn được thái miếu và lăng mộ, xin phụ hoàng miễn thứ cho Trần Tư.

Thánh Tông nói:

– Chẳng những không quy kết tội trạng, ta còn muốn ban thưởng nữa kia. Nếu lão không liều mạng di dời bia, tượng và để rác cỏ che lấp thì khu lăng mộ đã bị giặc đào xới, cướp bóc và đập phá tan hoang. Có tấm lụa tốt, ta sẽ thưởng cho lão để may trang phục mới.

Trần Tư lại trào nước mắt mà đa tạ Thượng hoàng và Quan gia. Quần thần thở phào nhẹ nhõm. Trước cách xử trí anh minh của hai vua, ai ấy đều cảm phục sự đối đãi trọn tình vẹn lý của các bậc chí tôn dành cho phận tôi tớ.

Dưới ánh đèn nến lung linh, hương khói mơ màng trầm tưởng, vua tôi quỳ trước điện thờ Phật và linh vị tổ tiên, Thánh Tông cất lời khấn vái:

– Năm Thiệu Bảo thứ bảy, ngày mười lăm tháng năm, con cháu đế nghiệp Đông A và tướng sĩ đương triều tụ hội về lăng miếu Long Hưng khấu đầu lạy Đức Phật và hương hồn tiên đế cùng thất tổ Trần gia; trước là bày tỏ tấm lòng thành kính đối với các bậc tiền nhân đã hun đúc nên ý chí lập thân, bình loạn, trị quốc từ đời này sang đời khác; sau là báo công với tổ tiên về chiến thắng của quân dân Đại Việt chống lại cuộc xâm lăng hung bạo của bọn người phương Bắc và cầu mong chư vị thiêng liêng tiếp tục phù trợ cho nước Nam sớm quét sạch bụi Hồ, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ để muôn dân thụ hưởng thái bình thịnh trị. Xin nhận ba lạy thành tâm của con cháu và các bề tôi trung nghĩa.

Tiếng chuông mõ trầm mặc lan tỏa không gian im ắng, quân thần đồng loạt bái lạy trước điện thờ, âm dương hòa quyện vào tâm thức của đội ngũ những người gánh vác sứ mệnh dẫn dắt dân tộc, giúp họ cảm nhận được sự vững vàng hơn, lớn mạnh hơn khi dấn bước đi nốt đoạn đường chiến tranh phía trước để giành thắng lợi cuối cùng.

Sau nghi lễ ở thái miếu, vua tôi lần lượt dâng hương khói tại lăng tẩm tiên đế và các bậc tiên tổ nhiều đời của nhà Trần.

Trong mấy ngày ngắn ngủi, quân của Toa Đô từ ngả tây tràn xuống, quân của Ô Mã Nhi và Lưu Khuê từ cửa Giao Hải tiến vào sông Hồng rồi tụ lại tại ngã ba Luộc. Lúc ấy, tiền quân và trung quân của các vua Trần hành binh cấp tốc bằng đường bộ đến Long Hưng. Hai bên không đụng độ dọc đường nhưng chỉ ở cách nhau không đầy vài chục dặm. Khi thám báo của ta và địch cùng phát hiện ra đối phương thì vội về cấp báo, bấy giờ các đầu lĩnh Đại Việt lẫn Nguyên Mông đều giật mình chột dạ.

Bột La Hợp Đáp Nhĩ đi rồi, Toa Đô cho dựng trại nghỉ tạm ven bờ Thiên Mạc cách của Luộc chừng năm dặm. Lúc bọn thám mã báo tin có hàng chục vạn quân Trần tụ tập bên bờ sông Luộc, viên Hữu thừa vô cùng hoảng hốt, bàn với Ô Mã Nhi và Lưu Khuê cho nhổ trại, di chuyển lên phía thượng nguồn. Khi chúng chuẩn bị khởi hành thì thấy một chiếc thuyền nhỏ đang gắng sức chèo lại. Quân lính vây bắt được năm gã ngư phủ tráng niên, điệu tới cho chủ tướng tra xét. Thì ra chúng là thám mã của Trấn Nam Vương giả dạng dân thuyền chài. Tên nhóm trưởng trình bày:

– Nhận lệnh của chủ soái, bọn tiểu nhân vượt qua muôn trùng gian khó vào Thanh Hóa truyền tin cho Hữu Thừa tướng quân, khi đến nơi thì ngài đã rồi. Thu thập thông tin, đoán hướng quân di chuyển, bọn tiểu nhân quyết định đuổi theo bằng đường tắt, nhưng mấy con ngựa đã kiệt sức đành phải giết bỏ rồi nửa đêm rình cưới thuyền mới về được đến đây.

Hắn trình lên cho Toa Đô thư lệnh của Thoát Hoan. Đọc xong thư, gã chiến tướng Hữu thừa tái mặt, bèn đuổi sạch bọn tả hữu và lính tráng ra ngoài rồi đưa cho Ô Mã Nhi và Lưu Khuê xem lệnh của Trấn Nam Vương. Lệnh viết “Quân tình bất lợi, quyết định thoái binh. Tiền nhập hậu xuất cựu đạo. Nạp Tốc Lạt Đinh thượng Vân Nam. Toa Đô hội Chiêm Thành.Tình hình quân sự bất lợi, quyết định rút binh. Vào trước ra sau theo đường cũ. Nạp Tốc Lạt Định lên Vân Nam. Toa Đô quay về Chiêm Thành.”

Vạn hộ Lưu Khuê ngơ ngẩn nhìn đồng bọn, rồi tru tréo lên như mụ đàn bà bị cân gian đang ăn vạ giữa chợ:

– Cao chạy xa bay cả rồi mới sai người đi thông báo. Tàn nhẫn quá, khác nào mặc kệ thuộc cấp ở đây gánh nạn. Lỡ chết oan mạng thì Thoát Hoan lấy gì đến cho ta?

Toa Đô kêu rên như kẻ làm thuê bị chủ quyt tiền công:

– Soái trốn đằng soái, tướng chạy đằng tướng. Thua to rồi, hợp tung gì nữa. Lâu nay Trấn Nam Vương toàn chỉ thị dấm dớ, chẳng ngờ hắn còn rất ngu xuẩn. Bảo dẫn quân về Chiêm Thành để cạp đất mà ăn à, hay có ác ý muốn tụi ta chết dần chết mòn vì đói khát. Ta căm Thoát Hoan đến tận xương tủy, cầu trời cho y bị sét đánh cháy thui dọc đường.

Mã Nhi cố ra vẻ bình tĩnh:

– Tức thật đấy, nhưng xin Hữu thừa và Vạn hộ hạ nhiệt, kẻo binh lính nghe được lại hoang mang, rối loạn. Bây giờ phải bàn cách ứng phó với tình thế hiện nay.

Toa Đô nói:

– Chẳng bàn gì nữa, rút quân về là xong. Quay lại Chiêm Thành chỉ có chết, muốn ra biển lại không đủ thuyền, ta quyết định theo sông Hồng ngược lên phía bắc, gặp địch thì cố mà đánh, thấy đói thì đi ăn cướp, trước sau cũng đến được đất Nguyên.

Mã Nhi nói:

– Ngài chưa kinh qua đất này nên không biết, nếu cứ theo sông mà đi thì ngoằn ngoèo xa xôi lắm, rồi chỉ đến được Vân Nam. Theo đường sông tới gần kinh thành bỏ thuyền lên bộ nhằm hướng đông bắc sẽ đến Tư Minh.

Lưu Khuê nói:

– Như vậy là hay nhất. Đề nghị Hữu thừa cho xuất phát ngay, kẻo quân Trần phát hiện ra thì khốn.

Toa Đô hạ lệnh khởi hành, đạo thuyền ngược dòng Thiên Mạc lên hướng bắc, binh mã tiến dọc bờ sông, thủy bộ cả thảy năm vạn quân. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi đi tiên phong, tiếp theo là thuyền của Lưu Khuê, Toa Đô điều quân đường bộ, sai Tổng quản Trương Hiển đoạn hậu.