← Quay lại trang sách

Chương 6 Thất trận ở Hàm Tử, Toa Đô tận số bay đầu
Bôn tẩu khỏi Thiên Mạc, Ô Mã giở trò thoát xác

Lại nói về đạo quân của các vua Trần. Sau buổi hành lễ ở Chiêu Lăng, nhị hoàng chưa kịp nghỉ ngơi đã thấy thám mã cấp báo về một cánh quân Mông Thát đang tập kết ven sông Thiên Mạc, chỉ cách chục dặm đường. Hai vua hoảng hốt, biết chắc là bọn Toa Đô, vội tập hợp tướng lĩnh bàn kế đánh diệt. Nhân Tông nói:

– Giặc chạy từ Thanh Hóa đã ra đến đây, hiện ở cách mười dặm. Bọn Toa Đô đúng là có duyên nợ với ta, trẫm linh cảm lần này chúng phải đền tội. Vậy tướng nào muốn xuất quân trước?

Lê Mạnh và Hồ Đức Trọng cùng bước ra. Mạnh tấu trình:

– Khởi bẩm nhị hoàng, hạ thần và phó tướng Hồ Đức Trọng đốc xuất quân tiên phong, tất nhiên là phải đánh trước. Xin thánh thượng chuẩn thuận.

Nhân Tông cả mừng, bèn truyển:

– Vậy các khanh hãy dẫn binh đội tức thời truy kích giặc. Thượng hoàng và trẫm sẽ dẫn quân tiếp ứng.

Thánh Tông dặn dò:

– Đánh vào hậu quân của giặc buộc chúng phải tháo chạy. Chờ đại quân kéo đến kết hợp với quân của Quang Khải diệt nốt bọn này là hoàn tất đại nghiệp khôi phục giang sơn.

Các tướng tiên phong cáo từ nhị hoàng dẫn quân lên đường. Bấy giờ đã quá ngọ, hai vua điều động binh lực, để lại một ngàn quân hộ vệ hoàng hậu và các đại thần, rồi hối hả dẫn đại quân tiếp ứng cho các tướng tiên phong. Trên đường hành binh, Thượng hoàng hồ hởi lắm, ngài không ngớt lời thán phục “Linh thiêng quá. Vừa hành lễ xong thì nhận được tin có giặc, rõ ràng tiên đế và các tổ phụ báo ứng trò lối cho chúng ta biết giặc ở đâu mà đến vây đánh”.

Binh mã của Toa Đô rồng rắn tháo chạy, khi toán tiên phong đi được hơn một dặm thì bọn hậu quân mới rục rịch lên đường. Quân ta ập đến lúc chúng bắt đầu khởi hành. Phát hiện địch quân tiến công thần tốc, Tổng quản Trương Hiển hò hét binh sĩ buông hành lý cấp thời tuốt gươm, chĩa giáo kháng cự. Lê Mạnh và Hồ Đức Trọng dẫn đầu binh đội xông tới, chia cắt lực lượng của Trương Hiển thành nhiều khúc mà đánh diệt. Hai bên hỗn chiến loạn xạ, gươm bén giáo nhọn mặc sức đâm chém, giặc yếu thế nên bị tiêu diệt quá nửa, bọn Trương Hiển bị bao vây tứ bề, không có cơ may tẩu thoát.

Toa Đô thấy cái đuôi hỗn loạn, định dẫn quân quay đầu giải cứu thì nghe tiếng Lưu Khuê từ dưới sông gào lên:

– Hữu thừa không nên quay lại, quân Trần tầng tầng lớp lớp, đánh không xuể đâu. Hãy rút cho mau.

Gã chiến tướng chợt tỉnh, cái máu ăn thua lạnh tanh trước thực tại vô phương cứu vãn đám hậu quân gặp hạn, Toa Đô thúc quân khẩn cấp hành binh, chạy càng xa càng tốt khỏi cơn hung hiểm đang rỉa thịt “cái đuôi” của y. Ở dưới sông, cả Ô Mã Nhi phía trước lẫn Lưu Khuê phía sau bắt đầu thấm thía cái lẽ sinh tồn “thân ai nấy lo”, chúng hối hả giục binh thuyền gắng sức đi cho mau, bỏ mặc bọn Toa Đô bôn tẩu bằng hai cẳng và bốn vó chạy một hồi là mệt lử.

Bị lọt trong vòng vây của hàng vạn tướng sĩ Đại Việt, bọn Trương Hiển rơi vào tình thế tuyệt vọng. Viên Tổng quản tập hợp tàn quân co cụm lại giữa cánh đồng đã gặt hái, cổ động viên tinh thần binh sĩ “Hãy gắng cầm cự, chờ chủ tướng dẫn quân quay về giải cứu”. Đột nhiên quân Trần ngừng tiến công, lùi đội hình ra xa năm mươi trượng, tuy đông hơn gấp bội nhưng họ có vẻ không muốn đánh tiếp dù vẫn giữ nguyên thế trận bao vây. Trương Hiển kinh ngạc, chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra “Không thấy dấu hiệu xô xát xung quanh, tức là chẳng có quan nào đến giải vây, tại sao họ không đánh nữa? Lạ quá! Lạ quá!”.

Nguyên do lúc hai vua kéo quân đến, trận đánh đã vào hồi kết, chỉ còn một đám quân Nguyên lọt giữa trùng điệp đội ngũ chiến binh nước Nam. Nhìn bãi chiến trường ngập ngụa xác giặc, Nhân Tông vội xuống lệnh ngừng chiến, cho triệu hồi Lê Mạnh và Hồ Đức Trọng. Thượng hoàng Thánh Tông ngạc nhiên, bèn hỏi:

– Quân ta thừa sức triệt hạ đám quân bị bao vây, tại sao bệ hạ không cho đánh tiếp?

Nhân Tông đáp:

– Bẩm phụ hoàng, con muốn giải quyết trận này theo cách khác.

Thánh Tông im lặng, ngài chờ xem người con nổi tiếng nhân từ kết thúc chiến cuộc ra sao.

Lê Mạnh và Đức Trọng đến, Quan gia truyền dạy:

– Các khanh tạm ngưng công kích trong nửa canh giờ, tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh của trẫm.

Lê Mạnh thắc mắc:

– Khởi bẩm nhị hoàng, chúng ta đang thắng, diệt bọn tàn quân Mông Thát cũng không hao tổn bao nhiêu binh lực, tại sao phải ngưng chiến?

Nhân Tông từ tốn nói:

– Tàn sát vô số kẻ thù là chiến công lớn của các khanh, trẫm có lời khen ngợi. Muốn giết sạch đám giặc Nguyên ngoài kia chắc không khó. Nhưng họ cũng là sinh linh, lại đang trong tình thế bại vong nên không còn là lũ lang sói hung bạo mà như bầy chuột nhất đớn hèn, giết chúng chỉ dày thêm nghiệp chướng. Chi bằng kêu gọi đầu hàng. Trẫm muốn nửa canh giờ sau Đức Trọng đi thuyết hàng. Nếu chúng chấp nhận thì tha mạng, bất đắc dĩ mới tính chuyện bắt sống.

Hồ Đức Trọng đề nghị:

– Bệ hạ muốn thuyết hàng thì để thần đi ngay, cần gì phải chờ tới nửa canh giờ.

Nhân Tông định nói thì Thượng hoàng lên tiếng:

– Như vậy là người chưa nắm được ý đồ của hoàng thượng rồi. Quan gia cho rằng bọn Toa Đô biết binh lực ta mạnh nên không đời nào đến giải cứu đám tiểu tết bị vây hãm, ngài để chúng có thời gian thấm thía nỗi tuyệt vọng khi bị chủ tướng bỏ rơi, bấy giờ việc của người sẽ thuận lợi hơn nhiều.

Hai chiến tướng vỡ lẽ, Lê Mạnh thốt lên:

– Nhị hoàng anh minh đã khai mở cái đầu ngu tối của thần.

Hồ Đức Trọng bày tỏ thán phục:

– Tâm đức của thánh thượng cao vời vợi, bây giờ bề tôi đã thấu hiểu đạo lý chỉ nên dùng gươm đao trừ bạo, nếu không cần thiết chớ xuống tay với kẻ suy nhược.

Vua Nhân Tông dặn dò:

– Khanh hãy phân tích hơn thiệt cho chúng hiểu, chấp nhận hàng thì được sống, sau này sẽ tha cho về nước. Trẫm tin bọn họ sẽ nghe theo.

Các tướng cáo từ nhị hoàng để quay về đội ngũ. Nhân Tông nói với vua cha:

– Ý nghĩ trong đầu con mà phụ hoàng cũng biết được, khiến con vô cùng khâm phục.

Thánh Tông cười, bảo rằng:

– Làm cha mà không hiểu được con thì tệ quá.

Hai cha con cười vang. Các túc vệ đứng quanh cũng mỉm cười, vui lây theo niềm hoan hỉ của các đấng quân vương trực tiếp cầm quân ra trận.

Chấp hành mệnh lệnh của Quan gia, chờ qua nửa canh giờ, Phó tướng Hồ Đức Trọng cầm cờ hiệu, dẫn theo hai vệ sĩ không mang khí giới phi ngựa tới trước đám quân cố thủ của Tổng quản Trương Hiển rồi dừng lại cách mười trượng. Giặc lập đội hình chữ “khẩu口”, chĩa giáo dài về phía chiến tướng Đại Việt. Trọng lên tiếng:

– Phụng chỉ thánh ý của hoàng thượng nước Nam, ta đến đây không nhằm mục đích khiêu chiến mà mang tới thông điệp bình yên, nay muốn gặp chỉ huy của các người.

Phía quân Nguyên lao nhao bàn tán, chốc lát đội hình giãn lối, mở đường cho viên Tổng bả cưỡi ngựa tiến ra. Đến cách đại diện quân Trần ba trượng, Hiển dừng ngựa rồi hỏi:

– Các người ở đông quân, bao vây bọn ta ở đây, muốn đánh giết thì cứ việc xông lên, còn yêu cầu gặp gỡ gì nữa?

Trọng ôn tồn đáp:

– Quả đúng vậy, muốn đánh giết thì quá dễ đối với quân ta. Người nhìn xem, bốn phía có hàng chục vạn quân khí thế, trong khi các người chỉ có vài ngàn quân mỏi mệt, nếu ta đánh thì kết cục ra sao tất người thừa biết. Vua của ta là người đức độ, không nỡ tàn sát kẻ thất thế, mà muốn mở cho bọn ngươi một con đường sống.

Hiển nói:

– Có phải muốn ta dẫn quân về hàng không? Tướng sĩ thiên triều xưa nay chỉ biết đánh không biết hàng, đừng nhiều lời vô ích.

Trọng cười vang rồi nói:

– Ngươi đừng lên giọng đao to búa lớn nũa. Ta tới đây chỉ vì tiếc cho sinh mạng chết oan chết uống của các người chứ không phải để nghe diễn thuyết về khí phách của quân sĩ thiên triều.

Hiển đáp:

– Chết vì Đại Nguyên đâu thể nói là chết oan chết uổng.

Trọng nói:

– Nếu nước Nguyên gặp họa xâm lăng, hoàng đế của ngươi hô hào đánh giặc, bị tử trận ngoài sa trường mới là cái chết chính nghĩa. Đi xâm chiếm nước khác rồi bị giết thì hẳn nhiên là cái chết phi nghĩa. Đằng này chủ soái Thoát Hoan bỏ mặc tướng sĩ để tháo chạy về nước, đến lượt chủ tướng Toa Đô của ngươi cũng lo thân mình rồi bỏ rơi binh sĩ ở đây mà không thèm quay lại giải cứu. Bây giờ mà quân ta ào lên đánh giết thì rõ ràng các ngươi chết oan uống vì sự nhu nhược hèn kém của tướng soái chỉ huy.

Hiển vẫn bấu víu vào một điều mà bản thân y còn cảm thấy thất vọng:

– Ta không tin Hữu thừa Toa Đô bỏ rơi binh sĩ.

Trọng lại cười lớn mà rằng:

– Vua ta ban lệnh ngừng chiến để các ngươi có thời gian thấm thía nỗi hận bị chủ tướng thí tốt. Từ lúc dừng đánh đến nay đã qua một canh giờ rồi mà có thấy bóng dáng Toa Đô đâu. Theo tin tức thám báo, viên Hữu thừa đã chạy xa tới bốn, năm chục dặm, đám binh thuyền còn chạy xa hơn nữa. Đừng chờ đợi phí công, Toa Đô không dại gì đem quân quay lại để đối đầu với hơn chục vạn tinh binh của vua ta. Hãy buông giáo quy hàng thì các ngươi vẫn có ngày về với gia đình, vợ con.

Những lời tướng Đại Việt nói ra đều là sự thật, lý trí của Hiển nhận biết điều ấy, chẳng qua con tim cố tình lấp liếm che đậy nỗi đau khi thấy mình chỉ là quân cờ thí mạng của chủ tướng. Hiển hoàn toàn suy sụp, sự tuyệt vọng xâm chiếm cảm xúc của viên Tổng quản, ý nghĩ bị thượng cấp phản bội gặm nhấm tâm can của kẻ có tới mười lăm năm chinh chiến dưới bóng cờ Đại Hãn. Y mềm giọng đưa đẩy:

– Nếu về hàng, lấy gì đảm bảo bọn ta được toàn mạng.

Trọng đáp:

– Muốn giết chóc thì đã giết rồi, việc gì ta phải mất công đứng đây thuyết giải. Vua nước Nam là người độ lượng, tâm của ngài trong sáng như vầng dương, đời nào thất hứa với kẻ thành thật quy hàng. Chẳng những các ngươi toàn mạng, còn được chu cấp cơm ăn áo mặc. Sau này bình yên, ai muốn hồi hương đều cho về nước.

Hiển đề nghị:

– Trong binh sĩ còn có người hiếu chiến, cho ta thêm chút thời gian để thuyết phục họ.

Hồ Đức Trọng chấp nhận, Trương Hiển quay về đội ngũ của y. Hình như việc thuyết phục của viên Tổng quản không mấy khó khăn khi đám binh sĩ phải lựa chọn giữa sống và chết, chốc lát sau Hiển quay ra, thông báo:

– Toàn thể tướng sĩ xin về hàng, mong ngài chuyển thành ý của chúng tôi lên nhà vua.

Trọng vui mừng nói:

– Thế là yên ổn cả rồi, bây giờ ngài cho quân lính xếp hàng giao nộp vũ khí, xong việc thì theo ta đến diện kiến thánh thượng.

Cờ hiệu được phất lên, một thê đội quân Trần tiến tới tiếp nhận sự đầu hàng của binh sĩ Nguyên Mông. Nhân đức của vua Nhân Tông đã cảm hóa một ngàn tám trăm con người, loại họ khỏi cuộc chiến tàn khốc mà không tốn một giọt máu.

Về sau, hai phần ba hàng binh vì nặng tình gia đình nên được thả về nước, số còn lại xin ở lại nước Nam, lấy vợ đẻ con và hòa nhập vào cộng đồng người Việt. Riêng Trương Hiển được vua tin dùng cử làm chưởng cơ hữu vệ Thiên Chương, dưới quyền của Phó tướng Hồ Đức Trọng, khi đã cao tuổi thì làm giáo đầu huấn luyện quân túc vệ cho hoàng thượng.

Binh mã của Toa Đô chạy đến Tây Kết thì kiệt sức, trời đã tắt bóng mà không thấy đối phương truy đuổi, viên Hữu thừa cho dừng chân, lập trại nghỉ qua đêm. Sợ bị tập kích, y cắt cử đến một phần ba quân số luân phiên trực chiến, kiếm củi chụm lại thành từng đống to khắp bốn mặt trại, đốt lửa cháy sáng cả đêm, đề phòng quân Trần bí mật áp sát rồi bất ngờ đánh úp.

Suốt buổi chiều Toa Đô hậm hực khi thấy bọn Ô Mã Nhi và Lưu Khuê giong thuyền mất hút, đã không song hành thủy bộ như giao ước, còn chẳng thèm cử người liên lạc trở về thông báo tình hình. Y tức tối rủa xả không ngớt lời:

– Hai thằng Vạn hộ xảo quyệt dám lờn mặt với ta, chúng chỉ giỏi hùng hổ khi gặp kẻ yếu, lúc nguy cấp thì cao chạy xa bay bỏ mặc quân kị bộ ở phía sau hứng đòn của đối phương. Ta mà tóm được phải băm nát mặt mấy tên khốn mới hả giận. Bằng không, khi về tới Đại Đô ta sẽ tấu với thiên tử tội lỗi của chúng để người trùng phạt cho đáng đời. Phải cho chúng biết tay... biết tay...

Thân xác lử đủ vì tháo chạy bở hơi tai, mồm miệng mỏi nhừ vì chửi rủa liên hồi, viên Hữu thừa nằm rũ rượi trên tấm da dê trong túp lều dụng tạm, cái giọng lèm bèm nhỏ dần rồi tắt hẳn, cũng là lúc tiếng cò cưa xẻ gỗ hòa vang điệp khúc với thanh âm côn trùng trong màn đêm tịch mịch. Biết chủ tướng đã ngủ say, đám thuộc hạ lặng lẽ lui ra ngoài, thằng nào thằng nấy tranh thủ tìm chỗ chợp mắt.

Tới canh hai, bọn lính tuần phát hiện một toán quân tiến đến, ánh sáng từ mấy đống lửa chiếu rọi vào những gương mặt Mông Thát quen thuộc. Chúng nhận ra thê đội của Tổng quản Trương Hiển. Viên chưởng cơ tuần canh chặn đường hỏi:

– Trương Tổng quản sao bây giờ mới xuất hiện?

Hiển đáp uể oải:

– Bọn ta bị quân Trần tập kích, hai bên đánh nhau dữ dội, ta dẫn quân phá vây rồi bị lạc đường, lần mò mãi mới về được tới đây.

Nhìn đám quân mặc sắc phục Nguyên tả tơi bẩn thỉu, tên chưởng cơ không mảy may nghi ngờ, liền nói:

– Ngài dẫn quân trở về là tốt rồi, để tại hạ cho người báo tin với Hữu thừa tướng quân.

Hiển vội xua tay:

– Giữa khuya rồi, chắc Hữu thừa đang ngon giấc. Bọn ta cũng mệt rũ, chỉ muốn tìm một chỗ ngả lưng. Sớm mai ta sẽ trình diện tướng quân.

Đang ở vùng tử địa, theo lệnh của Toa Đô, mỗi ca trực giác huy động tới tám ngàn quân canh giữ, bốn mặt trại đều đầy kín binh sĩ, mỗi nơi hai ngàn quân bị bộ lăm lăm khí giới, sẵn sàng nghênh chiến. Viên chưởng cơ làm hiệu, bọn lính Nguyên giãn ra, mở lối cho đoàn quân của Trương Hiển nhập trại.

Khi đã lọt vào trại Nguyên, hai ngàn binh sĩ mặc sắc phục Mông Thát đồng loạt lấy từ trong người ra một mảnh vải đỏ cột lên cánh tay rồi chia nhau len lỏi vào các dãy lều dùng đuốc thiêu đốt. Lửa cháy rực trời, bọn lính Nguyên đang ngủ mê mệt bừng tỉnh dậy vì sức nóng, nháo nhào chạy ra như ong vỡ tổ. vô số đứa bị lửa thiêu chết, bạn thoát được ra ngoài lại gặp ngay “đồng bọn” vung đao chém giết, nhiều tên gục ngã khi trong đầu vẫn lởn vởn câu hỏi “Tại sao họ giết mình?”.

Lúc lửa rực cháy từ trại Nguyên, quân Trần đồng loạt công kích, hàng ngàn chiến mã do các tướng Lê Mạnh và Hồ Đức Trọng dẫn đầu lướt như bay về phía trại giặc. Hai vua mặc chiến bào, cưỡi ngựa đen tuyền, tuốt gươm đốc quân tiếp ứng phía sau. Bọn tuần canh vô cùng hoảng sợ, thằng nào thằng nấy lo chạy thoát thân. Quân ta ập vào trại, trong ngoài tương hỗ, tung hoành chém giết quân Mông Thát. Giặc vỡ trận, hỗn loạn như bầy muông thú gặp nạn cháy rừng. Bị các chiến binh ta quyết liệt đuổi đánh, bọn lính Nguyên chết và bị thương nằm la liệt suốt nửa dặm mặt đất. Binh sĩ ta nhận diện nhau qua bằng vải đỏ cột trên cánh tay, nên tránh được tổn thất giết nhầm đồng đội.

Lúc trại bị tập kích, Toa Đô còn ngủ mê mệt. Khi lính hầu vào lay dậy, viên Hữu thừa mắt nhắm mắt mở xách đao chạy ra ngoài thì lửa bắt đầu bén sang cái lều của y. Tâm thần hoảng loạn, Toa Đô kêu cứu thuộc hạ. Được tả hữu hộ vệ chạy bộ lên bắc trại, y trấn tĩnh tinh thần gào thét tụ quân phá vây. Thấy quân Trần vây đánh dữ dội, Toa Đô đoạt ngựa của một tên kị mã rồi vung đao xông xáo mở đường, dẫn tàn quân chạy thoát về hướng bắc. Lúc lập trại ở Tây Kết, Toa Đô có hai vạn rưỡi quân, khi chạy khỏi chiến địa, xung quanh y chỉ còn không đầy một vạn binh sĩ tàn tạ và bạc nhược.?️

Sở dĩ quân ta có thể lừa giặc để đưa người lọt vào trại của chúng là nhờ kế của Trương Hiển. Khi diện kiến nhị hoàng, được các vua đối đãi ân cần trọng thị, Hiển cảm phục lắm bèn xin dẫn quân làm nội ứng, tìm cơ hội nổi lửa báo hiệu để quân Trần tiến công. Vua ta biết giặc canh phòng cẩn mật khó tiến đánh bất ngờ nên chấp thuận theo cách của Hiển. Trong hai ngàn “lính Thát” chỉ có năm trăm hàng binh tình nguyện tham gia, số còn lại là binh sĩ Đại Việt mặc sắc phục của giặc trà trộn vào đội hình phản Nguyên.

Bị cướp trại nửa đêm, giữ được cái mạng đã là may mắn lắm, nói gì đến chuyện mang vác theo lương thực vốn đã vô cùng ít ỏi, gần một vạn tướng sĩ Toa Đô lâm vào tình trạng suy sụp thê thảm. Chạy đến Hàm Tử thì tàn quân của y chẳng còn là một binh đoàn đánh trận mà trông như đám ma đói rách bươm vật vờ tìm chỗ ẩn náu lúc ánh trời chạng vạng. Nhưng số phận của chúng đã được định đoạt khi quân của các vua Trần vẫn ráo riết truy kích, không cho địch có thời gian nghỉ ngơi và củng cố đội hình.

Với binh lực hùng mạnh, sau trận tập kích Tây Kết, vua Nhân Tông cho quân Thần Sách của Lê Mạnh và quân Thiên Chương của Hồ Đức Trọng lui binh dưỡng sức, ngài tung đội dự bị gồm quân tả Thiên Thuộc của Phó tướng Hoàng Hữu Thành và hữu Thiên Thuộc của Phó tướng Trần Trí vào trận. Thành và Trí vốn là đội trưởng dưới quyền của Tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh, do lập nhiều công lao xuất sắc nên thăng tiến dần lên chức Phó tướng cai quản các đội tả hữu Thiên Thuộc.

Biết dừng chân dễ gặp họa, song quân tướng đã hoàn toàn kiệt sức buộc viên Hữu thừa chấp nhận để binh sĩ tạm nghỉ một canh giờ trong khu đồn trại hoang tàn ven sông vẫn còn nguyên dấu tích của một trận chiến khốc liệt. Toa Đô hỏi tả hữu:

– Các ngươi có biết đây là đâu không?

Bọn thuộc hạ ngơ ngác, trước nay chúng theo chủ tướng chinh chiến ở phía nam, lần đầu tiên đặt chân đến nơi này. Chợt nhớ tới mấy tên liên lạc của Thoát Hoan, Toa Đô sai quân đi gọi, chỉ còn một đứa sống sót đến trình diện. Được Hữu thừa hỏi về địa danh cái đồn trại tan hoang, hắn đáp:

– Hồi đóng quân ở Thăng Long, tiểu nhân từng được sai truyền tin tới đây. Nơi này là Hàm Tử, bọn người Nam gọi là Hàm Tử quan, quân ta từng lập trại trú đóng. Cuối tháng tư quân Trần tiến đánh, các Vạn hộ Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến thất thủ nên bị Trấn Nam Vương giáng chức làm Thiên hộ.

Toa Đô giật mình, y nói với đám tôi tớ:

– Không được rồi, phải gấp rút rời khỏi đây.

Lũ thuộc hạ hoang mang, có kẻ đánh bạo lên tiếng:

– Quân lính đều rất đói mệt, mới dừng chân được một lát lại phải đi ngay, e rằng binh sĩ không cất bước nổi.

Toa Đô quát lác om sòm:

– Chúng bay chán sống rồi sao? Hàm Tử có nghĩa là ngu thì chết. Đây là điềm gở, bọn Thế Anh, Bang Hiến còn phải bỏ chạy, huống chi mấy người? Không lôi thôi gì nữa, lên đường ngay lập tức, kẻ nào muốn chết thì cứ ở lại, ta không cản.

Đoàn quân lại thất thểu lên đường, chúng vừa cất bước rời khỏi cái trại điêu tàn đã nghe vang lừng tiếng hò reo “Sát Thát”. Quân tướng Toa Đô hồn vía lên mây, cuống cuồng tháo chạy tử tán. Toa Đô vừa thúc ngựa nước đại vừa lèm bèm trong miệng “Phải chi ta biết sớm hơn thì không cho dừng chân ở cái cửa tử. Ngu quá! Ngu quá!”.

Hai binh đội của Hoàng Hữu Thành và Trần Trí áp sát địch quân, dùng cung tên và gươm giáo công kích dữ dội. Ba vạn tinh binh sung sức của nước Nam vây đánh gần một vạn tàn quân Mông Thát kiệt quệ khiến trận chiến chỉ là cuộc tảo phạt một phía. Bọn giặc không còn khả năng chống cự, sức cùng lực tận đến cái thân còn lên không nổi thì nói gì tới việc đánh trả, binh khí của quân ta vung lên là thân giặc đổ gục. Toa Đô và đám kị binh quất ngựa chạy lên hướng bắc, bỏ mặc bọn bộ binh không có cơ may thoát khỏi cuộc đại tàn sát.

Lưới trời lồng lộng. Tướng Hữu Thành và Trần Trí đã ém sẵn năm ngàn tinh binh chặn đường bọn tàn quân bôn tẩu, Toa Đô cùng ba trăm quân bị lọt vào trận địa đón lõng của ta. Như muông thú bị truy đuổi cùng đường, viên Hữu thừa và đám thuộc hạ vùng vẫy phá vây nhưng lực lượng quá thua kém, chủ tớ Mông Thát tuyệt vọng chống chọi rồi bị giết sạch.

Toa Đô chết tốt giữa trận tiền với hàng chục vết thương chí mạng, riêng chiếc đầu của y nằm lăn lóc bên vệ cỏ. Viên đầu lĩnh đạo quân hướng nam là một trong số tướng soái Nguyên Mông gây nhiều tội ác nhất trong cuộc xâm lăng Đại Việt năm Thiệu Bảo thứ bảy, cái chết của hắn âu cũng là một sự trả nợ đích đáng.?️

Sau trận chiến, có viên đội hay chữ đã lấy dao khắc lên thân cây đại thụ tại bến nước ven sông Thiên Mạc đôi câu đối lớn:

Lối máu về Bắc, Toa Đô trắng tay, chân đất đỏ lòm tanh tưởi, nhận quả báo lẽ trời

Thây dài ở Nam, Mông Thát nhục tiếng, hóa ma đói khát nhớp nhơ, trả trong lành cõi sống.

Tương truyền, hàng câu đối trên thân cây cổ thụ tồn tại hơn một trăm năm, khách thập phương qua lại bến sông đều rất vui thích khi được nghe dân làng giải nghĩa những chữ chạm khắc lên thân gỗ. Cho đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược nhà Minh, có ai đó đã đục cải chữ Toa Đô thành chữ Vương Thông, còn chữ Thát Đát thành chữ Tuyên Đức. Chuyện đến tai tướng giặc Vương Thông, viên Tổng binh lồng lộn tức tối đích thân cưỡi thuyền tới tận nơi xem xét rồi sai quân đốn hạ gốc đại thụ bảy, tám trăm tuổi cho hả cơn giận.

Lại nói về bọn Ô Mã Nhi và Lưu Khuê. Khi thấy đạo quân trên bờ của Toa Đô bị quân Trần vây đánh, Ô Mã Nhi ngoảnh mặt làm ngơ. Hắn biết có trời mới cứu được tình thế nguy ngập của Hữu thừa, thôi thì thân ai nấy lo, thà mang tiếng hèn nhát bội tín còn hơn lao đầu vào chỗ chết. Tên Vạn hộ giục binh thuyền tiến nhanh, đi thêm trăm dặm nữa sẽ bỏ thuyền lên bộ hành quân về Bắc, hy vọng bắt kịp đạo quân của chủ soái Thoát Hoan.

Binh thuyền của Lưu Khuê tiến sau Ô Mã Nhi. Thấy đồng bọn không có ý quay đầu giải cứu Toa Đô, Lưu Khuê nghĩ bụng “Chẳng dại. Nó không muốn đánh thì ta cũng tội nợ gì mà đánh. Tẩu vị thượng sách”.

Giặc tính kế trốn chạy, ta bày mưu đánh chặn, cuối cùng cũng dẫn đến một trận đụng độ nảy lửa trên sông. Đội thuyền của Ô Mã Nhi vượt qua cửa Hàm Tử được vài chục dặm đã thấy khúc sông phía trước dày đặc chiến thuyền dàn ngang mặt nước, đôi bờ sông cũng đen kín binh mã bịt lối lên bờ của đối phương. Ô Mã Nhi hoảng hồn, tiến thoái đều bất lợi, y biết trong tay không đủ binh lực để vượt qua đạo thuyền trước mặt, cũng không thể đổ quân lên bờ, quay đầu lại thì vướng binh thuyền của Lưu Khuê đang ở phía sau cách vài dặm, đấy là chưa kể lực lượng quân Trần có thể đã bài binh chặn hậu.

Đường nào cũng hiểm ác, tiến liều thì mười phần chết chắc, lùi binh quay ngược may ra có được cơ hội thoát nạn, các phương án loáng thoáng trong đầu, Ô Mã Nhi chọn cách tháo lui. Y hạ lệnh cho các thuyền bẻ lái quay đầu, tiền hậu hoán đổi. Việc quay mũi uyền trên sông không hề dễ dàng, ngoài khả năng điều khiển của đám thủy binh còn phụ thuộc vào bề rộng của mặt nước. Lòng sông Hồng rộng, không thiếu chỗ để quay thuyền nhưng vẫn tốn thời gian và buộc phải đảo thuyền vào gần bờ. Đây là yếu điểm của việc lui binh, song Ô Mã Nhi không có lựa chọn khác.

Chỉ chờ có thế, quân ta phát lệnh tiến công. Dưới sông, hàng trăm chiến thuyền lớn bé của Minh Hiến Vương Trần Uất và Chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh được lệnh xuất kích, lao thẳng tới đội thuyền Mông Thát còn ngang dọc xoay trở trên mặt nước. Với binh lực áp đảo, các chiến binh Đại Việt dùng câu liêm móc vào thuyền giặc rồi nhảy qua giáp chiến. Trên bờ, lực lượng cung thủ của Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền dùng nỏ cái tên độc nhắm bắn bọn lính phơi mình trên những chiếc thuyền áp gần bờ để đổi hướng.

Mã Nhi hò quân kháng cự, nhưng đối phương đông gấp ba khiến bọn Mông Thát lâm vào tình thế tuyệt vọng. Từng chiếc thuyền bị đánh chiếm, xác giặc phơi đầy trên các sàn thuyền, máu chảy nhuộm đỏ lòm nước sông. Ban đầu Ô Mã Nhi hung hăng đánh trả, khi thấy không còn khả năng cứu vãn, y cùng đám thủ túc thân tín rời thuyền lớn chuyển sang thuyền nhỏ để dễ bề tẩu thoát. Mất bốn phần năm binh đội, viên Vạn hộ nổi tiếng bạo ngược dẫn theo hơn chục chiếc thuyền vượt qua khúc sông chết chóc, xuôi dòng tháo chạy về phía nam. Song quân ta không dễ buông tha cho hắn, Minh Hiến Vương trực tiếp chỉ huy một đội thuyền đuổi đánh ráo riết.

Binh thuyền Lưu Khuê hành quân phía sau Ô Mã Nhi, khi đồng bọn lâm nạn, y nhanh nhảu cho đạo thuyền quay đầu, lui binh chạy trước. Nhưng số phận đoàn thuyền của hắn cũng chẳng may mắn gì lúc phải đối đầu với lực lượng thủy bộ của nhà Trần chốt chặn ở ngã ba Luộc.

Trước khi tiến đánh Toa Đô, vua Nhân Tông đã cử Đỗ Khắc Chung thay mặt ngài triệu tập thuyền bè của dân chúng, dàn quân trên bộ dưới thuyền tại của Luộc đợi giặc chạy qua. Sở dĩ có chuyện này vì các vua dẫn quân ra bắc bằng đường bộ nên không đem theo đạo thuyền, đành dựa vào dân để có phương tiện đánh giặc. Kế sách bịt đường sông bắt nguồn từ việc Nguyễn Thuyền trình tấu với vua:

– Giặc có binh thuyền trên sông, khi đánh thua có thể quay thuyền chạy ra biển, xin bệ hạ dùng thủy quân chặn chúng tại cửa Luộc.

Đinh Củng Viên nói:

– Ta không sẵn thuyền, hoàng thượng nên kêu gọi ngư dân cho mượn.

Lê Văn Hưu nói:

– Ngư thuyền không phải là chiến thuyền, cần thêm quân trên bờ hỗ trợ thủy bình chọn giặc.

Nhân Tông hỏi:

– Ai có thể đảm đương việc này?

Đinh Củng Viên đề nghị:

– Nên cử Đỗ Khắc Chung, tuy không phải là tướng nhưng y vốn người sông nước nên rành việc thuyền, cộng thêm bản tính trí dũng tất sẽ làm tốt trọng trách.

Vua chấp nhận, cho gọi Khắc Chung đến giao việc, đồng thời sai Nguyễn Thuyên làm giám quản hỗ trợ và đôn đốc công vụ của Chung. Chỉ trong một ngày, Chung và Thuyên huy động được hơn trăm thuyền cá, lĩnh năm ngàn thủy binh và một vạn bộ binh chốt sống cản giặc. Chưa từng cầm quân đánh trận, song Chung là người túc trí lại được Nguyễn Thuyên giúp mưu, họ quyết định dừng đội thuyền chặn ngang dòng sông, nếu thuyền giặc muốn vượt qua tất phải trả giá đắt.

Quân ta xếp thuyền hàng đối băng qua sông rồi cột chặt với nhau tạo thành một dải chiến lũy trên mặt nước. Thủy binh dàn trận cung nỏ, câu liêm và gươm giáo trên thuyền. Bộ binh bày quân hai đầu lũy để chặn giặc đổ bộ, lại có thể kéo xuống lũy tiếp ứng cho thủy quân khi cần thiết. Thế trận hiểm hóc, đoàn thuyền giặc muốn vượt qua cần phá được lũy, tất chúng phải hy sinh nhiều chiến thuyền làm mũi công kích đột khẩu.

Bọn Lưu Khuê xuôi thuyền xuống nam hòng tháo chạy ra biển bất ngờ gặp chướng ngại vật giăng ngang mặt sông, tiến lùi đều nguy cấp, buộc viên Vạn hộ phải đưa ra quyết định kịp thời. Y tung những chiến thuyền to khỏe nhất dàn hàng ngang dùng mũi đâm thẳng vào chiến lũy. Do lũy của ta gồm hai lớp thuyền cột chặt vào nhau nên cú húc đầu tiên chỉ làm vỡ một số mạn thuyền mà không thể gãy đổ cái lũy bồng bềnh dài dặc. Không mở được cửa qua sông, Lưu Khuê dẫn quân nhảy sang lũy giáp chiến hàng chặt đứt các dây chằng. Khắc Chung hò quân tiếp chiến, hai bên đánh nhau dữ dội, máu thịt tung tóe trên thuyền dưới nước.

Thấy thuyền giặc ùn tắc dưới sông, Nguyễn Thuyên phất cờ hiệu cho cung thủ bắn tên cột bùi nhùi lửa thiêu rụi nhiều chiến thuyền của chúng. Bọn Thát nhảy xuống sông tránh lửa, phần đông bị nước cuốn trôi, một số tên bơi được vào bờ liền bị tóm sống. Cuối cùng giặc mở được cửa gần bờ tả ngạn, nhưng thuyền Mông Thát tranh chấp vượt qua nên vướng víu vào nhau làm nghẽn lối, chỉ có dăm chiếc thoát nạn. Thấy tình thế khẩn cấp, Nguyễn Thuyên tung bộ binh xuống bịt lỗ hổng. Lũy thuyền của ta như một chiếc cầu phao bắc ngang sông nên việc điều phối lực lượng ứng cứu vô cùng thuận tiện, chẳng mấy chốc các chiến binh Đại Việt đã ào tới nhảy qua thuyền giặc rồi lăn xả vào cuộc chém giết. Lửa nước, binh khí, gỗ ván với thân xác đối chọi nhau trên một khúc sông hiểm yếu, tạo ra vô vàn thanh âm rùng mình và một cảnh tượng hỗn mang khốc liệt mà kẻ duy nhất được lợi là lũ thủy sinh nghiễm nhiên hưởng thụ một bữa đại tiệc máu thịt rẻ rúng của bầy người.

Lợi dụng quân ta dồn sang phía tả ngạn, Lưu Khuê chỉ huy hai mươi chiến thuyền đột phá đoạn lũy hữu ngạn. Khắc Chung dẫn quân xông pha đánh trả. Tuy chẳng phải là tay cung kiếm thiện nghệ nhưng bây giờ Chung mới ngoài ba mươi, đang ở độ tuổi sung sức nhất, nên đường đao của viên quan văn can trường cũng hạ thủ được mấy tên Mông Thát ốm đói. Giặc liều chết mở cửa, buộc Chung phải giãn đội hình phòng thủ. Chớp thời cơ, Lưu Khuê cho quân chặt đứt dây chằng, dùng mũi thuyền húc vào lũy, mở đường vượt qua.?️

Kịp lúc Ô Mã Nhi dẫn tàn quân chạy tới, y hối hả theo đuổi bọn Lưu Khuê vượt cửa tử đua thuyền vào sông Luộc, cố trốn ra biển để tìm đường về Nguyên. Non vạn quân và gần trăm chiếc thuyền của Khuê bị tiêu diệt ở cửa Luộc, chỉ không đầy ba trăm tên giặc theo chủ tướng vượt thoát trên bảy chiếc thuyền rách nát. Bọn Ô Mã Nhi còn thê thảm hơn, do bị đội thuyền của Minh Hiến Vương Trần Uất đuổi rát, khi vượt qua lũy thì quá nửa số thuyền bị đánh chặn, y ngoảnh đầu lại chỉ thấy bốn chiếc theo kịp.

Quyết diệt cho được tàn quân Mông Thát, Trần Uất đưa thuyền qua lũy tiếp tục truy kích giặc. Nghe Uất thông báo Ô Mã Nhi vừa chạy qua, cho rằng mình có duyên nợ với tên tướng Nguyên này, Khắc Chung đề nghị Nguyễn Thuyên giải quyết bài chiến trường, còn ông dẫn theo năm trăm quân cưỡi mười thuyền tốt tham gia đuổi diệt tên Vạn hộ.

Sông Luộc hẹp, có thể từ trên bờ dùng cung nỏ diệt giặc, Nguyễn Thuyên nhanh trí cử một đội kị binh phi ngựa dọc bờ sông bám theo thuyền Nguyên, bắn tên hạ sát bọn lính dưới thuyền. Thấy tả hữu xung quanh bị bắn trúng quằn quại trên sàn, Lưu Khuê hoảng sợ quá bèn nằm bẹp xuống, dùng xác chết hứng tên của đối phương. Ở phía sau, thuyền của ta đuổi kịp ba thuyền của Ô Mã Nhi, Trần Uất cho quân tung câu liêm kéo lại rồi nhảy sang đánh giết. Những kẻ ngoan cố kháng cự đều bị giết sạch, tên nào buông khí giới thì được tha mạng. Nhìn quanh chỉ còn sót thuyền của viên tiểu tướng Tiểu Lý, Ô Mã Nhi nói vọng sang:

– Ngươi hãy vì ta mà đánh lạc hướng kẻ địch.

Lý đáp:

– Tôi sẽ níu chân chúng, ngài gắng đưa thuyền ra biển.

Mã Nhi gật đầu cảm kích mà rằng:

– Ta sẽ nhớ ơn ngươi suốt đời.

Y sai thủ túc quẳng sang thuyền của Lý lá cờ hiệu có thêu chữ “Vạn hộ Ô Mã Nhi”. Tiểu Lý cho quân trương cờ lên rồi hãm thuyền chậm lại. Bấy giờ quân của Trần Uất còn mải đánh chiếm ba chiếc thuyền Mông Thát tụt hậu, Đỗ Khắc Chung không tham dự mà cho đội thuyền vượt qua, tiếp tục truy kích thuyền giặc ở phía trước.

Phát hiện thấy chiếc thuyền cắm cờ hiệu của Ô Mã Nhi, Khắc Chung giục quân bám đuổi gắt gao, khi đến gần thì hình thành thế bao vây áp thuyền Nguyên cập bờ hòng bắt sống tướng giặc. Đám quân trên thuyền buông khí giới đầu hàng, Tiểu Lý định lấy dao đâm vào họng tự sát liền bị Chung đoạt dao rồi sai binh sĩ trói nghiến. Lúc ấy Khắc Chung mới vỡ lẽ Ô Mã Nhi đã bày trò thoát xác, lợi dụng lòng trung thành của thuộc hạ để cứu mạng mình. Biết y đã cao chạy xa bay, quân Trần ngừng truy đuổi, dẫn bọn tù binh quay về ngã ba Luộc. Khi Tiểu Lý bị giải tới vua ta, nghe kể về thái độ trung thành của y, Nhân Tông có phần cảm kích nên tha mạng và đối đãi tử tế.

Hai viên Vạn hộ Ô Mã Nhi và Lưu Khuê toàn mạng, vượt biển về Đại Nguyên trên mấy chiếc thuyền rách nát cùng với một nhúm quân tàn tạ. Chúng sống sót nhờ các trò trí trá giảo hoạt, nhưng lại được hoàng đế Hốt Tất Liệt đánh giá là dũng tướng năng nổ và tài trí. Ba năm sau (1288), nhà Nguyên lại xua quân xâm lăng Đại Việt, trong khi phần lớn tướng lĩnh tham gia cuộc chiến năm Thiệu Bảo đều bị loại, riêng Ô Mã Nhi và Lưu Khuê được tín nhiệm cử giữ các chức vụ cao trong đoàn quân chinh phạt nước Nam lần thứ ba.

Đoàn quân của Nạp Tốc Lạt Đinh bôn tẩu qua vùng tây bắc để trở về Vân Nam tưởng chừng nhờ vào sự khôn ngoan của chủ tướng nên thoát nạn, ai dè cũng long đong không kém cuộc tháo chạy của các đạo quân thất trận khác. Khởi hành từ Thăng Long, viện Bình chương dẫn binh đoàn chạy lên trung du để hội quân với Vạn hộ Tôn Hựu ở Bạch Hạc, trên đường đi chúng không gặp trở ngại gì, do nhà Trần không bố trí lực lượng đánh chặn. Nhưng trong lãnh thổ Đại Việt còn có các đội ngũ dân binh, mọi chuyện đều có thể xảy ra, cạm bẫy còn ở phía trước.

Bọn thám báo của Nạp Tốc tìm được chỗ trú đóng của Tôn Hựu, vừa lúc mấy xe lương đem theo đã gần cạn, gã Bình chương mừng lắm, y cho rằng “Do ăn ở phúc đức nên được cao xanh phù trợ”. Tôn Hựu ra tận cửa trại đón Nạp Tốc Lạt Đinh, mau miệng tầng bốc chủ tướng:

– Đội ơn đại nhân bày mưu giải nạn nên tại hạ còn được đứng đây mà chờ đón ngài. Nghe đồn quân của Trấn Nam Vương bị đánh tan tác, nếu theo họ qua ngả đông bắc thì chắc gì toàn mạng.

Nạp Tốc phổng mũi, nói rằng:

– Ta đã thấy trước điều này. Trần gia tất dồn binh lực đánh đại quân rút về, cánh quân Vân Nam không đáng kể, lại âm thầm qua cửa ngách nên tránh được họa sát thân. Đường về còn xa, phải đủ cái ăn mới có sức mà đi, vậy tình hình lương thực của người thế nào?

Tôn Hựu cười lớn, rồi chỉ đàn trâu đang chăn thả trên đồi, khoe khoang với chủ tướng:

– Đại nhân chớ lo, lương thực dồi dào lắm. Biết ngài dẫn quân lên sẽ thêm nhiều miệng ăn nên tại hạ cho lính đi trưng thu lương thực khắp nơi. Ban đầu bọn dân đen cự tuyệt giao nộp, tại hạ sai cứa cổ mấy đứa rồi đốt sạch nhà trong bản, chúng sợ quá có bao nhiêu lương thực cất giấu liền đem ra cả, trâu thả ở đâu cũng phải dắt về đây. Thế là trong mấy ngày, khi quân đến các bản làng khác, chẳng cần tra xét chúng đều tự nguyện nộp ngay.

Nạp Tốc khen thuộc tướng:

– Biết lo liệu chu đáo như vậy quả là tài giỏi, ta rất vui có người trợ thủ. Giờ có thể yên tâm cho quân nghỉ ngơi vài ngày, sáng mắt khởi hành về nước.

Qua ngày hôm sau, Tôn Hựu bàn bạc với chủ tướng:

– Khi vào nước Nam chúng ta tiến quân dọc sông Thao, nay thoái về qua ngả ấy thì phải quay sang hướng tây bắc, mất thêm mấy ngày đường. Từ đây nếu theo sông Lô mà đi thì quãng đường ngắn hơn nhiều.

Nạp Tốc Lạt Đinh chần chừ chưa quyết:

– Đường này chưa đi qua, không hiểu có những trở ngại gì? Chưa điều nghiên cẩn trọng thì chớ nên liều lĩnh.

Tôn Hựu đáp:

– Ngài lo nghĩ cũng phải. Nhưng cách đây mấy ngày tại hạ đã cho thám báo dò đường rồi. Chúng bảo cứ đi men theo sông Lô, khi sông ngoặt sang hướng khác thì vẫn nhắm hướng bắc đi tiếp sẽ gặp lại con sông ở thượng nguồn. Nếu hành binh thuận lợi chỉ sáu, bảy ngày là tới biên giới.

Nạp Tốc nói:

– Người đã thấy hợp lý thì ta cũng nghe theo. Mong sao mọi sự đều như ý.