← Quay lại trang sách

Chương 1 Tháng Tư năm 1942

Tàu rầm rập đưa Lale qua những vùng quê; anh im lặng, đầu ngẩng cao. Chàng trai hai mươi tư tuổi biết có bắt chuyện với người đàn ông đứng bên cạnh cứ thỉnh thoảng lại gục đầu vào vai anh thì cũng chẳng ích gì; Lale chẳng màng đẩy anh ta ra. Anh cũng chỉ là một trong vô vàn chàng trai bị nhồi nhét lên những toa tàu thiết kế để vận chuyển súc vật. Chẳng hề hay biết mình đang được đưa đi đâu, Lale quyết định diện bộ đồ quen thuộc: com-lê, áo sơ-mi trắng và cà-vạt ủi thẳng thớm. Lúc nào cũng phải bảnh bao.

Anh cố gắng nhẩm tính kích thước cái không gian giam hãm mình. Toa tàu rộng chừng hai mét rưỡi. Nhưng anh chẳng thể thấy được đầu kia để ước lượng chiều dài của nó. Anh định đếm số người cùng mình đi chuyến này. Nhưng trước ngần ấy những cái đầu lô nhô, cuối cùng anh đành chịu thua. Anh cũng chẳng rõ có bao nhiêu toa tàu. Lưng và chân anh đau nhức. Mặt thì ngứa ngáy. Đám râu mọc lởm chởm nhắc anh nhớ anh đã không tắm gội hay cạo râu từ khi lên tàu cách đây hai ngày. Anh có cảm giác càng lúc càng không còn là mình nữa.

Khi cánh đàn ông cố gắng lôi kéo anh trò chuyện, anh trả lời bằng những lời động viên, cố gắng biến nỗi sợ của họ thành niềm hy vọng. Dù có đứng trong đống phân cũng đừng để chết chìm trong đó. Dăm ba người rì rầm sỉ nhục anh vì bề ngoài và kiểu cách của anh. Buộc tội anh là thuộc giới thượng lưu. “Giờ thì chống mắt mà xem điều đó đưa anh đến đâu.” Anh cố gắng bỏ ngoài tai những lời nói đó và đem nụ cười đáp trả mọi ánh mắt giận dữ. Mình lừa phỉnh được ai cơ chứ? Mình cũng sợ hãi như tất cả những người khác thôi.

Một chàng trai nhìn Lale chằm chằm rồi chen lấn qua đám người hỗn độn để tiến về phía anh. Mấy gã đàn ông xô đẩy cậu khi cậu đi băng qua họ. Không gian riêng tư chỉ có được khi ta tự tạo ra nó.

“Sao anh bình tĩnh thế nhỉ?” chàng trai hỏi. “Chúng nó có súng. Bọn khốn đó chĩa súng về phía chúng ta và ép chúng ta lên cái… cái tàu chở súc vật này.”

Lale mỉm cười nhìn cậu ta. “Tôi cũng có ngờ đâu.”

“Anh nghĩ chúng sẽ đưa ta đi đâu?”

“Quan trọng gì chứ. Chỉ cần nhớ rằng chúng ta ở đây là để gia đình mình ở nhà được an toàn.”

“Nhưng ngộ nhỡ…?”

“Đừng ngộ nhỡ gì cả. Tôi không biết, cậu không biết, có ai biết đâu chứ. Người ta bảo gì thì chúng ta cứ làm theo thôi.”

“Hay là chúng ta thử tấn công chúng khi đến nơi vì ta đông hơn chúng mà?” Khuôn mặt nhợt nhạt của chàng trai tái đi, vẻ vừa hung hăng vừa bối rối. Hai bàn tay nắm lại trước mặt cậu trông thật thảm hại.

“Chúng ta có nắm đấm, họ có súng – cậu nghĩ ai sẽ thắng đây?”

Chàng trai lại lặng yên. Vai cậu ta kề vào ngực Lale và Lale có thể ngửi được mùi mồ hôi và dầu nhờn trên tóc cậu. Đôi cánh tay cậu buông thõng yếu ớt. “Em là Aron,” cậu bảo.

“Lale.”

Những người xung quanh cũng hóng hớt cuộc nói chuyện của hai người, họ ngỏng đầu về phía hai chàng trai rồi sau đó lại trở về với cơn mơ màng câm lặng, đắm chìm trong suy nghĩ riêng. Tất cả họ đều chung nhau nỗi sợ hãi. Và tuổi trẻ. Và tôn giáo. Lale cố không nghĩ đến các giả thiết về những gì có lẽ đang chờ phía trước. Người ta bảo anh sẽ được đưa đi làm việc cho người Đức, và anh cũng dự định làm thế. Anh nghĩ về gia đình mình ở quê nhà. Đang bình an. Anh đã hy sinh bản thân, không hề hối tiếc. Nếu có thể làm lại, anh sẽ vẫn làm thế để gia đình thương yêu của mình được ở nhà, bên nhau.

Dường như cứ mỗi giờ đồng hồ trôi qua, lại có người hỏi anh những câu tương tự. Mệt mỏi, Lale bắt đầu trả lời, “Cứ đợi xem.” Anh không hiểu tại sao người ta lại cứ hỏi anh. Anh có kiến thức chuyên môn gì đâu chứ. Ừ, thì anh mặc com-lê và thắt cà-vạt, nhưng đó là khác biệt duy nhất nhìn thấy rõ giữa anh và người đứng cạnh. Tất cả chúng ta đều đang ở trên cùng một con thuyền nhơ nhớp.

Trong toa tàu chật chội đó, họ không tài nào ngồi nổi chứ nói gì được nằm. Hai cái xô được dùng làm chỗ đi vệ sinh. Lúc hai xô đã đầy, đám đàn ông ẩu đả vì cố tránh xa mùi hôi thối. Hai cái xô bị đánh đổ, những thứ bên trong tràn hết ra ngoài. Lale giữ chặt va-li, mong rằng với số tiền và quần áo mang theo, anh có thể chuộc mình ra khỏi nơi họ đang đến dẫu đó có là nơi nào đi chăng nữa, hay chí ít là đổi lấy cho mình một công việc an toàn. Có lẽ sẽ có công việc cần đến vốn ngôn ngữ của mình.

Anh lấy làm may mắn vì đã tìm được một góc ở sát vách toa tàu. Những khe hở giữa các thanh gỗ mỏng cho phép anh loáng thoáng nhìn thấy miền quê nơi tàu đi qua. Những ngụm không khí trong lành anh hớp được giúp xoa dịu cơn buồn nôn đang trào dâng. Tuy đang mùa xuân nhưng mưa nặng hạt và mây sầm sì. Thỉnh thoảng họ đi ngang qua những cánh đồng rực sáng hoa xuân và Lale mỉm cười một mình. Hoa. Hồi nhỏ, anh được mẹ dạy rằng phụ nữ yêu hoa. Lúc nào anh mới lại được tặng hoa cho một cô gái đây? Anh say sưa ngắm hoa và những màu sắc rạng ngời đang lóe lên trước mắt, những cánh đồng hoa anh túc nhảy múa trong gió thành một khối màu đỏ tươi. Anh thề với chính mình rằng nếu lần tới tặng hoa cho ai thì anh sẽ tự tay hái. Anh không hề biết hóa ra hoa có thể mọc hoang với số lượng lớn đến thế. Mẹ anh cũng trồng vài cây trong vườn nhưng bà chẳng bao giờ hái đem vào nhà. Anh bắt đầu liệt kê trong đầu một danh sách những việc cần làm. “Khi mình được về nhà…”

Lại một cuộc xô xát khác nổ ra. Chen lấn. La hét. Lale không nhìn thấy chuyện gì xảy ra nhưng anh cảm nhận được những thân người đang quằn quại xô đẩy nhau. Rồi im lặng bao trùm. Và giữa bầu không khí u ám, ai đó thốt lên, “Mày giết nó rồi.”

“Thằng khốn may mắn thật,” có người lẩm bẩm.

Thằng khốn tội nghiệp.

Cuộc đời mình không thể kết thúc trong cái hố phân này được.

❖ ❖ ❖

Chuyến đi có nhiều trạm dừng, có trạm vài phút, có trạm vài giờ, luôn là ở ngoài khu vực thành thị hay làng quê. Đôi khi Lale cũng loáng thoáng nhìn thấy tên ga khi đoàn tàu lao qua: Zwardoń, Dziedzice, và một lát sau là Dankowice, cho biết chắc chắn họ đã ở trong địa phận Ba Lan. Câu hỏi không lời đáp: Khi nào tàu sẽ dừng? Hầu hết thời gian trong chuyến đi này, Lale suy ngẫm về cuộc sống của mình ở Bratislava: công việc của anh, căn hộ và bạn bè của anh – đặc biệt là các bạn gái.

Tàu lại dừng bánh. Trời tối đen như mực; mây hoàn toàn che khuất trăng sao. Phải chăng bóng tối là điềm báo về tương lai của chính họ? Mọi sự vẫn thế. Những thứ mình có thể trông thấy, cảm nhận, nghe và ngửi được ngay lúc này. Anh chỉ thấy những người đàn ông có cảnh ngộ giống mình, đều còn trẻ và đang đi đến một nơi vô định. Anh nghe thấy tiếng gầm réo của những cái bụng rỗng không và tiếng khò khè của những khí quản khô rát. Anh ngửi thấy mùi phân tiểu và cả mùi hôi cơ thể lâu ngày chưa tắm. Bọn đàn ông lợi dụng khi tàu không lắc lư để nghỉ ngơi mà không cần phải xô đẩy giành chỗ. Giờ không chỉ có một cái đầu đang dựa vào Lale.

Tiếng ồn ào vọng lại từ mấy toa tàu phía sau, càng lúc càng gần. Mấy gã ở đó hết chịu đựng nổi nên định bỏ trốn. Tiếng người nện mình vào vách toa tàu và tiếng loảng xoảng chắc của mấy cái xô phân làm mọi người náo động. Chẳng bao lâu sau toa nào cũng bùng nổ, bị tấn công từ bên trong.

“Giúp bọn tao còn không thì tránh ra,” một gã to con hét vào mặt Lale trong lúc ném mình vào vách toa tàu.

“Đừng phí sức nữa,” Lale bảo. “Nếu những bức tường này mà có thể bị phá thì bọn trâu bò đã làm được rồi, anh không nghĩ thế sao?”

Vài người ngừng lại, giận dữ quay về phía anh.

Họ nghiền ngẫm lời anh. Con tàu vẫn lắc lư lao về phía trước. Có thể đám quản lý cho rằng chuyển động sẽ ngăn được bạo động. Người trên các toa tàu đã yên. Lale nhắm mắt lại.

❖ ❖ ❖

Lale đã trở về nhà cha mẹ ở Krompachy, Slovakia, sau khi có tin người Do Thái ở các thị trấn nhỏ sẽ bị tập trung lại và chuyển đến làm việc cho quân Đức. Anh biết người Do Thái không được làm việc nữa và tài sản kinh doanh của họ đã bị tịch thu hết. Gần bốn tuần qua anh chỉ quanh quẩn trong nhà giúp cha và anh trai sửa đồ, đóng giường mới cho mấy đứa cháu trai đã lớn không còn nằm vừa trong cũi nữa. Em gái anh là người duy nhất trong nhà có thể kiếm được tiền nhờ may vá. Em phải bí mật đi làm trước bình minh và về khi trời đã tối. Bà chủ của em phải đánh liều giữ chân cô thợ giỏi nhất của mình.

Một tối nọ em gái anh về nhà mang theo một tấm áp phích bà chủ bảo em treo lên cửa kính ở cửa hàng. Tờ áp phích thông báo mỗi gia đình Do Thái phải nộp một đứa con từ mười tám tuổi trở lên để đi làm việc cho chính phủ Đức. Những lời xì xào, đồn đại về chuyện từng xảy ra ở các thị trấn khác cuối cùng cũng đến được Krompachy. Có vẻ như chính phủ Slovakia đã đồng thuận với Hitler, trao cho hắn bất kỳ thứ gì hắn muốn. Tấm áp phích cũng cảnh báo bằng chữ in đậm, rằng nếu gia đình Do Thái nào có con ở độ tuổi đó mà không giao nộp thì cả nhà sẽ bị đưa tới trại tập trung. Max, anh trai Lale, bảo ngay rằng anh sẽ đi, nhưng Lale không nghe theo. Max còn vợ và hai con nhỏ. Gia đình cần anh.

Lale trình diện tại văn phòng chính quyền địa phương ở Krompachy và tình nguyện được chuyển đi. Mấy viên chức giải quyết vụ này vốn là bạn anh – họ học cùng và biết về gia cảnh nhau. Họ bảo Lale đi Praha gặp các nhà chức trách liên quan rồi đợi hướng dẫn tiếp theo.

❖ ❖ ❖

Sau hai ngày, đoàn tàu chuyên chở súc vật lại dừng. Lần này, bên ngoài rất huyên náo. Chó sủa, những mệnh lệnh ầm ĩ bằng tiếng Đức, then mở, cửa toa tàu mở tung.

“Xuống tàu, để tư trang lại!” mấy tên lính quát. “Nhanh, nhanh lên, rảo cẳng đi! Để đồ đạc xuống đất!” Lale ở tít cuối toa tàu nên bước ra sau cùng. Tới cửa ra vào, anh thấy xác anh chàng đã chết trong vụ ẩu đả. Thoáng nhắm mắt, anh cầu nguyện ngắn gọn cho người quá cố. Rồi anh rời toa tàu, nhưng vẫn mang theo mùi hôi hám – ám trên áo quần anh, da thịt anh, từng tế bào cơ thể anh. Khuỵu gối đáp đất, anh tì bàn tay lên lớp sỏi và giữ nguyên tư thế lom khom một chốc. Thở hổn hển. Kiệt sức. Khát khô cả cổ. Chậm rãi đứng dậy, anh nhìn quanh hàng trăm con người hoảng hốt đang cố hiểu khung cảnh trước mắt họ. Chó táp, cắn ai đi chậm chạp. Nhiều người loạng choạng, cơ chân không chịu hoạt động sau nhiều ngày không được dùng đến. Va-li, những gói sách, những tài sản xoàng xĩnh bị giật khỏi tay những ai không sẵn lòng giao nộp hay những người đơn giản là không hiểu mệnh lệnh. Họ lãnh ngay báng súng hay nắm đấm. Lale quan sát mấy gã đàn ông mặc đồng phục. Màu đen và dữ tợn. Biểu tượng tia chớp đôi trên cổ áo khoác của chúng cho Lale biết anh đang đối mặt với ai. Bọn SS. Trong hoàn cảnh khác chắc anh đã chiêm ngưỡng áo quần may khéo, vải vóc thượng hạng, đường cắt sắc sảo.

Anh đặt hành lý xuống đất. Sau này sao chúng biết được đâu là hành lý của mình nhỉ? Anh rùng mình nhận ra mình khó có khả năng thấy lại cái va-li hay đồ đạc bên trong. Anh đặt tay lên ngực, lên số tiền anh giấu trong túi áo vét. Anh nhìn lên trời, hít thở không khí trong lành, mát mẻ, tự nhủ rằng ít nhất anh đang được ở ngoài trời.

Một tiếng súng nổ khiến Lale giật bắn mình. Trước mặt anh, một tên sĩ quan SS đứng chĩa vũ khí lên trời. “Bước!” Lale liếc nhìn toa tàu giờ đã trống hoác. Áo quần bay tứ phía, sách vở lật tung. Mấy cái xe tải trờ tới và một đám nhóc trèo xuống. Chúng chộp lấy những món tư trang bị bỏ lại, ném lên xe tải. Một cảm giác nặng trĩu đè lên gáy Lale. Con xin lỗi mẹ, bọn chúng lấy sách của mẹ rồi.

Đám đàn ông lê bước về phía tòa nhà gạch hồng bẩn thỉu với những khung cửa kính lớn lù lù phía trước. Cây cối mọc dọc lối vào, chi chít chồi non mùa xuân. Khi đi qua cánh cổng sắt mở rộng, Lale nhìn lên dòng chữ tiếng Đức gò bằng kim loại:

ARBEIT MACHT FREI

Lao động mang lại tự do.

Anh không biết mình đang ở đâu, hay sẽ làm công việc gì, nhưng anh cảm thấy cái ý tưởng rằng công việc ấy sẽ mang lại tự do cho anh quả là một trò đùa chướng tai gai mắt.

Quân SS, súng trường, chó săn, tư trang bị lấy mất – trước đây anh không thể tưởng tượng nổi chuyện này.

“Chúng ta đang ở đâu?”

Lale quay qua nhìn Aron đứng bên cạnh.

“Ở cuối hàng chứ còn đâu nữa.”

Aron xị mặt xuống.

“Cứ làm theo lời họ thì sẽ ổn thôi.” Lale biết câu anh vừa nói không mấy thuyết phục. Anh thoáng mỉm cười với Aron và cũng được đáp lại tương tự. Lale tự nhủ phải làm theo lời khuyên của chính mình: Bảo gì làm nấy. Và luôn luôn quan sát.

Khi đã vào trong trại, mọi người bị lùa lại xếp thành những hàng thẳng. Ở đầu hàng của Lale là một bạn tù mặt bầm giập, ngồi sau một cái bàn nhỏ. Anh ta mặc áo khoác và quần dài sọc xanh dương trắng, trên ngực đeo một hình tam giác màu xanh lá cây. Một sĩ quan SS đứng đằng sau anh ta, lăm lăm súng trường.

Mây vần vũ. Tiếng sấm ì ầm xa xa. Mọi người chờ đợi.

Một sĩ quan cấp cao có đội lính hộ tống đi đến trước mặt cả nhóm. Ông ta có quai hàm vuông, môi mỏng, đôi mắt khuất dưới đôi hàng lông mày đen rậm rạp. Bộ đồng phục ông ta mặc có vẻ giản dị hơn của những người hộ tống. Không có biểu tượng tia chớp đôi. Thái độ của ông ta cho thấy ông ta rõ ràng là người chỉ huy.

“Chào mừng đến với Auschwitz.” Lale nghe những từ này phát ra từ cái miệng hầu như không cử động của ông ta mà không thể tin nổi. Bị buộc phải rời quê nhà và bị đưa đi như súc vật, giờ còn bị bao vây bởi quân SS trang bị tận răng, thế mà anh đang được chào mừng – chào mừng cơ đấy!

“Tôi là chỉ huy Rudolf Hoess. Tôi là người phụ trách ở Auschwitz này. Cánh cổng các anh mới bước vào có đề: Lao động mang lại tự do. Đây là bài học đầu tiên của các anh, bài học duy nhất của các anh. Làm việc chăm chỉ vào. Làm theo lệnh thì sẽ được thả tự do. Bất tuân thì sẽ lãnh hậu quả. Các anh hoàn thành các thủ tục ở đây rồi sẽ được đưa tới chỗ ở mới: Auschwitz 2 – Birkenau.”

Viên chỉ huy săm soi từng khuôn mặt. Ông ta định nói thêm gì đó nhưng bị cắt ngang bởi một tràng sấm ầm ầm. Ông ta nhìn lên trời, lẩm bẩm vài từ gì đấy, tùy tiện phẩy tay về phía đám đàn ông rồi quay lưng bỏ đi. Cuộc trình diễn đã xong. Đám tùy tùng lật đật chạy theo sau. Một màn phô trương vụng về nhưng vẫn đáng sợ.

Thủ tục bắt đầu. Lale quan sát những người tù đầu tiên bị đẩy về phía mấy chiếc bàn. Anh đứng xa quá không nghe rõ những cuộc đối thoại ngắn ngủi mà chỉ thấy những người đàn ông mặc pyjama đang ngồi ghi chép thông tin và đưa cho mỗi tù nhân một tờ phiếu nhỏ. Cuối cùng cũng đến lượt Lale. Anh phải cung cấp tên, địa chỉ, nghề nghiệp và họ tên cha mẹ. Người đàn ông mặt phong trần ngồi ở bàn viết câu trả lời của Lale bằng những nét chữ tròn trĩnh gọn gàng rồi đưa anh một mảnh giấy ghi một dãy số. Suốt khoảng thời gian đó, người đàn ông không một lần ngước nhìn vào mắt Lale.

Lale nhìn dãy số: 32407.

Anh lê bước theo dòng người đi về phía dãy bàn khác, ở đó cũng có một nhóm tù nhân mặc quần áo sọc đeo hình tam giác màu xanh lá cây và có thêm nhiều lính SS đứng bên. Cơn khát nước cơ hồ sắp không thể chịu nổi nữa. Vừa khát nước vừa mệt lả, anh giật mình khi tờ giấy bị giật mạnh khỏi tay. Một sĩ quan SS lột áo vét của Lale ra, xé toạc tay áo anh và đè cẳng tay trái của anh lên bàn. Anh bàng hoàng nhìn những chữ số 32407 được tù nhân đó chấm vào da thịt mình. Thanh gỗ gắn kim di chuyển nhanh và đau đớn. Rồi anh ta nhúng một miếng giẻ vào mực xanh, chà mạnh lên vết thương của Lale.

Việc xăm mã số chỉ diễn ra có vài giây nhưng cơn sốc của Lale khiến thời gian như ngừng lại. Anh siết chặt cánh tay, nhìn chằm chằm con số. Sao người ta có thể làm thế này với đồng loại? Anh băn khoăn không biết liệu có phải cả quãng đời còn lại, dù ngắn hay dài, anh sẽ bị định đoạt bởi giây phút này, bởi con số bất quy tắc 32407 này.

Cú thúc bằng báng súng khiến Lale choàng tỉnh. Anh nhặt áo vét dưới đất lên và loạng choạng bước về phía trước, theo chân dòng người đi vào một ngôi nhà gạch lớn kê ghế băng sát tường. Nó làm anh nhớ đến phòng tập thể dục trường anh ở Praha nơi anh đã ngủ lại năm ngày trước khi bắt đầu chuyến đi này.

“Cởi áo quần ra.”

“Nhanh lên, nhanh lên.”

Bọn SS lớn giọng ra lệnh nhưng hầu hết đám người chả hiểu gì. Lale dịch lại cho những người đứng gần mình rồi họ lần lượt chuyển lời cho những người còn lại.

“Bỏ áo quần trên ghế. Quần áo sẽ để ở đây khi bọn mày tắm xong.”

Ngay sau đó cả đám cởi hết áo trong áo ngoài cùng giày dép, gấp quần áo bẩn của mình đặt gọn gàng trên băng ghế.

Lale hào hứng nghĩ đến nước nhưng cũng biết anh sẽ chẳng bao giờ còn thấy lại quần áo của mình hay số tiền cất trong đó nữa.

Anh cởi quần áo đặt lên băng ghế nhưng cơn giận dường như sắp không kiểm soát nổi. Anh lấy từ trong túi quần ra một bao diêm mỏng, thứ gợi nhớ đến những thú vui xưa, và liếc trộm tên sĩ quan gần nhất. Hắn đang ngó đi chỗ khác. Lale quẹt một que diêm. Đây có lẽ là hành động tự ý cuối cùng của anh. Anh đưa que diêm lên lớp lót áo vét, lấy quần phủ lên rồi vội vã gia nhập hàng người đi tắm. Chỉ mất vài giây, từ phía sau, anh nghe tiếng la “Cháy!” Lale ngoảnh lại, thấy mấy người đàn ông trần truồng xô đẩy tránh đi trong khi một sĩ quan SS cố dập lửa.

Anh chưa tới chỗ vòi tắm mà đã thấy run lập cập. Mình đã làm gì thế này? Mấy ngày qua anh liên hồi nhắc nhở mọi người xung quanh cúi đầu, bảo gì làm nấy, không phản kháng ai, còn giờ thì không dưng anh lại đi đốt lửa trong một tòa nhà. Anh biết kết cục sẽ thế nào nếu ai đó chỉ điểm anh là kẻ đốt nhà. Thằng ngu. Thằng ngu.

Trong khu nhà tắm, anh định tâm lại và thở thật sâu. Hàng trăm gã đàn ông đứng vai kề vai run lập cập vì nước lạnh giội xuống người. Họ ngửa đầu ra sau uống lấy uống để dù nước có mùi hôi. Nhiều người cố giấu bớt nỗi xấu hổ bằng cách lấy tay che bộ phận sinh dục. Lale tắm cho sạch mồ hôi, cáu ghét và mùi hôi trên tóc và cơ thể. Nước rít qua ống nước rồi trút xối xả xuống nền nhà. Khi nước ngừng chảy, cửa phòng thay đồ mở ra, và chẳng cần ai ra lệnh, họ tới chỗ những bộ quân phục và giày cũ của quân Nga – thay thế cho quần áo của họ.

“Trước khi mặc áo quần, chúng mày phải qua chỗ cắt tóc,” viên sĩ quan SS có kiểu cười tự mãn nói với đám đàn ông. “Ra ngoài, nhanh lên.”

Mọi người lại xếp thành hàng. Họ di chuyển về phía một tù nhân đang đứng cầm dao cạo. Đến lượt Lale, anh ngồi xuống ghế, lưng thẳng, đầu ngẩng cao. Anh thấy viên SS đi từ đầu hàng đến cuối hàng, lấy báng súng hành hung những người tù lõa lồ, lăng mạ và cười thô tục. Lale ngồi thẳng hơn, đầu ngẩng cao hơn trong khi tóc trên đầu lởm chởm dần, anh còn không nao núng khi dao cạo cắt sém vào da đầu.

Một tên lính thúc vào lưng anh báo hiệu anh đã xong. Anh đứng vào hàng đi về phòng tắm, cùng những người khác tìm kiếm áo quần và giày gỗ vừa cỡ. Những thứ ở đó đều bẩn thỉu hoen ố, nhưng anh cố tìm cho được đôi giày khá vừa chân và hy vọng bộ quân phục Nga anh chộp được cũng thế. Mặc áo quần xong, anh rời khỏi tòa nhà theo chỉ dẫn.

Trời dần tối. Giống như vô vàn những người khác, anh bước dưới mưa chắc đã một lúc lâu. Bùn đất càng lúc càng đặc, thành ra muốn nhấc chân lên cũng khó. Nhưng anh vẫn quyết tâm lê bước đi. Vài người loạng choạng ngã khuỵu và bị đánh đập cho tới khi đứng dậy. Nếu không đứng lên được, họ sẽ bị bắn chết.

Lale cố gắng kéo lớp đồng phục ướt sũng nặng nề cho đỡ dính vào da. Nó chà xát làm trầy da còn mùi len ướt và bùn đất như mang anh về lại con tàu chở súc vật đó. Lale ngẩng mặt lên trời cố nuốt lấy nuốt để mấy giọt mưa. Vị ngọt đó là thứ tuyệt vời nhất anh có được từ mấy hôm nay, thứ duy nhất anh có được từ mấy ngày nay, cơn khát trộn lẫn với sự kiệt quệ khiến anh hoa mắt. Anh nuốt những giọt nước mưa. Chụm hai bàn tay lại và xì xụp húp như điên. Xa xa, anh thấy đèn pha vây lấy một khu vực rộng lớn. Trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, anh tưởng như chúng là những ngọn đèn hiệu, lấp lánh nhảy nhót trong mưa đưa đường dẫn lối cho anh về nhà. Mời gọi: Đến đây nào. Ta sẽ cho cậu nơi trú ẩn, hơi ấm và đồ ăn thức uống. Cứ đi tiếp đi! Nhưng khi anh bước qua cánh cổng, những ánh đèn đó không còn gửi thông điệp nào nữa, chẳng trao đổi hay hứa hẹn sẽ mang đến tự do nếu anh làm việc chăm chỉ. Lale nhận ra cái ảo ảnh lấp lánh đó đã biến mất. Anh đang ở trong một nhà tù khác.

Bên kia mảnh sân, khuất trong bóng đêm, là một khu phức hợp khác. Trên đỉnh hàng rào có chăng dây thép gai. Nhìn lên các đài quan sát, Lale thấy quân SS đang chĩa súng trường về hướng mình. Sét đánh trúng một hàng rào cạnh đó. Hàng rào có điện. Tiếng sấm không đủ lớn để át được tiếng súng, một người nữa ngã xuống.

“Chúng ta đến nơi rồi.”

Lale quay qua thấy Aron đang chen lấn tiến tới phía anh. Ướt sũng, bẩn thỉu. Nhưng còn sống.

“Ừ, có vẻ như chúng ta đã về nhà. Trông cậu ghê quá.”

“Chẳng qua là anh không tự nhìn thấy mình thôi. Cứ xem em như tấm gương đi.”

“Thôi, cảm ơn.”

“Giờ sẽ có chuyện gì nhỉ?” Aron hỏi, giọng như con nít.

❖ ❖ ❖

Dòng người bước đều, lần lượt chìa cánh tay xăm mã số cho viên SS đứng ngoài tòa nhà xem để hắn ghi mã số vào một tấm bảng kẹp. Sau khi bị xô mạnh vào lưng, Lale và Aron thấy mình đã đứng trong Khu 7, một khu nhà lớn kê những chiếc giường ba tầng sát tường. Mấy chục người bị đẩy vào trong tòa nhà. Họ tranh giành, xô đẩy nhau để chiếm chỗ ngủ. Nếu họ đủ may mắn hoặc hung hăng thì có thể chỉ phải nằm chung với một hoặc hai người khác. Lale không gặp may. Anh và Aron leo lên tầng giường trên cùng thì đã có hai người tù khác chiếm chỗ rồi. Cả mấy ngày không có gì vào bụng, họ không còn hơi sức đâu mà đánh đấm nữa. Cố gắng hết sức, Lale cuộn người trên cái bao nhồi rơm được phát làm nệm. Anh ấn hai tay lên bụng, cố nén cơn quặn thắt trong ruột. Vài người gọi lính gác, “Chúng tôi cần thức ăn.”

Tiếng trả lời vọng lại: “Sáng mai sẽ được ăn.”

“Sáng mai thì chúng tôi chết đói cả rồi,” ai đó ở cuối khu nhà nói.

“Và được yên giấc ngàn thu,” một giọng trống rỗng tiếp lời.

“Mấy cái đệm này có độn cỏ khô,” một người khác nói. “Hay là chúng ta tiếp tục đóng vai trâu bò nhai cỏ đi.”

Nhiều tiếng cười lặng lẽ vang lên. Không thấy tên lính phản ứng gì.

Và rồi, tít cuối phòng ngủ tập thể đó, một âm thanh ngập ngừng “Ụm bòòòòòò…”

Lại có tiếng cười. Khẽ nhưng rất thực. Tên lính, có mặt ở đó nhưng như vô hình, không xen vào, và cuối cùng họ ngủ thiếp đi, bụng sôi sùng sục.

❖ ❖ ❖

Khi Lale dậy đi tiểu, trời vẫn còn tối. Anh trườn qua người các bạn ngủ cùng, bước xuống sàn nhà và lần mò tìm đường ra phía sau khu nhà, nghĩ đây có lẽ là nơi an toàn nhất để giải tỏa nỗi buồn. Tới gần, anh nghe thấy các giọng nói: tiếng Slovakia và Đức. Anh nhẹ cả người khi thấy có nhà vệ sinh, dù thô sơ, để đi đại tiện. Mấy con mương dài chạy sau lưng tòa nhà có lát mấy thanh ván gỗ. Ba tù nhân đang ngồi bên kia con mương, vừa đi đại tiện vừa thầm thì nói chuyện với nhau. Từ phía cuối tòa nhà, Lale thấy hai viên SS đang đi đến trong bóng tối lờ mờ, vừa hút thuốc vừa cười, súng lủng lẳng trên lưng. Đèn pha bên ngoài doanh trại sáng lập lòe chiếu vào mấy bóng người lòa nhòa và Lale không nghe ra họ đang nói gì. Bàng quang anh căng cứng nhưng anh vẫn trù trừ.

Hai tên lính đồng loạt búng điếu thuốc vào không trung, quơ súng và bóp cò. Xác của ba người đang đại tiện bị vứt xuống mương. Lale nín thở. Anh ép sát người vào tòa nhà khi hai tên lính đi ngang qua. Anh thoáng thấy hình dáng một tên – một thằng bé, chỉ là một thằng nhãi ranh.

Khi bọn chúng đã mất hút vào bóng đêm, Lale lập một lời thề với chính mình. Mình sẽ sống sót rời khỏi chốn này. Mình sẽ rời khỏi chỗ này là người tự do. Nếu địa ngục là có thật, mình sẽ chứng kiến những tên đồ tể này bị thiêu trong đó. Anh nghĩ về gia đình mình ở Krompachy và mong rằng việc anh ở đây ít nhất sẽ cứu họ khỏi phải chịu chung số phận.

Lale giải quyết nỗi buồn và quay về giường ngủ.

“Tiếng súng,” Aron hỏi, “là thế nào vậy?”

“Tôi có thấy gì đâu.”

Aron hất chân vòng qua người Lale để bước xuống đất.

“Cậu đi đâu thế?”

“Đi tè.”

Lale với về phía thành giường chộp lấy tay Aron. “Nín đi.”

“Sao thế?”

“Cậu nghe tiếng súng đấy,” Lale bảo. “Nín cho tới sáng đi.”

Aron chẳng nói chẳng rằng leo trở lại giường và nằm xuống, hai bàn tay nắm lấy đũng quần, cảm giác vừa sợ hãi vừa muốn thách thức.

❖ ❖ ❖

Cha anh đang đón khách ở ga tàu. Ông Sheinberg chuẩn bị bước lên xe ngựa một cách lịch lãm, còn cha của Lale thì xếp kiện hành lý đẹp đẽ bằng da lên ghế phía đối diện. Ông ấy đi đâu về thế nhỉ? Praha? Bratislava? Có khi là Vienna? Ông vận bộ com-lê len đắt tiền, giày mới đánh bóng loáng, ông vừa mỉm cười nói ngắn gọn đôi điều với cha của Lale vừa leo lên ngồi phía trước. Cha anh thúc ngựa chạy. Cũng như hầu hết các ông khách khác thuê cha Lale đưa đón, ông Sheinberg đang trên đường về nhà sau chuyến làm ăn quan trọng. Lale muốn trở thành người như ông chứ không phải như cha mình.

Hôm đó, ông Sheinberg không đi cùng vợ. Lale thích liếc nhìn bà Sheinberg và những phụ nữ khác vẫn thuê xe của cha, đôi bàn tay nhỏ nhắn của họ bọc trong găng tay trắng, đôi bông tai ngọc trai quý phái đồng bộ với dây chuyền đeo cổ. Anh thích những phụ nữ mỹ lệ ăn mặc và đeo trang sức đẹp đẽ thỉnh thoảng đi cùng những người đàn ông có địa vị. Ưu điểm duy nhất của việc giúp cha anh là được mở cửa xe ngựa cho các bà, cầm tay đỡ họ xuống, hít hà mùi hương của họ và mơ tưởng về cuộc sống của họ.