← Quay lại trang sách

Chương 2

Ra ngoài. Tất cả ra ngoài!”

Tiếng còi huýt, tiếng chó sủa. Ánh nắng một buổi sáng trong veo chiếu vào cửa phòng Khu 7. Đám người tách nhau ra, leo xuống giường đi ra ngoài. Họ đứng tụ tập ngay bên ngoài tòa nhà. Chẳng ai muốn đi xa hơn. Họ đợi. Và đợi. Những kẻ vừa la hét và thổi còi biến đi đâu cả. Đám người nhấp nhổm đổi từ chân nọ sang chân kia, thì thầm với người đứng gần mình nhất. Nhìn sang các khu nhà khác, họ cũng thấy cảnh tượng y chang. Giờ sao đây? Đợi thôi.

Cuối cùng một sĩ quan SS và một tù nhân đến Khu 7, cả khu nhà đều im lặng. Chẳng giới thiệu gì cả. Tên tù nhân đọc số trên bìa kẹp hồ sơ. Viên SS đứng cạnh, nhịp nhịp chân vẻ nôn nóng, vỗ gậy chỉ huy vào đùi. Phải mất một lúc tù nhân mới nhận ra những số đó liên quan tới hình xăm mà mỗi người mang trên cánh tay trái. Khi cuộc điểm danh đã xong, có hai số không trả lời.

“Mày” – tên điểm danh chỉ một người đứng cuối hàng – “vào trong xem còn ai không.”

Người đó nhìn hắn ta vẻ dò hỏi. Anh ta có hiểu từ nào đâu. Người đứng cạnh thì thầm nhắc lại yêu cầu, thế là anh ta chạy vào trong. Một lát sau, anh ta trở ra, đưa tay phải lên, giơ ngón trỏ và ngón giữa: hai người chết.

Viên sĩ quan SS bước lên phía trước. Hắn nói bằng tiếng Đức. Mấy người tù đã biết phải giữ mồm giữ miệng và ngoan ngoãn đứng chờ, hy vọng ai đó trong nhóm sẽ thông dịch cho họ. Lale hiểu hết.

“Chúng mày sẽ được ăn hai bữa mỗi ngày. Một vào buổi sáng, một vào buổi tối. Nếu chúng mày sống sót tới tối.” Hắn ngừng nói, nụ cười tàn nhẫn hiện trên mặt. “Ăn sáng xong, chúng mày sẽ làm việc cho tới khi bọn tao bảo ngừng. Chúng mày sẽ tiếp tục xây dựng trại tập trung này. Bọn tao sẽ chuyển thêm nhiều người đến đây.” Nụ cười của hắn giờ đã thành điệu cười toe tự mãn. “Nghe theo lời chỉ dẫn của kapo và những người quản lý chương trình xây dựng này thì bọn mày sẽ được nhìn mặt trời lặn.”

Có tiếng kim loại loảng xoảng, đám tù nhân quay lại thì thấy một nhóm đàn ông đang tiến đến mang theo hai cái nồi và những ôm lon kim loại. Ăn sáng. Vài người tù dợm bước về phía nhóm nhỏ đó như để giúp một tay.

“Ai di chuyển sẽ bị bắn,” viên sĩ quan SS quát, giơ cao súng. “Không có cơ hội thứ hai đâu.”

Gã sĩ quan bỏ đi và tên tù vừa điểm danh nói chuyện với cả nhóm. “Bọn mày nghe ông ta nói rồi đấy,” hắn nói tiếng Đức pha giọng Ba Lan. “Tao là kapo của chúng mày, ông chủ của chúng mày. Bọn mày sẽ xếp thành hai hàng để lấy thức ăn. Ai than phiền sẽ lãnh hậu quả.”

Đám người tiến vào hàng và vài người bắt đầu thì thầm với nhau, hỏi xem có ai hiểu tên người Đức nói gì không. Lale nói cho những người đứng gần nhất và bảo họ chuyển lời cho người khác. Anh sẽ cố gắng dịch được chừng nào hay chừng đó.

Khi lên tới vị trí đầu hàng, anh cảm kích nhận chiếc ca bằng thiếc nhỏ, đồ đựng trong ca sánh ra cả đôi tay xù xì đang ấn nó vào tay anh. Anh đứng sang một bên xem đồ ăn của mình. Nó màu nâu, không lấy gì làm đặc lắm và có cái mùi anh không tài nào đoán ra được là gì. Nó không phải trà hay cà phê mà cũng chẳng phải xúp. Anh sợ nếu uống từ từ thì sẽ nôn cái chất lỏng ấy ra mất. Thế là anh nhắm mắt, lấy mấy ngón tay bóp mũi và nốc cạn một hơi. Những người khác không làm được thế.

Aron đang đứng cạnh giơ ca lên làm điệu bộ nâng ly. “Em có một mẩu khoai tây, anh thì sao?”

“Bữa ngon nhất tôi được ăn từ cả thế kỷ nay.”

“Anh lúc nào cũng lạc quan thế à?”

“Cuối ngày nhớ hỏi lại tôi nhé,” Lale nháy mắt nói. Khi trả lại cái ca không cho người tù đã đưa nó cho anh, Lale hơi nhoẻn cười và gật đầu cảm ơn hắn.

Tên kapo quát, “Khi lũ lười biếng chúng mày ăn xong thì quay lại hàng! Chúng mày còn phải làm việc!”

Lale dịch lại chỉ thị.

“Chúng mày sẽ vâng lời tao,” tên kapo quát, “và chúng mày phải tuân lệnh quản đốc. Đứa nào chểnh mảng tao sẽ biết ngay.”

❖ ❖ ❖

Lale và những người khác đứng trước một tòa nhà đang xây dở, giống y chang khu nhà của họ. Nhiều tù nhân khác đã có mặt ở đó: thợ mộc và thợ nề im lặng làm việc theo một nhịp điệu được lập trình sẵn giữa những người đã quen làm việc cùng nhau.

“Mày. Đúng rồi, mày đấy. Leo lên mái nhà. Mày làm trên đó.”

Tên chỉ huy ra lệnh cho Lale. Nhìn quanh, anh thấy một cái thang bắt lên mái nhà. Hai người tù ngồi xổm trên đó đợi nhận ngói chuyền lên cho mình. Hai người đó dịch sang một bên khi Lale leo lên. Mái nhà chỉ có xà gỗ để đỡ lấy ngói.

“Cẩn thận đấy,” một trong hai người thợ nhắc anh. “Lên trên chỗ đường bao mái xem chúng tôi làm. Không khó đâu, cậu sẽ học được nhanh thôi.” Anh ta là người Nga.

“Tôi là Lale.”

“Chốc nữa rồi giới thiệu sau, nhé?” Hai người đàn ông nhìn nhau đầy ẩn ý. “Cậu hiểu ý tôi chứ?”

“Ừ.” Lale trả lời bằng tiếng Nga. Hai người kia mỉm cười.

Lale nhìn họ nhận những viên ngói đất sét nặng trên đôi bàn tay trồi lên từ rìa mái nhà rồi bò tới chỗ hàng ngói cuối cùng đã lợp và cẩn thận chồng lớp ngói khác lên, sau đó quay lại thang nhận chuyến tiếp theo. Người Nga kia nói đúng – công việc không khó – và chỉ một lát sau Lale đã nhập hội với họ để nhận và lợp ngói. Vào một ngày mùa xuân ấm áp thế này thì chỉ có cơn đói đau quặn ruột mới khiến anh không bắt nhịp được với những thợ lành nghề.

Vài tiếng sau họ được phép nghỉ giải lao. Lale đi tới thang nhưng anh người Nga đã ngăn lại.

“Nghỉ trên này sẽ an toàn hơn. Ở tít trên cao này, cậu sẽ ít bị nhìn thấy.”

Lale nghe theo, rõ ràng hai người này biết rõ ngồi thư giãn gân cốt ở chỗ nào thì tốt nhất: góc dùng mấy thanh gỗ chắc chắn hơn để gia cố mái.

“Các anh ở đây lâu chưa?” Lale hỏi ngay khi họ vừa yên vị.

“Chắc khoảng hai tháng. Khó mà nói chính xác sau một thời gian ở đây.”

“Các anh người ở đâu vậy? Ý tôi là sao các anh lại bị đưa đến đây? Các anh là người Do Thái à?”

“Hỏi từng câu một thôi chứ.” Hai người Nga cười khúc khích và người thợ to con trẻ tuổi hơn đảo mắt vì sự ngờ nghệch của người mới đến chưa biết gì về nơi mình ở trong trại tập trung.

“Bọn tôi không phải dân Do Thái mà là lính Nga. Bọn tôi bị tách khỏi đơn vị và bọn Đức chết tiệt này đã tóm được bọn tôi rồi bắt làm việc. Thế còn cậu? Người Do Thái à?”

“Vâng. Tôi thuộc một nhóm lớn được đưa từ Slovakia tới đây hôm qua, tất cả đều là người Do Thái.”

Hai người Nga liếc nhìn nhau. Người lớn tuổi hơn quay đi, nhắm mắt, ngẩng mặt lên trời, để mặc bạn mình tiếp tục cuộc nói chuyện.

“Nhìn quanh đi. Từ trên này cậu có thể thấy có bao nhiêu khu nhà đang xây và bao nhiêu đất đang phải dọn quang.”

Lale chống hai khuỷu tay nhỏm dậy và quan sát khu đất rộng mênh mông bị quây trong hàng rào điện. Những khu nhà giống khu anh đang góp sức xây kéo dài tới tận chân trời. Anh giật mình kinh hãi tưởng tượng ra nơi này có lẽ rồi sẽ như thế nào. Anh phân vân không biết nên nói gì tiếp theo bởi không muốn để lộ nỗi lo lắng của mình. Anh lại nằm xuống, quay đầu tránh đối mặt với hai người bên cạnh, cố hết sức kiểm soát cảm xúc. Anh không được tin tưởng ai, không được tiết lộ quá nhiều về mình, phải cảnh giác…

Người kia nhìn anh chăm chú. Anh ta bảo, “Tôi nghe bọn SS khoác lác rằng đây sẽ là trại tập trung lớn nhất.”

“Thật à?” Lale bảo, cố buộc giọng mình lớn hơn tiếng thì thầm chút xíu. “Ờ, nếu chúng ta sẽ cùng nhau xây nó thì chắc các anh có thể cho tôi biết tên các anh chứ.”

“Andor,” anh ta đáp. “Còn thằng đại ngốc này là Boris. Hắn kiệm lời lắm.”

“Ở đây mở miệng là dễ chết lắm,” Boris lẩm bẩm khi đưa tay ra bắt tay Lale.

“Các anh kể thêm về những người ở đây được không?” Lale hỏi. “Và bọn kapo này là cái quỷ gì thế?”

“Anh nói cho cậu ta đi.” Boris bảo, ngáp dài.

“Ờ, còn có những lính Nga khác như chúng tôi, nhưng không nhiều lắm, và có những người mang các hình tam giác khác nhau.”

“Giống như tam giác xanh lá cây mà kapo của tôi đeo đúng không?” Lale hỏi.

Andor bật cười. “Ồ, màu xanh lá cây là ghê nhất – bọn chúng là tội phạm: sát nhân, hiếp dâm, đại loại thế. Chúng làm lính gác là quá hợp bởi toàn là kẻ không ra gì.” Rồi anh ta nói tiếp, “Mấy người khác bị nhốt ở đây vì chống lại quan điểm chính trị của bọn Đức. Họ đeo tam giác đỏ. Cậu sẽ thấy vài người, không nhiều lắm, đeo tam giác đen – bọn khốn lười biếng và chẳng trụ được lâu đâu. Cuối cùng là cậu và bạn bè.”

“Bọn tôi đeo sao vàng.”

“Ừ, cậu đeo ngôi sao. Tội của cậu là làm người Do Thái.”

“Sao anh không có màu nào cả?” Lale hỏi.

Andor nhún vai. “Bọn tôi chỉ là kẻ thù thôi.”

Boris khịt mũi. “Chúng sỉ nhục bọn tôi bằng cách phát đồng phục của bọn tôi cho các cậu. Chúng làm thế là quá lắm rồi còn gì.”

Tiếng còi huýt vang lên và ba người quay lại làm việc.

❖ ❖ ❖

Đêm đó, đám người ở Khu 7 tụ tập từng nhóm nhỏ để nói chuyện, chia sẻ những gì mình tìm hiểu được và hỏi han nhau. Vài người đi xuống tận cuối nhà để cầu nguyện. Những lời cầu nguyện quyện với nhau thành những âm thanh khó hiểu. Họ đang cầu xin sự chỉ dẫn, sự báo thù hay sự chấp nhận? Lale nhận thấy dù không có giáo sĩ hướng dẫn, mỗi người vẫn cầu xin những điều họ cho là quan trọng nhất. Và anh xem đây là điều tất yếu. Lale đi giữa các nhóm, lắng nghe, nhưng không can dự.

❖ ❖ ❖

Đến cuối ngày đầu tiên, Lale đã khai thác cạn kiệt nguồn thông tin của hai đồng sự người Nga. Từ đó đến hết tuần, anh chỉ để tâm đến lời khuyên của chính mình: cúi đầu, làm theo mệnh lệnh, không bao giờ tranh cãi. Đồng thời, anh quan sát mọi người và mọi chuyện xung quanh. Anh thấy rõ rằng chỉ cần nhìn thiết kế của mấy tòa nhà mới là biết người Đức thiếu hiểu biết về kiến trúc. Bất kỳ lúc nào có cơ hội, anh đều lắng nghe bọn SS trò chuyện và tán gẫu trong khi chúng chẳng hề biết là anh cũng hiểu. Chúng cung cấp cho anh loại vũ khí sẵn có duy nhất, kiến thức, để cất đi sau này dùng. Bọn SS đứng quanh quẩn ở đó hầu như cả ngày, dựa lưng vào tường, hút thuốc, hờ hững quan sát tình hình. Nhờ nghe trộm, anh biết chỉ huy trưởng trại tập trung Hoess là một tên biếng nhác, hiếm khi ló mặt đến, cũng biết rằng điều kiện sinh hoạt của quân Đức ở trại Auschwitz tốt hơn ở trại Birkenau – vốn không có thuốc lá hay bia.

Lale thấy một nhóm thợ có vẻ khác biệt. Họ co cụm lại, mặc thường phục và nói chuyện với bọn SS mà chẳng lo gì cho an nguy của mình. Lale quyết định phải tìm hiểu cho được những người này là ai. Nhiều tù nhân khác chẳng bao giờ nhặt một mẩu gỗ hay viên ngói nào mà chỉ tự do đi lại quanh trại để làm việc khác. Kapo của anh là một ví dụ. Làm sao kiếm được công việc như thế nhỉ? Một vị trí như thế sẽ là cơ hội tốt nhất để tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra ở trại tập trung, kế hoạch dành cho Birkenau và, quan trọng hơn, dành cho anh, là gì.

❖ ❖ ❖

Lale đang đứng trên mái nhà lợp ngói giữa trời nắng thì thấy tên kapo đi về hướng mình. “Nào, bọn biếng nhác kia, làm nhanh lên,” Lale quát. “Chúng ta còn cả một khu phải hoàn thành đấy!”

Anh tiếp tục hò hét ra lệnh khi tên kapo xuất hiện bên dưới. Lale có thói quen cung kính cúi đầu chào hắn. Có lần anh cũng nhận được một cái gật đầu nhẹ. Hắn nói chuyện với anh bằng tiếng Ba Lan. Ít nhất, kapo của anh cũng đã xem anh là một tù nhân khúm núm sẽ không gây ra vấn đề gì.

Cười nửa miệng, tên kapo nhìn Lale và ra dấu cho anh leo xuống khỏi mái nhà. Lale cúi đầu tiến tới gần hắn.

“Mày có thích công việc đang làm trên mái nhà không?” tên kapo hỏi.

“Tôi sẽ làm bất kỳ việc gì được giao,” Lale đáp.

“Nhưng ai cũng muốn sống dễ dàng hơn, đúng không?”

Lale không đáp.

“Tao cần một thằng” tên kapo vừa bảo vừa nghịch lai tay cái áo quân đội Nga đã sờn của hắn. Áo quá rộng đối với hắn, được lựa chọn bởi nó khiến một người nhỏ thó như hắn trông có vẻ to con và uy quyền hơn những người hắn cai quản. Từ cái mồm răng thưa của hắn, Lale ngửi thấy mùi hăng của thịt mới được tiêu hóa nửa chừng.

“Tao bảo gì mày làm nấy. Mang thức ăn cho tao, lau giày cho tao, phải ở cạnh tao bất cứ khi nào tao muốn. Làm được thế thì tao sẽ để mày dễ sống hơn; nếu trái ý thì sẽ lãnh hậu quả.”

Lale đứng cạnh tên kapo, xem đó như câu trả lời cho lời mời làm việc đó. Anh tự hỏi liệu chuyển từ thợ xây sang làm thằng hầu có đồng nghĩa với việc anh đang đồng lõa với quỷ dữ hay không.

❖ ❖ ❖

Một ngày mùa xuân đẹp trời, không nóng lắm, Lale nhìn theo một chiếc xe tải bịt kín chạy quá vị trí người ta thường dỡ thiết bị xây dựng xuống. Lale biết hàng rào ranh giới nằm cách đó không xa và anh chưa bao giờ dám đánh bạo đến khu vực ấy, nhưng giờ đây nỗi tò mò đã chiến thắng. Anh bước theo chiếc xe với vẻ như thể “tôi thuộc về nơi này, tôi có thể đi bất kỳ đâu tôi muốn”.

Anh nấp ở góc cuối tòa nhà thò đầu ra nhìn. Chiếc xe tải dừng lại cạnh một thứ kiểu như xe thùng chở tù. Nó được cải tạo lại thành một thứ dạng như boong-ke, cửa sổ bị bịt lại bằng cách đóng đinh mấy tấm thép lên. Lale quan sát hàng chục người đàn ông trần truồng bị dẫn ra khỏi xe tải đưa về phía xe thùng. Vài người tự nguyện bước vào. Ai kháng cự sẽ bị đánh bằng báng súng. Đám bạn tù kéo lê những người chống đối nửa tỉnh nửa mê đến với định mệnh của họ.

Chiếc xe thùng chật cứng đến nỗi mấy người lên cuối cùng phải nhón đầu ngón chân bám vào bậc lên xuống, những cái mông trần lòi ra khỏi cửa. Đám sĩ quan vận sức đẩy những tấm thân đó vào. Rồi cửa đóng sầm lại. Một sĩ quan đi vòng quanh xe thùng, gõ vào các tấm kim loại, kiểm tra xem mọi thứ đã chắc chắn chưa. Một tên vẻ lanh lợi leo lên nóc, cầm theo một cái bình. Không thể cử động, Lale chứng kiến gã mở cánh cửa sập trên nóc xe và lật úp cái bình xuống. Sau đó, gã đóng sầm cửa sập, cài then. Trong lúc tên lính gác vội vã leo xuống, chiếc xe thùng rung lắc dữ dội và những tiếng kêu nghèn nghẹt vang lên.

Lale quỳ gối xuống, nôn ọe. Anh vẫn ở đó, nôn ra đất, trong khi tiếng la hét lịm dần.

Khi chiếc xe thùng đã yên ắng, cửa được mở ra. Người chết rơi ra như đá tảng.

Một đám tù nhân từ góc bên kia tòa nhà tiến ra. Xe tải lùi lại và tù nhân bắt đầu chuyển xác lên xe, lảo đảo vì phải vác nặng và cố gắng che giấu sự khổ sở. Lale vừa chứng kiến một hành động khó mà tưởng tượng nổi. Anh loạng choạng đứng dậy, ngấp nghé trên ngưỡng của địa ngục, cảm xúc cuồng nộ trong lòng như hỏa ngục.

Sáng hôm sau anh chẳng thể nào dậy nổi. Người anh nóng hầm hập.

❖ ❖ ❖

Phải mất bảy ngày Lale mới dần hồi tỉnh. Ai đó đang nhẹ nhàng rót nước vào miệng anh. Ông ta còn đắp một miếng giẻ ướt lên trán anh.

“Nào chàng trai,” một giọng nói cất lên. “Thư giãn đi.”

Lale mở mắt và thấy một người lạ, một người đàn ông lớn tuổi đang hiền từ nhìn mặt anh. Anh chống hai khuỷu tay gượng dậy và người lạ đỡ anh ngồi lên. Anh nhìn quanh, hoang mang. Hôm nay là ngày nào? Anh đang ở đâu đây?

“Không khí trong lành sẽ khiến cậu khỏe ra đấy.” người đàn ông bảo, nắm lấy khuỷu tay Lale.

Anh được dìu ra ngoài, hôm ấy bầu trời không một gợn mây, một ngày đáng lẽ dành để vui vẻ, và anh rùng mình khi nghĩ đến ký ức vào cái ngày cũng như thế này. Mọi thứ trước mắt anh chao đảo và anh loạng choạng. Người lạ đỡ anh tới đống gỗ gần đấy.

Kéo tay áo của Lale lên, ông ta chỉ vào dãy số được xăm.

“Tôi tên Pepan. Tôi là Thợ Xăm. Cậu thấy tác phẩm của tôi thế nào?”

“Thợ Xăm ư?” Lale hỏi lại. “Ý bác là bác đã làm cái này cho cháu?”

Pepan nhún vai, nhìn thẳng vào mắt Lale. “Tôi đâu có được lựa chọn.”

Lale lắc đầu. “Số này không phải lựa chọn mẫu xăm đầu tiên của cháu.”

“Thế cậu thích hình xăm gì?” Pepan hỏi.

Lale mỉm cười kín đáo.

“Tên cô ấy là gì?”

“Người yêu cháu ấy ạ? Cháu có biết đâu. Chúng cháu còn chưa gặp nhau.”

Pepan cười khùng khục. Hai người đàn ông im lặng ngồi bên nhau như hai người bạn. Lale lần ngón tay lên mã số của mình.

“Bác nói giọng nước nào thế?” Lale hỏi.

“Tôi là người Pháp.”

“Thế cháu bị sao vậy ạ?” cuối cùng Lale hỏi.

“Sốt phát ban. Đáng lẽ cậu đã xuống mồ sớm rồi.”

Lale nhún vai. “Thế sao cháu vẫn ngồi đây với bác vậy?”

“Tôi đi ngang qua khu nhà cậu ở đúng lúc thây của cậu đang bị ném lên xe đẩy dành cho người chết và hấp hối. Một chàng trai đang năn nỉ bọn SS để cậu lại, bảo rằng cậu ta sẽ chăm sóc cậu. Khi họ tới khu nhà kế tiếp, cậu ta đẩy cậu ra khỏi xe và kéo cậu trở vào trong nhà. Tôi đến giúp cậu ta.”

“Chuyện xảy ra lâu chưa ạ?”

“Bảy, tám ngày gì đấy. Từ đó mấy người trong khu nhà cậu chăm sóc cậu vào ban đêm. Tôi tranh thủ chăm sóc cậu vào ban ngày. Cậu thấy thế nào rồi?”

“Cháu thấy ổn ạ. Cháu không biết phải nói gì, không biết phải cảm ơn thế nào.”

“Cảm ơn anh chàng đẩy cậu ra khỏi xe đẩy ấy. Nhờ lòng dũng cảm của cậu ta mà cậu mới thoát khỏi nanh vuốt của tử thần.”

“Cháu sẽ cảm ơn khi biết anh ta là ai. Bác có biết không ạ?”

“Không. Rất tiếc. Chúng tôi không hỏi tên nhau.”

Lale nhắm mắt một lát, để mặt trời sưởi ấm làn da, tiếp cho anh thêm năng lượng, ý chí, để bước tiếp. Anh vươn đôi vai đang chùng xuống và lòng quyết tâm ri rỉ chảy lại trong anh. Anh vẫn sống. Anh đứng dậy trên đôi chân run rẩy, duỗi người, cố gắng hít luồng sinh khí mới vào trong cơ thể đau yếu đang cần nghỉ ngơi, cần dưỡng chất và nước.

“Ngồi xuống đi, cậu vẫn còn yếu lắm.”

Lale cũng thấy rõ thế nên bèn làm theo. Đến lúc này lưng anh đã thẳng hơn, giọng dứt khoát hơn. Anh mỉm cười với Pepan. Lale trước đây đã trở lại, thèm khát thông tin không kém gì thèm thức ăn. “Cháu thấy bác mặc áo có sao đỏ,” anh bảo.

“À ừ. Tôi là giáo sư đại học ở Paris và quá trực tính nên chẳng lợi lộc gì cho bản thân cả.”

“Bác dạy môn gì ạ?”

“Kinh tế.”

“Làm giáo viên dạy kinh tế mà cũng bị đưa vào đây ạ? Sao lại thế ạ?”

“Chậc, Lale à, một người dạy về thuế và lãi suất thì không thể tránh khỏi liên quan đến chính trị của nước mình. Chính trị sẽ giúp ta hiểu thế giới cho đến khi ta không còn hiểu gì nó nữa, rồi sau đó nó ném ta vào trại tập trung. Cả chính trị và tôn giáo.”

“Rồi khi rời nơi này bác sẽ trở lại với cuộc sống đó chứ?”

“Đúng là người lạc quan! Tôi chả biết tương lai của tôi, hay của cậu, sẽ ra sao nữa.”

“Khó mà đoán được tương lai bác nhỉ.”

“Đúng vậy.”

Trong tiếng ồn ào của công trường, tiếng chó sủa, tiếng bọn bảo vệ la hét, Pepan rướn người về phía trước hỏi, “Tính cách cậu cũng mạnh mẽ như thể chất của cậu chứ?”

Lale cũng nhìn thẳng vào mắt Pepan. “Cháu là kẻ sống sót.”

“Trong hoàn cảnh này của chúng ta thì sức mạnh của cậu có khi lại là điểm yếu. Vẻ quyến rũ và hay cười sẽ khiến cậu gặp rắc rối đấy.”

“Cháu là kẻ sống sót.”

“Chậc, thế thì có khi tôi có thể giúp cậu sống sót ở đây.”

“Bác quen người ở cấp cao ạ?”

Pepan bật cười vỗ lưng Lale. “Không. Không có người quen ở cấp cao nào cả. Tôi đã nói với cậu rồi đấy, tôi là Thợ Xăm. Và tôi nghe nói số người chuyển đến đây sẽ tăng lên rất nhanh.”

Họ ngồi suy nghĩ một hồi. Suy nghĩ đang chiếm tâm trí Lale là ai đó đang ra quyết định, đang chọn những nhóm người từ nơi nào đó – nơi nào nhỉ? Làm thế nào người ta quyết định được ai là người chuyển tới đây? Người ta dựa vào thông tin nào để đưa ra các quyết định đó? Chủng tộc, tôn giáo hay chính trị?

“Cậu khiến tôi tò mò đấy, Lale. Tôi bắt đầu thấy hứng thú với cậu rồi đó. Cậu có một sức mạnh mà ngay cả cái cơ thể đau yếu của cậu cũng không che giấu nổi. Nó đã đưa cậu tới thời điểm này, ngồi trước mặt tôi hôm nay.”

Lale nghe nhưng khó mà hiểu rõ Pepan đang nói gì. Họ ngồi ở một nơi mà người ta đang chết từng ngày, từng giờ, từng phút.

“Cậu có muốn làm việc cùng tôi không?” Pepan kéo Lale ra khỏi trạng thái ủ dột. “Hay cậu vẫn thích làm bất kỳ việc gì họ giao cho cậu?”

“Cháu làm bất kỳ điều gì để sống sót.”

“Thế thì nhận lời đề nghị của tôi đi.”

“Bác muốn cháu xăm cho người khác?”

“Phải có ai đó làm việc này.”

“Cháu nghĩ cháu không làm được đâu. Để lại sẹo cho ai đó, làm đau ai đó – đau lắm, bác biết mà.”

Pepan kéo tay áo lên để lộ số của mình. “Đau muốn chết. Nếu cậu không nhận việc này, sẽ có ai đó ít lương tâm hơn nhận và còn làm những người này đau đớn hơn.”

“Làm việc cho kapo không giống với làm nhục hàng trăm con người vô tội.”

Im lặng kéo dài. Lale quay trở lại vùng u tối của mình. Những người ra quyết định kia có gia đình, vợ con và cha mẹ hay không? Họ không thể có.

“Cậu có thể nói thế, nhưng cậu vẫn là con rối của Đức Quốc xã. Dù làm việc với tôi hay với kapo, hay xây các khu nhà, cậu vẫn đang làm công việc nhơ bẩn của họ.”

“Bác nói có lý.”

“Thế thì?”

“Thế thì được ạ. Nếu bác có thể thu xếp được thì cháu sẽ làm việc cho bác.”

“Không phải cho tôi. Cùng tôi. Nhưng cậu phải làm việc nhanh nhẹn, hiệu quả và không gây sự với bọn SS.”

“Được ạ.”

Pepan đứng lên, định bước đi. Lale túm lấy tay áo ông.

“Bác Pepan, sao bác lại chọn cháu?”

“Tôi thấy một cậu trai sắp chết đói mạo hiểm tính mạng để cứu cậu. Tôi đoán cậu hẳn là người đáng được cứu. Sáng mai tôi sẽ đến tìm cậu. Giờ thì nghỉ ngơi đi.”

❖ ❖ ❖

Đêm đó, khi những người bạn ở cùng khu nhà với anh trở về, Lale để ý thiếu mất Aron. Anh hỏi hai người ngủ chung giường xem cậu đã gặp chuyện gì, đã đi bao lâu rồi.

“Khoảng một tuần,” câu trả lời vang lên. Lale thấy lòng chùng xuống.

“Tên kapo không tìm ra cậu,” người kia nói. “Đáng lẽ Aron có thể nói cậu bị ốm, nhưng cậu ta sợ nếu tên kapo biết thì sẽ bỏ cậu lên xe chở xác lần nữa, vì thế cậu ta nói cậu đi rồi.”

“Và tên kapo phát hiện ra sự thật?”

“Không,” người kia ngáp, kiệt sức vì phải làm việc. “Nhưng tên kapo bực quá bèn đưa Aron đi.”

Lale cố ngăn dòng nước mắt.

Người bạn cùng giường thứ hai lăn người tì khuỷu tay nhỏm dậy. “Cậu gieo vào đầu cậu ta những ý tưởng vĩ đại. Cậu ta muốn cứu người đó.”

“Cứu một người là cứu cả thế giới.” Lale nói nốt câu.

Đám đàn ông lại rơi vào im lặng một hồi. Lale nhìn lên trần nhà, chớp chớp mắt ngăn dòng lệ. Aron không phải người đầu tiên chết ở đây và sẽ không phải là người cuối cùng.

“Cảm ơn các anh,” anh bảo.

“Bọn tôi cố gắng tiếp tục làm những gì mà Aron đã bắt đầu, để xem liệu bọn tôi có cứu được người đó không.”

Một chàng trai nằm tầng dưới nói, “Mọi người thay nhau lấy trộm nước và chia sẻ phần bánh mì của mình với anh, cố nhét nó xuống họng anh.”

Một người khác kể tiếp câu chuyện. Anh ta rướn người lên khỏi chiếc giường tầng dưới, vẻ phờ phạc, đôi mắt xanh mờ đục, giọng uể oải nhưng vẫn thiết tha góp lời. “Chúng tôi thay bộ đồ bẩn của anh. Chúng tôi trao đổi với một người mới chết đêm qua.”

Giờ Lale không ngăn nổi những giọt nước mắt lăn xuống đôi gò má hốc hác.

“Tôi không thể…”

Anh không thể làm gì ngoài việc tỏ lòng biết ơn. Anh biết anh đã gánh một món nợ không trả được, không phải lúc này, không phải nơi đây, và thực tế mà nói thì sẽ không bao giờ trả nổi.

Anh thiếp đi trong tiếng đọc kinh Hebrew sâu lắng vọng lại từ những con người vẫn bám víu vào đức tin.

❖ ❖ ❖

Sáng hôm sau Lale đang xếp hàng ăn sáng thì Pepan xuất hiện bên cạnh, lặng lẽ nắm cánh tay anh kéo về phía sân trại chính. Ở đó, mấy chiếc xe tải đang dỡ những món hàng con người. Anh có cảm giác như mình đang lang thang vào một cảnh trong bi kịch cổ điển. Vài diễn viên vẫn như cũ, nhưng phần đông là người mới, lời thoại chưa viết, vai chưa xác định. Kinh nghiệm cuộc đời chưa trang bị cho anh đủ kiến thức để hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Anh nhớ lại mình đã từng ở đây. Đúng vậy, nhưng không phải với vai trò người quan sát mà là người tham gia. Giờ thì vai diễn của mình là gì đây? Anh nhắm mắt, tưởng tượng mình đang đối diện với một phiên bản khác của chính mình, đang nhìn vào cánh tay trái. Nó chưa được xăm số. Lại mở mắt ra, anh nhìn xuống hình xăm trên cánh tay trái bằng xương bằng thịt của mình rồi nhìn lại cảnh tượng trước mắt.

Anh thu vào tầm mắt hàng trăm tù nhân mới đang tập trung ở đó. Những cậu bé, những chàng trai, nỗi khiếp sợ hằn trên từng khuôn mặt. Đứng co cụm vào nhau. Ôm nhau. Bọn SS và đàn chó lùa họ như lùa cừu vào lò mổ. Họ tuân lệnh. Dù họ sống hay chết thì ngày này cũng sắp được định rồi. Lale không đi theo Pepan nữa mà đứng như trời trồng. Pepan chạy lại dẫn anh đến chỗ mấy cái bàn nhỏ để dụng cụ xăm. Những ai qua ải tuyển chọn sẽ bị bắt xếp hàng đứng trước bàn của họ. Họ sẽ bị đánh dấu. Những người mới đến khác – già cả, ốm yếu, không thấy có kỹ năng gì – là những xác chết di động.

Một tiếng súng nổ vang. Đám đàn ông giật lùi. Ai đó ngã xuống. Lale nhìn theo hướng súng nổ nhưng Pepan đã tóm mặt xoay đầu anh lại.

Một nhóm SS, phần đông còn trẻ, đi về phía Pepan và Lale, hộ tống một sĩ quan SS lớn tuổi hơn. Chừng bốn mươi lăm tuổi hoặc hơn, mặc bộ đồng phục sạch không tì vết, lưng thẳng, mũ đội ngay ngắn trên đầu – một ma-nơ-canh hoàn hảo, Lale nghĩ.

Đám SS dừng lại trước mặt họ. Pepan bước lên, cúi đầu chào tên sĩ quan trong lúc Lale quan sát.

“Phân toán trưởng Houstek, tôi mới nhận tên tù này để giúp tôi.” Pepan ra dấu về phía Lale đang đứng sau lưng mình.

Houstek quay sang Lale. Pepan nói tiếp, “Tôi tin là cậu ta sẽ học rất nhanh.”

Houstek, ánh mắt sắt đá, trừng mắt nhìn Lale rồi vẫy ngón tay ra dấu bảo anh bước lên phía trước. Lale làm theo.

“Mày nói được tiếng gì?”

“Tiếng Slovakia, Đức, Nga, Pháp, Hung và một ít tiếng Ba Lan,” Lale đáp, nhìn thẳng vào mắt hắn.

“Hừm.” Houstek bỏ đi.

Lale vươn người qua thì thầm với Pepan, “Một gã kiệm lời. Vậy là cháu được nhận rồi phải không?”

Pepan quay sang Lale, đôi mắt và giọng nói nhuốm ánh lửa, tuy nhiên ông nói rất nhỏ. “Đừng đánh giá thấp hắn. Bớt làm ra vẻ bạo dạn đi nếu không sẽ mất mạng đấy. Lần sau nói chuyện với hắn thì đừng có để tầm nhìn vượt quá đôi ủng của hắn.”

“Cháu xin lỗi.” Lale đáp. “Cháu sẽ không làm thế nữa đâu.”

Lúc nào mình mới khôn ra được?