Chương 5
Đoàn tàu dừng lại. Nhà ga xép đã được ngụy trang nằm phơi dưới ánh mặt trời. Vài ngôi nhà quanh ga chỉ còn là những tảng đá cháy thui; chúng đã được thay bằng những căn nhà gỗ, tường và mái được sơn xanh và nâu. Tù binh Nga đang rỡ mấy toa chở hàng đậu trên đường sắt. Đây là điểm nối đoạn đường nhánh với đoạn đường chính.
Thương binh được chuyển đến một căn nhà gỗ. Những người đi được đã đến ngồi trên các ghế dài bằng gỗ mộc. Vài người về phép cũng theo họ. Họ tụ tập lại, cố tránh để không bị chú ý, sợ lại bị tống ra ngoài mặt trận.
Trời xám xịt tỏa ra một thứ ánh sáng yếu ớt, tàn héo, ánh lên trên đám tuyết bẩn. Có tiếng máy bay ầm ì ở xa. Tiếng động không từ trên trời vọng xuống. Chắc có một sân bay ở gần đây. Rồi một phi đội bay phía trên nhà ga mỗi lúc một cao, chẳng bao lâu chúng chỉ còn như một đàn chim sơn ca. Gơrebê thấy thiu thiu buồn ngủ. Anh nghĩ, chim sơn ca. Hòa bình...
Hai tên quân cảnh sấn sổ vào căn nhà gỗ. “Giấy tờ đâu!” Chúng trông khỏe mạnh và có cái vẻ tự tin của những người không phải sống trong cảnh nguy hiểm. Quân phục của chúng trông thật tề chỉnh và vũ khí sáng loáng. Ít ra mỗi đứa trong bọn chúng cũng nặng hơn người đi phép nặng cân nhất đến mười kilô.
Các quân nhân lặng lẽ trình giấy phép. Bọn quân cảnh xem xét kỹ càng trước khi trả lại. Chúng đòi xuất trình cả sổ quân nhân.
– Các anh lĩnh thực phẩm ở nhà số ba, sau cùng tên già nhất nói. Cố rửa ráy một chút đi nhé! Trông mà ghê! Các anh định để bẩn như lợn mà về nhà à?
Toán người đi về phía nhà số ba.
– Đồ chó má! Một người lính có bộ râu rậm nói khẽ. Chỉ to mồm sủa, đánh nhau thì cấm có thấy. Chúng coi bọn ta chẳng khác gì kẻ gian.
– Ở Stalingrát, tụi chúng xử bắn về tội đào ngũ, hàng chục người bị lạc đơn vị đấy, một người đi phép khác nói.
– Cậu đã ở Stalingrát rồi à?
– Tớ mà đã ở Stalingrát thì chẳng còn ở đây. Không ai thoát khỏi cái địa ngục ấy đâu.
– Này, một hạ sĩ quan tóc hoa râm nói với anh ta. Ngoài mặt trận, cậu muốn nói gì thì nói. Ở đây khác. Muốn sống thì tốt nhất là câm miệng lại, hiểu không?
Họ xếp thành hàng, tay cầm gamen. Phải đợi đến hơn một giờ. Ai nấy rét run, nhưng không ai phàn nàn, họ đã quen rồi. Cuối cùng mỗi người được một muôi súp lõng bõng tí thịt, vài lá rau và vài lát khoai tây.
Người lính chưa từng đến Stalingrát thận trọng liếc nhìn xung quanh rồi nói.
– Bọn quân cảnh mà cũng ăn thứ này thì thật là lạ.
– Thế có việc gì đến cậu không? Viên hạ sĩ nhún vai trả lời.
Gơrebê ăn ngon lành phần xúp của mình. Anh nghĩ, ít ra, cũng nóng. Về tới nhà, anh sẽ ăn bù lại. Mẹ anh nấu nướng giỏi. Bà sẽ làm món xúc xích với khoai rán và hành. Nhất định bà sẽ kiếm cách làm cho anh bánh kem nhân dâu trứ danh.
Còn phải đợi đến chập tối. Những thương binh mới không ngừng tới. Mỗi đoàn xe đến lại làm tăng thêm nỗi lo âu của những người đi phép. Họ mỗi lúc một sợ, với những khó khăn về chuyên chở sắp tới, lại bị đẩy ra mặt trận. Hàng ngàn vì sao lấp lánh trên bầu trời giá lạnh. Moi người đều nguyền rủa chúng, chúng tạo những điều kiện lý tưởng cho máy bay tấn công. Đã từ lâu, đối với những người này, thiên nhiên đã mất hết mọi ý nghĩa không liên quan trực tiếp đến chiến tranh. Thiên nhiên chỉ là mối đe dọa hay sự che chở.
Các thương binh được đưa lên tàu. Ba người được trả ngay về căn nhà gỗ, họ đã chết. Cáng để chật trên sân và quanh ga. Cáng nào có người chết thì không còn chăn. Không một ánh đèn.
Rồi đến lượt những thương bình còn đi được. Họ bị kiểm soát gắt gao. Gơrebê nghĩ, nhiều quá, có lẽ không còn chỗ cho tụi mình. Anh ngước mắt nhìn, tim đập thình thình. Tiếng máy bay ầm ầm trên đầu, nhưng không thấy chúng đâu. Anh biết đấy là máy bay Đức nhưng anh vẫn sợ. Anh còn sợ hơn ở mặt trận nhiều.
– Những người đi phép đâu? Cuối cùng người ta cũng gọi đến họ.
Tốp người xô tới, nhưng bọn quân cảnh đã ngăn lại. Phải lục tìm và xuất trình phiếu kiểm tra đã được phát từ trước. Sau cùng họ leo lên một toa. Vài thương binh nhẹ đã ngồi trên đó. Lại xô đẩy, chửi rủa nhau. Quân cảnh bắt họ xuống xếp hàng. Người ta dẫn họ tới toa bên cạnh cũng có vài thương binh ngồi sẵn rồi. Họ được phép lên tàu. Gơrebê kiếm chỗ ngồi giữa toa. Anh biết rằng nếu có bị ném bom thì các góc và cửa sổ là nguy hiểm nhất.
Tàu vẫn không chạy. Trong toa tối đen như mực. Mọi người ngóng đợi. Bên ngoài đã ngừng tiếng động. Một người lính đi qua, có hai tên quân cảnh kèm hai bên rồi một toán tù binh Nga vác những hòm đạn và cuối cùng là hai tên lính SS chuyện trò ầm ĩ với nhau. Tàu vẫn không nhúc nhích. Thương binh bắt đầu chửi rủa. Họ chẳng sợ gì. Chẳng ai đe dọa được họ.
Gơrebê ngồi co người trên ghế, cố ngủ cho đến lúc tàu bắt đầu chạy, nhưng anh không ngủ được. Anh vô tình nghe tiếng động nhỏ. Trong bóng tối, anh nhìn vào mặt những người trong toa, và nhận thấy tuyết và ánh sao nhợt nhạt phản chiếu lờ mờ trong đó. Trời tối đến nỗi không nhận rõ mặt người. Trong toa chỉ có bóng tối và những con mắt lo âu. Những vết băng bó điểm rải rác thành những đốm trắng, nhờ nhờ. Tàu chuyển bánh rồi dừng lại ngay. Tiếng gọi nhau vang lên. Một lát sau, cửa mở rầm rầm.Hai cái cáng được đưa xuống sân ga. Thêm hai người chết. Lại có thêm hai chỗ cho người sống. Gơrebê nghĩ. Miễn là đến phút cuối cùng không còn đoàn thương binh nào đến buộc những người đi phép phải nhường chỗ cho họ.
Tàu lại chuyển bánh. Sân ga bắt đầu lướt chậm qua cửa sổ. Quân cảnh, tù binh, lính SS, từng đống thùng - rồi bỗng nhiên cánh đồng mênh mông trắng xóa. Mọi người xô ra phía cửa sổ. Họ chưa dám tin. Đoàn tàu còn có thể dừng lại nữa đây. Nhưng tiếng toa tàu lướt nhanh dần, những tiếng động rồi rạc dần dà trở nên đều đều, nhịp nhàng. Họ thấy xe tăng súng đại bác. Rồi các đơn vị binh lính đứng nhìn theo tàu. Gơrebê bỗng cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Anh nghĩ, được về nhà, được trở về nhà. Mình về nhà đây. Trời, nỗi vui làm mình sợ...
Tuyết rơi lúc trời tảng sáng. Tàu dừng lại ở một ga để mọi người uống cafe. Thành phố nhỏ không còn gì ngoài những đống hoang tàn ở phía sân ga. Vài người chết trên tàu được đưa xuống. Gơrebê cầm cà phê lao vội về toa mình. Anh không dám để thì giờ đi lĩnh bánh mì.
Một nhóm quân cảnh lục soát trong toa, bắt những người bị thương nhẹ xuống điều trị ngay tại thành phố này. Tin ấy được truyền đi thật nhanh khắp đoàn tàu. Thế là lại xô đẩy, tranh giành lộn ẩu trước cửa cầu tiêu. Bỗng có người kêu lên: “Chúng nó kia kìa!”
Mọi người xô nhau lần cuối và khi cánh cửa cầu tiêu đóng sập lại, có hai người ở lại được trong đó. Một thương binh bị xô ngã trong cuộc ẩu đả, đừng nhìn trùng trừng vào cánh tay của anh ta được băng treo lên cổ; một vết đỏ loang nhanh lên chỗ băng đã bẩn. Một người khác mở cửa toa, lao ra ngoài, xuống phía bên kia, trong gió tuyết. Anh ta dán mình vào thành toa xe, Chỉ hơi thò đầu ra một chút là có thể thấy bộ mặt tái mét của anh giữa những bông tuyết đang bay.
– Đừng nhìn nó nữa, có người nói. Không nó lại bị tóm mất.
– Tôi muốn về nhà, người có vết thương rỉ máy nói. Đã hai lần chúng tống tôi vào cái bệnh viện dã chiến tồi tệ này. Vừa khỏi là phải ra mặt trận ngay, không được nghỉ dưỡng sức nữa. Tôi cứ về nhà, dù sao tôi cũng xứng đáng chứ.
Anh ta nhìn những người về phép với vẻ thèm muốn lẫn hằn học. Không ai trả lời. Còn phải đợi mãi mới thấy đội tuần tra đến. Hai tên đi kiểm soát trong toa. Hai tên đứng dưới sân ga, gác những thương binh phải ở lại. Một trong những tên đó là một y tá trẻ. Hắn liếc nhìn giấy chứng nhận của những người thương binh rồi thản nhiên ra lệnh: “Đi xuống”. Xong hắn quay ngay sang người sau.
Một thương binh vẫn ngồi yên. Đó là một người nhỏ bé, tóc hoa râm.
– Đi xuống, cha nội, tên quân cảnh đi cùng tên y tá nói. Anh có nghe thấy không?
Người đó không nhúc nhích. Vai anh ta bị băng.
– Đi! Xuống ngay! Tên quân cảnh nhắc lại.
Người đó vẫn ngồi tại chỗ. Anh ta mím chặt môi, nhìn thẳng trước mặt như không hiểu. Tên quân cảnh đứng dạng chân giữa toa, tay chống nạnh.
– Có cần phải gửi giấy báo đặc biệt cho anh không? Đứng dậy đi.
Anh vẫn giả điếc.
Tên quân cảnh gầm lên: “Đứng dậy! Anh không nghe cấp trên của anh ra lệnh cho anh đấy à?”
– Bình tĩnh nào! Tên y tá nói. Cứ bình tĩnh đã.
Hắn có bộ mặt hồng hào và mắt hắn không có lông mi.
– Anh bị chảy máu à? Hắn nói với người thương binh đang bị rỉ máu. Phải thay băng cho anh mới được. Anh xuống đi.
– Tôi... người bị thương bắt đầu nói lí nhí. Nhưng anh ta đã trông thấy một tên quân cảnh nữa đến cùng tên trước. Cả hai cùng ôm người tóc hoa râm bé nhỏ đó nhấc bổng lên như một gói đồ. Người đó kêu thất thanh nhưng nét mặt vẫn không thay đổi. Chúng vác anh ta đi, không phũ phàng lắm, một cách vô tình. Chẳng bao lâu bóng người bé nhỏ tóc hoa râm đã lẫn vào đám đông thương binh đứng tại sân ga.
– Thế nào? Tên y tá hỏi.
– Băng bó xong, tôi có thể lại đi được chứ, ông thủ trưởng. Người bị chảy máu hỏi.
– Để xem đã. Cũng có thể. Bây giờ cứ xuống đi.
Người bị thương đứng dậy, vẻ bi thảm. Anh ta đã gọi tên y tá là ông thủ trưởng nhưng điều đó cũng như mọi điều khác chẳng được việc gì. Tên quân cảnh đập mạnh cửa cầu tiêu.
– Chẳng sai chút nào, hắn khinh bỉ nói. Lần nào cũng mấy cái trò này. Đứa nào cũng đóng kịch như thế cả. Mở cửa ra! Hắn ra lệnh.
Cánh cửa mở. Một người lính đi ra.
– Sao! Chơi trò ú tim đấy à? Tên quân cảnh quát.
– Tôi đi lỏng! Tôi tưởng cầu tiêu là để đi ngoài.
– Ra thế đấy! Anh chọn đúng lúc nhỉ? Anh tưởng làm thế là trôi đấy hả?
Người lính cởi áo capôt, để lộ một huân chương Thập tự sắt hạng nhất. Anh ta nhìn tên quân cảnh không có huân chương rồi nói, vẻ ngạo mạn và bình tĩnh.
– Phải, tôi cho thế là trôi đấy.
Tên quân cảnh đỏ mặt. Tên y tá đứng lên trước hắn.
– Anh xuống đi! Hắn nói mà không nhìn người lính.
– Anh chưa xem tôi bị làm sao mà.
– Trông băng là khắc biết. Mời anh đi xuống.
Người lính mỉm cười, yếu ớt.
– Được, anh ta nói.
– Xong cả rồi chứ? Tên y tá nóng nảy hỏi tên quân cảnh.
– Xong rồi.
Tên quân cảnh liếc nhìn lần cuối cùng những người đi phép vẫn cầm giấy tờ trong tay rồi xuống tàu sau tên y tá.
Cửa cầu tiêu khẽ mở. Một viên đội nấp trong đó suốt thời gian tàu bị kiểm soát, lẻn vào trong toa. Mặt y vã mồ hôi. Y ngồi phịch xuống ghế. Lát sau, y thì thầm.
– Chúng nó đi rồi chứ?
– Hình như vậy.
Y nín lặng, vẻ mệt lả lộ rõ.
– Tôi sẽ cầu nguyện cho anh ta, lát sau y nói.
Các bạn đồng đội nhìn y. Một người hỏi:
– Sao? Cậu định cầu nguyện cho thằng quân cảnh khốn nạn đấy à?
– Không, không phải hắn. Tôi cầu nguyện cho anh bạn cùng nấp với tôi trong cầu tiêu. Chính cậu ấy khuyên tôi cứ ở lại, cậu ta sẽ có cách đối phó. Cậu ấy đâu rồi?
– Ngoài kia. Chúng tóm được anh ta rồi. Anh ta làm con lợn ỉ đấy tức điên lên đến nỗi quên cả nhìn vào cầu tiêu.
– Tôi sẽ cầu nguyện cho anh ta, lát sau y nói.
– Cậu thích thì cứ việc.
– Tôi tên là Lutgien. Nhất định tôi sẽ cầu nguyện cho cậu ta.
– Được, nhưng bây giờ thì im đi. Một người khác bực mình nói. Mai cậu hãy cầu nguyện. Hãy chờ cho tàu đi đã.
– Tôi sẽ cầu nguyện. Tôi cần phải về nhà. Nếu phải vào bệnh viện dã chiến, tôi sẽ không được nghỉ phép. Tôi phải trở về Đức. Vợ tôi bị ung thư. Cô ấy mới ba mươi sáu tuổi, anh hiểu chứ. Tháng mười này là đúng ba mươi sáu. Cô ta nằm liệt giường bốn tháng nay rồi.
Y nhìn mọi người với cái nhìn của con thú đang bị săn đuổi. Không ai trả lời y.
Một giờ sau, tàu mới chạy. Người lính trốn ra ngoài đường tàu không thấy trở lại. Gơrebê nghĩ, chắc chúng tóm được anh ta rồi. Khoảng giữa trưa, một hạ sĩ tới.
– Ở đây có ai muốn cạo mặt không?
– Hả?
– Cạo mặt. Tôi là thợ cạo, tôi có xà phòng cạo râu tốt lắm. Xà phòng Pháp.
– Tàu đang chạy mà sao cạo được?
– Được chứ. Tôi vừa làm ở toa sĩ quan xong.
– Bao nhiêu?
– Năm mươi xu. Một nửa mác[19]. Không đắt đâu vì còn phải lấy kéo cắt râu trước đã.
– Được rồi.
Một người về phép rút ví ra.
– Anh làm đứt mặt tôi là tôi không trả tiền đâu nhé.
Viên hạ sĩ quan đặt một chén đầy nước lên bàn nhỏ trong toa và lấy trong túi xách ra một cái lược và một cái kéo. Y mang theo một bao giấy để đựng râu, tóc đã cạo rồi. Sau cùng y xoa cho xà phòng nổi bọt. Y cạo gần cửa sổ. Bọt xà phòng trắng toát trông như lấy tuyết để cạo mặt. Y thật khéo tay. Có ba người lính đến cắt tóc. Thương binh thì từ chối. Gơrebê tới ngồi chỗ người lính thứ ba. Anh ngạc nhiên nhìn ba người lính vừa cạo mặt xong. Phần dưới khuôn mặt, đỏ và xạm đen vì sương gió là cái cằm trắng và nhẵn, trông thật là lạ. Nghe tiếng lưỡi dao đưa trên má, Gơrebê có một cảm giác sung sướng. Đó là sự tiếp xúc đầu tiên với cuộc sống bình thường. Hơn thế nữa, người cạo mặt cho anh lại ở cấp bậc trên anh.
Quá trưa, tàu dừng lại lần nữa. Xe nhà bếp lưu động đợi sẵn ở sân ga. Mọi người mang gamen đi ra nhận khẩu phần. Chỉ một mình Lutgien ở lại trong toa. Trước khi đi ra, Gơrebê thấy môi y mấp máy. Anh ta vừa cầu nguyện vừa lồng bàn tay phải của anh vào một cánh tay khác không thấy được. Tay trái bị băng được đeo ở trong áo khoác. Người ta phát cho họ củ cải đã nguội.
Khi qua biên giới, trời đã tối. Mọi người phải xuống hết và những người được về phép được đưa đến trại khử trùng. Họ giao quần áo cho người gác và trần như nhộng, họ ngồi đợi cho đến lúc rận chấy chết hết. Gian phòng ấm áp, có nước nóng, lại có xà phòng sặc mùi diêm sinh. Đã hàng háng nay, đây là lần đầu tiên, Gơrebê ngồi trong một gian phòng được sưởi ấm thật sự. Ngoài mặt trận, cũng có bếp lò, nhưng chỉ nửa người phía quay vào lửa là được sưởi ấm. Ở đây người ta cảm thấy có một lớp hơi nóng ấm áp, bao bọc thân mình một cách khoan khoái. Xương cốt giãn ra, trí óc từ từ tan giá.
Họ tìm bắt rận và lấy móng tay giết kêu tanh tách. Gơrebê không có chấy. Rận ở quần áo và ở người, không bao giờ ăn lên da đầu, đó là luật thiên nhiên, lâu đời mà lính ta biết rất rõ. Chấy và rận biết tôn trọng lãnh thổ của nhau, chúng không biết đến chiến tranh.
Hơi nóng làm anh buồn ngủ. Anh ngắm thân thể trắng phau của các bạn, những vế nẻ ở chân và những vết sẹo đỏ hỏn. Binh phục của họ có lẽ treo ở phòng khử trùng. Họ chỉ còn là những con người trần như nhộng, đang bình thản bắt rận và chỉ việc ấy cũng đủ làm cho câu chuyện đổi chiều hướng.
Không còn bàn đến chiến tranh nữa. Họ tán về ăn uống và đàn bà.
– Cô ả có một đứa con, một người tên là Becna nói. Y ngồi cạnh Gơrebê và đang lấy gương nhỏ soi vào lông mày để bắt rận ở đó.
– Tớ đi vắng đã hai năm rồi, mà đứa bé thì được bốn tháng. Cô ta nói con được mười bốn tháng và tớ là bố nó. Nhưng mẹ tới viết thư cho tớ nói nó là con một thằng Nga. Bà cụ cũng mới cho tớ biết được mười tháng nay. Trước kia không bao giờ đả động đến nó. Các cậu nghĩ thế nào về việc này?
– Chuyện đó có thể có chứ, một người hói trán, nói với vẻ thờ ơ. Ở nước ta, thiếu gì trẻ nhỏ, bố là tù binh ngoại quốc.
– Được, thế thì sao nữa? Ở địa vị tớ, cậu sẽ làm gì?
– Tớ tống con mẹ ra khỏi nhà, một người đang cuốn lại băng chân nói. Đồ thối thây!
– Đồ thối thây à? Tại sao lại là đồ thối thây?
Người hói trán lắc đầu.
– Thời buổi chiến tranh, cái gì cũng thay đổi. Phải hiểu như thế mới được. Đứa bé là trai hay gái?
– Trai. Cô ả viết thư nói nó giống tớ lắm.
– Nếu là trai, cậu cứ giữ lấy mà nuôi. Ở nông thôn, thế nào chẳng cần đến con trai.
– Phải, nhưng nó lai Nga.
– Thì sao? Người Nga cũng là giống aryen mà tổ quốc thì đang cần lính.
Becna đặt gương xuống.
– Không đơn giản đâu. Cậu nói như vậy được nhưng cậu có phải người trong cuộc đâu.
– Thế có lẽ cậu ưng trai loại nòi Đức, có chứng chỉ đàng hoàng làm cho vợ cậu có con chắc?
– Đâu có thể.
– Thấy chưa.
– Lẽ ra cô ả nên chờ tớ về thì phải, Becna nói nhỏ.
Anh hói trán nhún vai.
– Có người chờ, có người không chờ được. Khi ta vắng nhà hàng năm trời thì đừng đòi hỏi nhiều quá ở họ.
– Anh có vợ chưa?
– Nhờ trời! Chưa!
– Bọn Nga không phải giống aryen. Một người bé nhỏ, mặt chuột, môi mím chặt, từ đầu chưa nói câu nào, bỗng xen vào làm ai nấy đều nhìn y.
– Cậu lần rồi, người hói trán nói. Họ là giống người aryen, chứng cớ là chúng ta đã từng là đồng minh với họ.
– Đó là giống người hạ đẳng, người bônsêvich hạ đẳng, chứ không phải giống aryen. Trên lý thuyết là vậy.
– Cậu lầm rồi. Bọn Ba Lan, Tiệp, Pháp là giống người hạ đẳng, nhưng người Nga là giống aryen và chúng ta đang giải phóng cho họ khỏi ách cộng sản. Có lẽ chúng không phải người aryen thượng đẳng như chúng ta mà là người aryen hạ cấp. Chúng ta không tiêu diệt họ đâu.
Người có bộ mặt chuột sửng sốt:
– Tớ đã bảo đấy là giống người hạ đẳng. Trên ý thuyết là như vậy. Tớ đảm bảo đúng mà.
– Phải nhưng điều đó đã thay đổi từ lâu lắm rồi. Như với người Nhật vậy. Khi ta là đồng minh với họ thì họ là người aryen. Người aryen da vàng.
– Cả hai cậu đều nói sai hết, một người rậm long, có giọng rất trầm, nói xen vào. Khi người Nga còn là đồng minh của chúng ta thì họ không phải là người hạ đẳng. Bây giờ thì hung không phải người aryen nữa. Phải hiểu như thế đấy.
– Còn đứa bé thì làm thế nào bây giờ?
– Giết nó đi, người có bộ mặt chuột nói với vẻ hách dịch. Làm thế nào cho nó chết mau và không đau đớn, không còn cách nào khác.
– Thế còn mẹ nó?
– Đấy là việc của chính quyền. Phải cạo trọc đầu nó, lấy sắt nung đỏ đóng dấu vào người rồi tống vào trại tập trung hay cho lên giá treo cổ.
– Thế mà họ chưa làm gì đấy, Becna nói.
– Nếu thế chắc họ chưa biết gì.
– Họ biết cả rồi. Mẹ tớ nói với họ.
– Nếu vậy, nhà chức trách đã thoái hóa rồi. Phải cho cả bọn ấy vào trại tập trung hay lên giá treo cổ.
– Thôi để tao yên nào, Becna bỗng nổi giận quát to và quay mặt đi.
– Giá là một thằng Pháp thì hay biết mấy, người hói trán nói. Căn cứ vào nghiên cứu mới đây thì dân Pháp cũng có chút máu aryen trong người.
– Bọn Pháp cũng thoái hóa rồi, người có giọng trầm ngắt lời.
Gơrebê như thoáng thấy nụ cười hiện trên mặt y. Một người khác đi lại trong phòng, chân vòng kiềng, vẻ sốt ruột. Y dừng lại ngực ưỡn như gà trống.
– Chúng ta thuộc giống người làm chủ, dứt khoát là như vậy rồi, còn bọn khác là nô lệ. Nhưng tớ muốn biết những người bình thường thì họ là gì?
Người hói trán ra vẻ suy nghĩ và nói:
– Người Thụy Điển hay Thụy Sĩ chẳng hạn.
– Chúng là bọn dã man, người có giọng trầm nói.
– Giống da trắng làm gì còn người dã man, người có bộ mặt chuột nói.
– Cậu tưởng thế chứ? Người có giọng trầm nhìn hắn chăm chăm với vẻ đần độn và nói.
Gơrebê thấy buồn ngủ. Anh nghe lơ mơ như bọn ấy lại tiếp tục nói đến chuyện đàn bà. Anh không thấy hứng tham gia cuộc tranh cãi. Những lý thuyết về chủng tộc của nước anh không phù hợp chút nào với quan niệm của anh về tình yêu. Anh thấy ghê tởm khi phải đặt những vấn đề thuộc tình cảm lẫn với những thuyết lựa chọn giống nhân tạo, thế hệ đồ[20]. huyết thống về giống nòi và việc thụ thai. Vả chăng, đời lính chỉ cho anh tiếp tục với những gái điếm ở những nước mà anh đã chiến đấu qua. Họ cũng thực tế như những hội viên Liên đoàn Phụ nữ Đức, nhưng ít ra họ còn có thể được dung thứ vì họ phải làm cái nghề họ không được tự do lựa chọn.
Mọi người lấy lại quần áo để mặc. Họ trở lại thành quản, đội, cai và hạ sĩ quan. Người có đứa con lai Nga là hạ sĩ. Người có giọng trầm cũng vậy. Người có bộ mặt chuột là binh nhì. Khi thấy những người khác là hạ sĩ, y hạ giọng. Gơrehê xem lại áo varơ của mình. Cái áo còn nóng hổi và nồng nặc mùi diêm sinh. Dưới ve áo, anh thấy một đám rận bị chết ngạt. Anh lấy móng tay cạo sạch đám rận đi.
Người ta lại dẫn họ vào một căn nhà gỗ nghe một sĩ quan chính trị thuyết cho họ một lát. Đứng trên một cái bục, phía trên là hình Quốc trưởng, hắn giảng cho mọi người biết rằng trước khi đặt chân trở lại quê hương xứ sở, họ có một trách nhiệm nặng nề. Họ không được nói hở một câu nào về những điều tai nghe mắt thấy ngoài mặt trận. Những vị trí đóng quân, những cuộc chuyển quân, những địa điểm chiếm đóng phải được giữ tuyệt mật. Tai mắt kẻ thù luôn rình mò ở khắp nơi. Phải im lặng hoàn toàn. Ai bép xép sẽ phải chịu những trừng phạt nặng nhất. Những phản ứng không đúng lúc cũng là tội phản quốc. Quốc trưởng đích thân chỉ huy các chiến dịch; người biết công việc của người. Nhưng tình hình cũng sáng sủa đấy chứ: quân Nga đang rẫy chết, kiệt quệ vì những tổn thất nặng nề; một cuộc phản công không gì chống lại được đang được chuẩn bị; việc tiếp tế cho quân đội không thể chê vào đâu được: chưa lúc nào tinh thần quân đội lại cao như bây giờ. Vì vậy, bất cứ một lời sơ hở nào về tình hình mặt trận cũng là tội phản quốc, mọi lời chỉ trích cũng vậy. Sở Ghextapô luôn chú ý, nó có mặt cùng một lúc ở khắp mọi nơi, không ai có thể tránh nó được - Viên sỹ quan đổi kiểu đứng rồi hắn nói tiếp với một giọng khác - Tuy nhiệm vụ nặng nề, Quốc trưởng vẫn đích thân săn sóc từng binh sĩ của người như cha đối với con. Người đã quyết định tặng mỗi người đi phép một món quà mang về cho gia đình. Vì vậy, mỗi người được phép cầm theo một gói đồ ăn cá nhân. Gói quà phải được giao nguyên vẹn đến tận tay người nhà để chứng tỏ binh lính ngoài mặt trận được tiếp tế đầy đủ, dư thừa đến mức có thể tặng quà cho dân. Ai mở gói quà ở dọc đường sẽ bị nghiêm trị. Khi đến ga sẽ có kiểm tra. Hitle muôn năm!
Tất cả đứng nghiêm. Gơrebê đoán mọi người sẽ phải hát bài “Nước Đức trên hết” và bài ca “Horst Vessenlied”[21] Đệ tam đế chế không hà tiện gì những bài ca ái quốc.
Những không đúng vậy. Trái lại, một lệnh bất ngờ vang lên:
– Những người đi phép về vùng Renan[22], tiến lên một bước. Vài người bước lên.
– Đã bãi bỏ những chuyến tàu chở người đi phép về Rênani. Viên sĩ quan nói tiếp.
– Anh muốn đi đâu? Hắn hỏi người đứng gần nhất.
– Đi Côlônhơ.
– Tôi vừa nói là không được phép về Rênani, viên sĩ quan nổi cáu. Anh chọn nơi khác mà nghỉ.
– Tôi quê ở Côlônhơ, người lính thất vọng cãi lại.
– Tôi nhắc lại là anh sẽ không đi Côlônhơ, anh hiểu tiếng Đức không. Anh có muốn đến thành phố nào khác không?
– Tôi không muốn đi đâu cả. Vợ con tôi ở cả Côlônhơ. Tôi làm thợ khóa ở đấy. Giấy phép của tôi là đề đi Côlônhơ.
– Tôi biết rồi. Nhưng không đi Côlônhơ được. Phải nói bao nhiêu lần nữa, anh mới hiểu được rằng tạm thời cấm đi Côlônhơ.
– Cấm à? Người thợ khóa hỏi. Sao lại cấm?
– Anh điên ư? Ở đây ai có quyền hỏi? Anh hay cấp trên của anh?
Một viên đại úy đến gần viên sĩ quan nói nhỏ vài câu. Hắn gật đầu.
– Những người về nghỉ phép ở Hămbua[23] và Andatxơ[24] tiến lên một bước.
Không ai nhúc nhích.
– Những người đi phép về Rênani đứng lên đây. Còn những người khác, bên trái quay. Đi đều bước! Phát các gói quà đi.
Mọi người lại gặp nhau ở sân ga. Vài phút sau, những người đi phép về Rênani cũng trở lại đây.
– Có chuyện gì thế? Người có giọng trầm hỏi.
– Cậu nghe rõ rồi đấy.
– Cậu không đi Côlônhơ được à? Thế cậu định đi đâu?
– Đi Rôthenbua. Tôi có người chị ở đó. Nhưng tôi đến Rôthenbua làm gì nhỉ? Nhà tôi ở Côlônhơ. Có gì ở Côlônhơ mà lại cấm đến đấy?
– Cẩn thận! Có người nói khi thấy hai tên SS đi ủng kêu kin kít đến gần.
– Mặc mẹ chúng! Tôi đến Rôthenbua làm gì mới được chứ. Cả gia đình tôi ở Côlônhơ. Ở đây có chuyện gì vậy?
– Có thể gia đình cậu cũng đến Rôthenbua không chừng?
– Chắc chắn là không. Ở đấy không có đủ chỗ. Mà chị tôi với vợ tôi không hợp nhau. Không biết có chuyện gì ở Côlônhơ vậy?
Anh thợ khóa nhìn các bạn, vẻ tuyệt vọng. Mắt anh ta rưng lệ, đôi môi dày run run.
– Tại sao, các cậu được về nhà cả, còn tôi lại không được về. Chờ đợi biết bao lâu rồi. Có chuyện gì vậy? Không biết vợ con tôi ra sao? Thằng Gioóc lớn nhất đã mười một tuổi. Biết làm sao bây giờ?
– Hãy nghe tớ, người có giọng trầm nói. Cậu không làm gì được đâu. Đánh điện cho vợ cậu bảo cô ấy đến Rôthenbua gặp cậu. Không làm thề thì không gặp nhau được đâu.
– Thế đi đường, ai trả tiền tàu cho. Rồi biết ăn ở vào đâu?
– Nếu cậu không được phép đi Côlônhơ thì vợ cậu cũng không được phép rời khỏi đấy, người có bộ mặt chuột nói. Nhất định là có lệnh cấm rồi.
Anh thợ khóa mở miệng nhưng không nói gì. Sau một phút im lặng, anh ta chỉ nói:
– Phải, có lẽ thế đấy.
Anh quay nhìn lần lượt từng người.
– Không có lẽ chỗ nào cũng bị tàn phá cả?
– Cậu hãy lấy làm sung sướng là chúng không tống cậu ra mặt trận đấy, người có giọng trầm nói. Có thế cũng chẳng lấy gì làm lạ.
Gơrebê lắng nghe, không nói gì. Anh rùng mình. Cái lạnh không phải từ bên ngoài vào. Mối đe dọa nặng nề vô hình vẫn lẩn quất từ lâu lại để chĩa xuống người anh. Anh thấy nó đến gần, lánh xa rồi trở lại một cách nham hiểm, nó ngắm nhìn anh bằng cả trăn ngàn bộ mặt của nó nhưng không bộ mặt nào là thật. Anh nhìn những con đường chạy tít về phía chân trời. Về phía chân trời, về căn nhà ấm cúng của anh, của gia đình anh, về với hòa bình, với tất cả những gì còn sót lại, bền vững và bảo đảm đối với anh. Nhưng mối đe dọa như cũng đi về phía Tây, theo những đường sắt, mất hút và lẫn vào nhau tận chốn xa xăm. Có lẽ nó còn ẩn náu ở chân trời, đáng sợ hơn là ở nơi tiền tuyến.
– Phép với tắc! Người thợ khóa chua chát nói. Tôi biết làm gì với cái phép này nhỉ?
Những người khác nhìn anh ta và không nói gì. Hình như một căn bệnh bí hiểm bỗng xuất hiện trên người anh. Rõ là anh vô tội nhưng từ nay trở đi, anh đã phải mang dấu ấn của tai họa, và tự nhiên các bạn anh lánh xa anh. Họ mừng là đã tránh được tai họa, nhưng họ vẫn cảm thấy bị đe dọa. tai họa lại hay lây.
Đoàn tàu đi chầm chậm dưới mái che rồi dừng lại. Mọi người thình lình bị chìm trong bóng tối mờ mờ, như có tấm màn đen vừa được kéo, che kín sân ga.
[19] Mác: (Deutsch mark) đơn vị tiền tệ của Đức
[20] Biểu đồ theo dõi những mối quan hệ và huyết thống, về những chi, dòng của một gia đình lớn.
[21] Tên quốc ca Đức (Deustchland uber alles), nhạc của Joseph Haydn, sáng tác năm 1797. Lời của Hoffmann Phalechelen, sáng tác ngày 6/7/1841 trong khi chơi trên bờ biển Holigolan. Thổng thống Đức đầu tiên Phrê drich Êbe đã chính thức kí lệnh lấy bài hát đấy là quốc ca, nhân dịp kỉ niệm lần thứ ba Hiến pháp Vâyma 17/8/1922. Ngày 12/2/1995, hang vạn nhân dân Béclin đã hát bài này khi Phôm Hindebua ra mắt nhân dân dịp nhậm chức thay Êbe. Bài hát coi như nói lên nguyện vọng của dân tộc Đức, tên bài hát lấy ở câu đầu của bài. Nó trở nên rất phổ thông về sau, tuy nó không phù hợp với tinh thần quốc xã của phát xít Đức nhưng Hitsle không dám bỏ đi mà vẫn dùng làm quốc ca. Hiện nó vẫn được dùng làm quốc ca của Cộng hòa Nhân dân Đức, chỉ phần thứ 3 được dùng.
Bài ca Horst Vessenlied là bài hát chính thức của đảng Quốc Xã Đức. Hoocsơ Vetxen là một thanh niên Đức, một đội trưởng SA bị chết trong một cuộc rối loạn do phát xít gây ra. Bài hát này có xu hướng hoàn toàn phát xít, thường được hát sau bài quốc ca từ năm 1943 đến 1945. Người ta tưởng nước Đức có 2 bài quốc ca chứ không phải một.
[22] Khu vực công nghiệp phát triển bậc nhất của Đức.
[23] Một trong những thương cảng lớn nhất của Đức, ở phía bắc nước Đức, trên bờ sông Enbo và biển Bắc, hiện thuộc khu vực Cộng hòa Liên bang Đức.
[24] Một quận thuộc vùng Đông Bắc nước Pháp, giáp giới với Đức bị Đức chiếm đóng sau chiến tranh 1870 đến hết thế chiến thứ nhất. Thủ phủ là Xtraxbua. Một quận thuộc vùng Đông Bắc nước Pháp, giáp giới với Đức bị Đức chiếm đóng sau chiến tranh 1870 đến hết thế chiến thứ nhất. Thủ phủ là Xtraxbua.