Chương 6
Buổi sáng phong cảnh đã thay đổi. Nó nổi lên giữa một biển sương mù thành những làn sóng bạc. Gơrebê ngồi bên cửa sổ dán mặt vào kính. Anh nhìn không biết chán, cánh đồng và những luống cày đều dặn màu đen, những đồng cỏ bắt đầu xanh mởn, có đều những vệt tuyết trắng lướt qua.
Không có hố bom, không có những cảnh tàn phá. Một cánh đồng nhẵn và phẳng. Không có chiến hào, không có lô cốt, cánh đồng.
– Làng đầu tiên đã xuất hiện. Nhà thờ với con gà vàng chóe[25] trên nóc, một ngôi trường, trên mái có cái chỉ hướng gió đang quay chầm chậm, cái quán ăn có một toán nông dân đang đi ra, những căn nhà, cửa rộng mở, một cô gái quê cầm chổi đang quét, một chiếc xe ngựa, tia nắng đầu tiên lóng lánh rọi vào hành ngàn chiếc cửa sổ, kính còn nguyên vẹn, trại ấp sơn quét như đồ chơi trẻ con, cây cối không có thương tích, đường phố đầy học sinh. Đã bao lâu Gơrebê không trông thấy trẻ con rồi. Anh thở dài ảo não. Đó là tất cả những cái mà Gơrebê hằng mong đợi, những cái mà cuối cùng anh đã tìm thấy, chúng đang ở đó, đơn giản, gần gụi. Rõ ràng và chắc chắn là vẫn tồn tại.
– Ở đây, cái gì cũng có vẻ khác nhỉ, phải không? Một hạ sĩ quan ngồi ở cửa sổ bên, nói sang.
– Phải, Gơrebê xúc động trả lời.
Sương mù tan dần. Rừng xuất hiện ở phía chân trời. Bây giờ thì mắt có thể nhìn bao quát tới những khoảng rộng mênh mông. Đường dây điện chạy theo tàu. Những chùm dây điện vút bổng lên trời rồi bất thần rơi xuống khi bóng một cột điện hiện ra như những dòng nhạc của một bản giao hưởng vô tận và lặng lẽ. Khi tàu đi qua, chim bay lên rồi lại đậu xuống xa hơn một chút. Cánh đồng thật yên tĩnh. Tiếng súng gầm thét ngoài mặt trận đã tắt. Không thấy bóng một chiếc máy bay. Gơrebê có cảm giác như anh ra đi đã hàng tuần nay. Những khuôn mặt bạn bè đã bắt đầu mờ dần trong ký ức anh.
– Hôm nay là thứ mấy?
– Thứ tư.
– Phải, hôm qua là thứ ba. Không biết hôm nay có được phát cà phê không?
– Sao lại không? Ở đây, đời sống vẫn như ngày trước mà.
Vài người lấy bánh ở túi dết ra ăn. Gơrebê vẫn đợi, anh muốn ăn bánh mì với cà phê. Anh nghĩ đến những bữa sáng thời bình. Trên tấm khăn bàn kẻ ô xanh và trắng, mẹ anh bầy mật ong, bánh sừng bò và sữa nóng quanh bình cà phê. Ngoài cửa sổ, con chim kim tước hót líu lo và anh sáng vuốt ve những bông hoa phong lữ thảo. Anh thường lấy ngón tay vò nát một chiếc lá đầy đặn, màu xanh đậm để ngửi mùi thơm quyến rũ và kỳ lạ gợi lên những xứ xa xôi. Những năm gần đây, không phải anh không được đi, nhưng những chuyến đi ấy khác hẳn những chuyến đi mà anh thường mơ ước trước đây.
Anh lại quay ra bên cửa sổ. Bây giờ anh thấy tự tin hơn. Những người đang làm đồng đứng hẳn lên để trông đoàn tàu đi qua. Trong đó, có cả đàn bà chít khăn màu sặc sỡ. Viên hạ sĩ quan hạ cửa kính xuống và đưa tay vẫy họ. Không ai đáp lại.
– Đồ ngốc, kệ xác chúng mày, hắn thất vọng rủa.
Vài phút sau, họ lại đi qua một cánh đồng khác, có một toán vừa đàn ông lẫn đàn bà đang làm việc. Viên hạ sĩ nhổ hẳn người ra cửa sổ và vẫy tay lia lịa. Không ai động đậy.
– Chúng ta chiến đấu cho những kẻ như thế đấy, viên hạ sĩ chua chát nói.
– Có lẽ đó là tù hay công nhân ngoại quốc.
– Trong đó cũng có khá nhiều đàn bà. Họ có thể trả lời được chứ.
– Có thể họ là phụ nữ Ba Lan hay Nga.
– Lạ thật. Trông bề ngoài không có vẻ như vậy. Nhưng thế nào chả có phụ nữ Đức.
– Tàu của ta là tàu chở thương binh, người hói trán nói. Điều đó làm người ta dễ xúc động lắm. Đúng là vì thế đấy.
– Đồ thô bỉ, viên hạ sĩ kết luận, đồ nhà quê, đồ chăn ngỗng.
Hắn kéo mạnh cửa kính lên.
– Ở Côlonhơ, đàn bà không như vậy đâu, anh thợ sửa khóa nói.
Đoàn tàu cứ tiếp tục đi. Nó dừng lại hai giờ trong một đường ngầm. Các toa không có đèn, mọi người phải ngồi trong bóng tối dày đặc. Tuy đã quen sống ở hầm tối, dưới mặt đất, một cảm giác lo lắng vu vơ làm mọi người nín lặng không nói chuyện. Họ hút thuốc. Những chấm đỏ lập lòe đi ngang dọc trong bóng tối như đom đóm.
– Chắc máy lại hỏng ở đâu rồi, viên hạ sĩ nói.
Mọi người lắng nghe. Nhưng không có tiếng máy bay và tiếng nổ.
– Anh đã đến Rôthenbua lần nào chưa? Anh thợ khóa hỏi.
– Hình như đó là một thành phố cổ thì phải? Gơrebê nói.
– Anh đã đến đấy chưa?
– Chưa. Cả anh cũng thế phải không?
– Phải. Tôi đến đấy làm gì mới được chứ?
– Đáng lẽ anh xin đi Beclin thì hơn, người có bộ mặt chuột nói. Ít khi được đi phép lắm mà ở Beclin vui hơn các nơi khác.
– Tôi không muốn đi chơi, mà khách sạn thì đắt. Tôi muốn gia đình.
Tàu chuyển bánh.
– Có thể chứ! Người có giọng trầm nói. Tớ tưởng chúng mình bị chôn ở đây.
Trong đêm tối, đã có những vết trắng lao vút. Những vệt đỏ sáng dần. Rồi thình lình cảnh vật hiện ra, tươi vui hơn cách đây hai giờ. Mọi người chen nhau bên cửa sổ. Theo bản năng, họ tìm dấu vết bom đạn. Họ không thấy gì. Buổi sớm tinh mơ làm họ say sưa như uống rượu ngọt.
Vài giờ sau, đoàn tàu dừng lại. Người có giọng trầm xuống tàu, viên hạ sĩ và hai người đi phép khác cũng xuống theo. Trời trở nên u ám. Mây xanh từ phía mặt trời lặn lóe lên. Lần đầu tiên Gơrebê nhận thấy vùng này quen thuộc với mình. Anh không nhận ra một căn nhà, một quả đồi, một làng xóm nào đặc biệt nhưng toàn bộ phong cảnh, lần đầu tiên đã nói với anh bằng tiếng nói quen thuộc. Những hồi ức từ mọi phía dồn dập đến, thôi thúc, với một vẻ âu yếm gần như hung bạo. Hình dáng mọi vật đều mờ ảo, không sự việc rõ rệt nào hiện lên trong trí óc anh, anh như mơ thấy chuyện này hơn là sống thật nhưng dưới những hình ảnh mơ hồ đó, cái thế giới tìm lại được ngập trong anh với một sức mạnh không gì ngăn cản nổi.
Các tên ga dần dần trở nên quen thuộc. Những nơi mà trước kia anh đã đến chơi, lướt qua. Ký ức anh thấy bầu không khí trong sáng chứa đầy mùi hoa việt quất, nhựa thông và hoa rành chổi. Thành phố chắc không còn xa nữa. Gơrebê buộc ba lô lại và đứng bên cửa toa, chờ những ngôi nhà đầu tiên xuất hiện.
Tàu dừng lại. Nhiều người xuống. Gơrebê nhô người ra phía sân ga. Có người kêu to tên thành phố của anh.
– Về cho vui nhé, anh thợ khóa nói.
– Chưa đến nơi mà, ga ở giữa thành phố cơ.
– Có lẽ nào dời ra đây. Cậu nên hỏi xem.
Những quân nhân mới tới, vai đeo sắc, đã che kín cửa toa. Gơrebê cố nhận ra nơi này.
– Đến Vecđen rồi à?
Nhiều hành khách ngước mặt lên nhưng không ai trả lời anh. Anh quyết định xuống tàu. Một nhân viên hỏa xa kêu to: “Hành khách đi Vecđen, xin mời xuống”. Anh đeo ba lô lên vai và chen tới người đó, hỏi:
– Tàu không đi xa nữa sao?
Người nhân viên hỏa xa, vẻ mệt mỏi, nhìn anh.
– Anh đi Vecđen à?
– Phải.
– Rẽ bên trái qua chỗ đường chắn, xe buýt ở đó.
Gơrebê đi quanh đoàn tàu đến trước mặt một ngôi nhà gỗ nhỏ mới sơn hắc in, trước đây anh chưa trông thấy. Một chiếc xe buýt đậu sau ngôi nhà đó. Anh đến gần người lái xe:
– Xe đi Vécđen à?
– Phải.
– Tàu không vào tỉnh nữa à?
– Không.
– Tại sao vậy?
– Vì nó không vào nữa.
Gơrebê nhìn người lái xe. Anh biết có hỏi thêm cũng vô ích. Anh cũng không biết gì hơn. Anh thong thả lên xe và ngồi vào một góc. Trời đã về chiều. Những thanh đường sắt trông có vẻ còn mới, nom sáng loáng lượn sang phía đông thành phố. Đoàn tàu đã bắt đầu chuyển bánh. Gơrebê ngồi nép vào một góc. “Có lẽ người ta đổi hướng tàu để phòng bất trắc”. Anh nghĩ mà không tin như vậy.
Xe buýt cũng bắt đầu chạy. Chiếc xe cũ rích đã được sửa lại cẩn thận.
Nhiều xe Mécxêđéc[26] loại sang đã vượt lên. Trong xe có các sĩ quan Vécmắc[27] và sĩ quan SS. Hầu như không ai nói gì, chỉ có tiếng reo vui của một em bé chạy giữa hai hàng ghế. Cô bé tóc vàng, đeo một chiếc nơ xanh. Em chừng hai tuổi.
Những phố đầu tiên xuất hiện. Chúng còn nguyên vẹn. Gơrebê thở phào. Chiếc xe xóc nảy lên khoảng một trăm mét rồi dừng lại.
– Tất cả xuống xe.
– Đây là đâu nhỉ? Gơrebê hỏi người ngồi bên cạnh.
– Phố Brămsơ.
– Xe không đi xa hơn nữa à?
– Không.
Họ xuống xe.
– Tôi được nghỉ phép. Gơrebê giải thích. Đã hai năm nay, đây là lần đầu.
Anh cảm thấy cần phải nói điều đó với người đầu tiên anh gặp.
Người kia nhìn anh. Trán người đó có một vệt sẹo còn mới và hàng răng cửa đã mất.
– Anh ở đâu?
– 18, phố Haken.
– Ở khu phố cũ à?
– Phải, ở rìa khu phố cũ, Góc phố Luiđơ. Ở đó có thể trông thấy nhà thờ Xanh Catơrin.
– À, đúng!
Người đó ngước mắt nhìn bầu trời u ám.
– Anh biết đường chứ?
– Tất nhiên. Không dễ mà quên được.
– Đúng. Anh đi cho may mắn nhé.
– Cảm ơn.
Gơrebê bước vào phố Brămsơ. Anh lo lắng nhìn những dãy nhà. Tất cả còn nguyên vẹn. Anh trông lên các cửa sổ. Cửa sổ nào cũng tối đen. Anh nghĩ, tất nhiên là phải thế thôi để phòng máy bay. Anh thấy lòng tràn ngập một nỗi thất vọng mà ngay lúc đó anh cho là ngây thơ. Tự nhiên, anh mong rằng thành phố sáng rực ánh đèn như ngày trước. Anh rảo bước. Anh đi ngang qua một hiệu bánh mì mà không thấy bóng một chiếc bánh mì nào. Tủ kính chỉ phô ra trước mặt khách một bình hoa giả. Rồi đến một cửa hiệu tạp hóa, trên quầy chỉ có những gói hàng rỗng. Cách một quãng xa nữa anh nhận ra một cửa hiệu làm yên ngựa. Khi còn bé anh đã ngắm mãi một con ngựa nhồi rơm thắng cả một bộ yên cương bằng da màu hung. Anh đến gần tủ kính. Con ngựa vẫn còn đó nhưng bộ yên đã biến mất. Nhưng anh còn thấy được con chó săn cũng nhồi rơm, cứng đờ đang im lặng sủa. Khoảng mười năm về trước, khi can đảm lắm anh mới dám vuốt ve nó. Như vậy là không có gì thay đổi, anh lại tìm thấy cái thành phố cổ kính như lúc ra đi. Anh gặp một người lạ mặt đi ngược chiều với anh và anh cất tiếng vui vẻ nói: “Chào ông!” Lát sau anh mới nghe thấy có tiếng trả lời “Chào” ở sau lưng anh. Hè phố âm vang dưới đế bốt có đinh sắt của anh. Chỉ vài phút nữa thôi, anh sẽ đánh đổi đôi bốt bằng đôi dép nỉ. Anh sẽ tắm nước nóng, xức nước hoa, sẽ mặc một cái áo sơ mi sạch. Anh rảo bước đi nhanh. Đường phố đưa anh đi như một tấm thảm tiên.
Lúc đó anh mới ngửi thấy mùi khói. Anh dừng lại đột ngột. không phải mùi khói quen thuộc của củi gỗ hay lò sưởi. Đó là mùi khói một đám cháy. Anh nhìn xung quanh. Những mái nhà đen sạm bao quanh anh. Những ngôi nhà còn nguyên vẹn nổi lên trên bầu trời đen tối.
Anh lại tiếp tục đi. Con đường dẫn tới một quảng trường nhỏ có trồng cây. Mùi cháy mỗi lúc một khét hơn. Hình như nó lơ lửng, bám vào các cành cây. Gơrebê cố tình xem nó từ đâu bốc ra. Nó như từ khắp mọi nơi cùng tỏa ra một lúc, tưởng chừng than tro mưa xuống thành phố.
Đến một góc phố, anh thấy ngôi nhà đổ đầu tiên. Anh bị xúc động mạnh. Đã mấy năm nay anh vẫn sống giữa cảnh hoang tàn mà không hề bị ảnh hưởng. Nhưng anh chăm chú nhìn đống gạch vụn này như lần đầu tiên trống thấy một công trình bị phá hủy.
Anh nghĩ, chỉ có một căn thôi. Một căn nhà lẻ loi. Các nhà khác đều không sao. Anh vượt qua căn nhà đổ và hít một hơi dài. Mùi khói dai dẳng không thể từ ngôi nhà này nom đã bị phá hủy từ lâu, mà ra được. Có lẽ căn nhà bị trúng một quả bom rơi, như thỉnh thoảng vẫn xảy ra chuyện đó khi máy bay đi ném bom trở về.
Anh tìm tên phố. Đây là phố Brêm. Phố Haken vẫn còn ở xa hơn. Còn phải đi ít ra chừng nửa giờ nữa. Anh rảo bước. Người đi đường mỗi lúc một thưa dần. Dưới một cổng xây, những bóng điện nhỏ phớt xanh chiếu ra một thứ ánh sáng tang tóc, bệnh hoạn.
Sau cùng, anh tới một khu bị phá hủy hoàn toàn. Nhà cửa sót lại chỉ còn là những mảnh tường đen thui, hình răng cưa đang vươn lên giữa trời. Những thanh dằm sắt lòi ra ngoài những đống gạch, cong queo như những con rắn. Một phần gạch vụn đã được xếp thành đống. Cả những đống gạch tan hoang này cũng có từ lâu rồi. Anh rời hè phố, bước vào đống gạch vụn. Trong bóng tối, có những bóng người mờ mờ leo lên những tảng đá như những con bọ hung to.
– Đằng kia có ai đấy không? Anh kêu to.
Gạch xô xuống vả tiếng động xa dần. Những bóng người đã biến mất. Gơrebê nghe có tiếng người thở hổn hển. Lắng tai nghe kĩ, anh nhận ra chính là tiếng thở của mình.
Bây giờ thì anh chạy. Mùi khét trở nên ngột ngạt. Những căn nhà đổ nối tiếp nhau. Cuối cùng thì anh đã đến khu phố cũ và anh dừng lại, mở to mắt nhìn cảnh vật trước mặt anh. Ngày trước, những ngôi nhà cổ kính, xà nhà lộ rõ, đầu hồi nhô ra ngoài, mái nhọn, có biển sơn màu rực rỡ, vốn là duyên dáng của cái khu này. Những ngôi nhà đó đã cháy như những bao diêm. Đây chỉ còn những đống gạch đen thui, ngói vụn, những đống đổ nát còn bốc khói nghi ngút, che lấp cả thành phố. Trên không lơ lửng một làn khói trắng mờ.
Anh tiếp tục chạy. Một mối lo làm đau đến thắt ruột, đang xâm chiếm anh. Anh vừa nghĩ đến một lò đúc đồng ở gần nhà bố mẹ anh. Có lẽ đó là mục tiêu của trận ném bom. Anh đi loạng choạng trong đống gạch vụn, leo qua những khối đá còn đang bốc khói, xô đẩy những người đi đường làm họ sửng sốt quay lại. Bỗng nhiên, anh đứng lại, không biết mình đang ở đâu nữa.
Thành phố, khu anh đã sống thời thơ ấu, đã bị xáo trộn sâu sắc đến nỗi anh không còn nhận ra nó nữa. Anh hỏi một người đàn bà đang rảo bước đi ngược lại phía anh.
– Đến phố Haken đi lối nào nhỉ?
– Cái gì? Bà ta hoảng hốt trả lời. Quần áo bà ta rách bươm và bà ta ôm hai tay che ngực.
– Phố Haken ở đâu?
Bà ta chỉ mơ hồ.
– Đằng kia, phía ấy, rẽ tay phải.
Anh lao vào phía ấy. Hai bên đường là những cây cụt đang vươn những cành đen thui, trụi lá với dáng van nài. Gơrebê tìm cách định hướng. Trước kia anh dùng mặt tiền của các căn nhà để tìm đường, bây giờ không nhà nào còn mặt tiền nữa. Đứng đây, đáng lẽ phải trông thấy tháp nhọn của nhà thờ Thánh Catơrin. Bầu trời trống rỗng. Có lẽ nhà thờ đã sụp đổ. Anh không dám hỏi ai. Anh thấy cáng xếp thành hàng giữa mặt đường. Người ta đang dùng cuốc đào bới, lính cứu hỏa đang bận rộn quanh một đám cháy. Nước bốc thành hơi trước khi tới chỗ ngọn lửa. Đó là lò đúc đồng đang cháy. Khi Gơrebê nhận ra nó, anh đã tìm thấy phố Haken.
[25] Ở châu Âu, cái chỉ hướng gió thường để hình con gà đậu trên một mũi tên, xoay quanh cái trục, được gắn trên các nóc nhà cao.
[26] Loại xe hơi tốt sang bậc nhất của Đức do hãng Mécxêđéc – Benz sản xuất
[27] Tên chỉ Quân đội Quốc xã (Wehrmacht)