Chương 8
Một ngày rạng rỡ bắt đầu. Một lát sau anh mới nhận ra chỗ anh đang ở, anh đã quen ngủ dưới những đống hoang tàn. Ký ức ngày hôm qua hiện lên cùng một lúc trong trí anh.
Anh đứng dậy, tựa vào thang gác và cố suy nghĩ. Con mèo ngồi dưới cái bồn tắm đã bị vùi tới nửa, cách đó một quãng, đang bình thản chùi mặt. Những đổ nát của loài người không liên quan gì tới nó.
Anh xem đồng hồ. Bây giờ đến trạm đón tiếp còn sớm quá. Anh đi vài bước. Chân tay anh nhức nhối, bàn tay đầy đất và máu. Anh thấy có chút nước trong ở bồn tắm - có lẽ do trời mưa hay lính cứu hỏa. Mặt anh phản chiếu trong tấm gương rung rinh. Anh thấy xa lạ với chính mình. Anh lấy xà phòng ở trong sắc ra rửa mặt. Nước trở nên đen kịt và tay anh lại chảy máu. Anh phơi tay ra nắng cho khô. Rồi anh soát lại quần áo. Quần anh đã rách, đất bám đầy áo varơ. Anh thấm nước vào khăn tay và chùi vài vết bẩn. Lúc này không có việc gì làm cả.
Trong sắc anh còn chút bánh mì và đáy bi-đông còn chút cà phê nguội lạnh. Anh lấy ra để ăn và uống. Anh bỗng thấy đói vô cùng. Cổ anh khô và rát như anh đã kêu gào suốt đêm. Con mèo len lén lại gần. Gơrebê cho nó một mẩu bánh mì. Nó ngoạm lấy, cẩn thận chạy ra xa ăn, mắt không rời Gơrebê. Thân nó đen tuyền, một chân trắng. Ánh mặt trời lấp lánh trên những mảnh kính vụn vung vãi khắp mặt đấy. Gơrebê nhặt sắc lên và đi xuống phố.
Anh dừng lại và nhìn xung quanh. Anh không nhận ra được hình dáng thành phố. Những lỗ thủng khổng lồ trông giống như một bộ hàm đã rụng hết răng. Vòm nhà thờ màu xanh lá cây đã biến mất. Nhà thờ thánh Catơrin đã sụp đổ. Đường các nóc nhả bị thủng lỗ chỗ, khấp khểnh như bị đám sâu bọ thời nguyên thủy gặm nhấm. Rải rác còn vài căn nhà không bị tàn phá.Thành phố không còn là hình ảnh quen thuộc mà Gơrebê vẫn trông đợi. Trông như đó là một thành phố Nga.
Cửa căn nhà chỉ còn mặt tiền mở và viên trưởng khối đi ra. Từ một căn nhà không còn gọi được là nhà nữa, nhân vật này xuất hiện, tạo ra một vẻ ma quái như một hồn hoang đang sống và làm việc bình thường trong một thành phố bị chôn vùi. Y nhìn và ra hiệu cho Gơrebe. Anh ngập ngừng. Anh nhớ lời tên lính SS mới nói là viên trưởng khối bị điên. Nhưng anh vẫn tới bên hắn. Y nhăn răng càu nhàu.
– Anh làm gì ở đây thế? Ăn cắp hả? Anh có biết làm như vậy thì bị gì không?
Gơrebê nổi cáu:
– Ông lại sắp nói bậy bạ như chiều qua phải không? anh hỏi. Ông có nên cho tôi biết ông có tin gì của bố mẹ tôi là Pôn và Mari Gơrebê không? trước kia bố mẹ tôi ở đây.
Viên trưởng khối ngẩng khuôn mặt hốc hác râu ria lởm chởm nhìn anh:
– À, lại anh lính ở mặt trận về, anh đừng làm ầm lên thế. Anh tưởng chỉ có một mình anh tìm người nhà đấy hẳn. Anh cho cái này là cái gì?
Y chỉ cái cửa y vừa từ trong đó bước ra.
– Gì vậy?
– Cái ghi trên cửa này? Anh có mắt không? Anh tưởng đây là nơi trai gái hẹn hò phải không?
Gơrebê không trả lời. Anh vừa trông thấy phía bên ngoài cánh cửa nhiều mảnh giấy, gió thổi bay phất phới như những lá cờ. Anh bước vội tới gần.
Đó là địa chỉ và lời nhắn tin của thân nhân những người bị nạn. Có những chữ ghi bằng bút chì, mực hay than trên cánh cửa gỗ, nhưng phần nhiều là viết vào giấy hay bìa cứng rồi gắn bằng đinh ghim hoặc dán bằng giấy keo như: Henrich và Gioóc đến nhà chú Hecman, Iêma chết rồi. Mẹ viết trên một mảnh giấy kẻ ô rõ rang là xé từ một tập vở học sinh ra. Phía dưới, một dòng chữ ghi trên nắp một hộp giấy: Đề nghị cho biết tin của Brunơ-hindơ Xmit, số 4 đường Thunringhen. Bên cạnh là một tấm bưu thiếp: Ôttô, chúng tôi về ở trường làng Haxlê và cuối cùng, dưới những địa chỉ viết bằng bút chì hay mực là một chiếc khăn tay bằng giấy mỏng, viền đăng ten có hoa nhỏ màu tím ghi: Mari, em ở đâu? không kí tên.
Gơrebê ngửng lên.
– Thế nào? Viên trưởng khối hỏi. Anh có thấy gì không?
– Không, bố mẹ tôi không biết tôi được về phép.
Người điên thoáng nhăn mặt, trông như cười:
– Không ai biết ai ở đâu nữa, anh lính ạ. Không ai biết gì cả. Chỉ những đứa ngây thơ là thiệt thòi. Bọn lưu manh bao giờ cũng xoay xở được. Anh ở ngoài mặt trận mà không học được điều đấy à?
– Có chứ.
– Thế thì hãy ghi đi. Hãy viết tên anh vào tấm bảng khốn khổ này rồi sau đó làm như chúng tôi đây là đợi. Đợi cho đến lúc rũ xương ra.
Mặt viên trưởng khối thay đổi hẳn. Tưởng một nỗi đau khổ câm lặng bỗng tràn ngập trong y.
Gơrebê quay đi. Anh cúi xuống đất tìm một cái gì có thể viết lên trên được. Sau anh thấy một tấm ảnh màu của Hitle trong một cái khung đã vỡ. Mặt sau còn trắng và không in chữ gì. Anh lấy bút chì ở trong túi ra và suy nghĩ. Không biết nên viết gì. Sau cùng anh đã viết bằng chữ hoa câu: Ernest đang nghỉ phép ở đây. Đề nghị cho biết tin tức ông bà Pôn và Mari.
Viên trưởng khối đứng sau anh thì thầm.
– Tội phản quốc đấy.
– Sao?
– Tội phản quốc, viên trưởng khối nhắc lại. Anh vừa bôi nhọ hình Quốc trưởng.
– Hình đó đã bẩn rồi, mà tôi thì cần, Gơrebê giải thích, nhưng vừa nói xong anh thấy bực mình vì đã tự bào chữa với người điên này. Thôi, ông mặc xác tôi, để tôi được yên thân.
Anh không tìm ra được cái gì để treo mảnh giấy đó lên. Cuối cùng anh phải lấy hai cái đinh trong số bốn cái giữ mảnh giấy có ký “Mẹ” để gài vào biển của mình. Làm như vậy anh thấy hơi áy náy, anh có cảm tưởng như đã ăn cắp hoa trên một nấm mồ của người lạ. Nhưng không còn cái nào khác vả chăng hai đinh ghim cũng đủ giữ được lá thư gửi cho Henrich và Gioóc.
Viên trưởng khối vẫn chăm chăm theo dõi anh, cuối cùng nói như để kết luận:
– Xong rồi! Bây giờ hãy hô Hitle muôn năm đi, anh lính. Cấm để tang, cấm buồn! Làm như thế có hại cho tinh thần! Hãy tự hào là đã hi sinh cho tổ quốc.Bọn hèn nhát các anh mà làm tròn nhiệm vụ thì đã chẳng đến nỗi này.
Y quay ngoắt và bước đi trên đôi chân dài và gầy, Gơrebê quên ngay y. Anh định bỏ đi, nhưng chợt nhớ ra, anh tháo tấm bìa dùng làm biển của anh, xé phần dưới và ghi một địa chỉ ngay trên cánh cửa. Đó là địa chỉ của gia đình Lôdê. Anh quen gia đình đó và định đến đấy để hỏi thăm tin tức bố mẹ mình. Trước khi để lá thư của mình vào chỗ cũ, anh còn xé thêm một mảnh bìa chép lại mấy chữ đã ghi. Rồi anh trở lại nhà số 18 đặt lá thư thứ hai vào một chỗ rõ ràng, giữa những viên gạch ở lối ra vào. Cầu may ở hai nơi vẫn hơn là một. Lúc này anh chỉ có thể làm được đến thế. Anh ngần ngừ một lát trước đống gạch đổ mà không biết rằng đó có phải là mồ chôn bố mẹ anh không. Chiếc ghế bành bằng nhung xanh óng ánh dưới ánh mặt trời như một viên ngọc bích. Một cây hạt dẻ ở gần nhà anh không bị bom đụng đến. Giữa cái khung cảnh tàn phá này, vòm lá xanh tươi của nó có vẻ dịu dàng lạ lùng. Đàn chim núp trong bóng lá xanh đang líu lo.
Anh nhìn đồng hồ. Đã tới giờ đến trạm tiếp đón.
Văn phòng trạm đặt tại một ngôi nhà gỗ, ván thô vẫn còn phảng phất mùi nhựa và rừng cây. Một toán thợ đang dựng thêm một chái vào căn nhà mỏng manh đó, gian phòng đông chật những người dân đang ngồi đợi với vẻ nhẫn nhục. Hai người đàn bà và một viên chức chỉ còn một cánh tay ngồi sau cái bàn gỗ trắng.
– Tên họ là gì? một người đàn bà hỏi. Bà ta mặt to, gò má cao, tóc buộc một sợi ru-băng đỏ.
– Gơrebê, Pôn và Mari, công chức sở Thuế 18 phố Haken. Gơrebê đáp.
– Cái gì? Người nữ thư kí đưa tay lên tai, hỏi to.
– Gơrebê. Gơrebê kêu lên giữa những tiếng búa của toán thợ. Pôn và Mari, công chức sở Thuế.
Người nữ thư kí mở một quyển sổ to:
– Gơrebê, Gơrebê. Ngón tay bà ta đưa lên đưa xuống dọc hàng cột ghi tên rồi dừng lại. Gơrebê đây rồi. Tên thường gọi hàng ngày là gì?
– Pôn và Mari.
– Gì?
– Pôn và Mari?
Anh tức sôi lên. Làm sao có thể gân cổ lên mà hét mãi trong cái cảnh cùng cực này.
– Không phải, tên người này là Ernest.
– Ernest Gơrebê là tên tôi. Trong gia đình chỉ có tôi tên đó.
– Tất nhiên không phải anh rồi. Trong danh sách chúng tôi, không còn Gơrebê nào khác - bà ta mỉm cười, ngước mắt nhìn anh - Vài hôm nữa mời anh trở lại. Danh sách chúng tôi chắc chưa đầy đủ lắm. Đến lượt người khác.
Gơrebê không nhúc nhích.
– Tôi còn có thể hỏi ở đâu được nữa?
– Ở tòa thị chính. Mời ông bà nào tiếp đi.
Người nữ thư kí sửa lại chiếc nơ đỏ. Gơrebê cảm thấy có ai đẩy mình. Đó là một bà già người bé nhỏ, có móng tay nhọn như móng chim cắt. Anh tránh sang bên.
Anh lưỡng lự một lát bên bàn giấy, không bỏ đi nổi. Nỗi đau khổ của anh không thể giải quyết mau lẹ như vậy được nữa. Viên chức cụt tay nhận thấy thế, ghé vào tai anh nói.
– Anh nên mừng vì ông bà cụ không có tên trong sổ này.
– Sao vậy?
– Đó là danh sách những người chết và bị thương nặng. Nếu chưa thấy tên ông bà cụ, anh có thể coi ông bà cụ là mất tích thôi.
– Thế không có danh sách những người bị mất tích à?
Người viên chức nhìn anh với vẻ kiên nhẫn của một người hàng ngày phải chứng kiến những cảnh tương tự suốt tám tiếng đồng hồ.
– Anh thử nghĩ xem, ông ta nói. Mất tích là mất tích. Còn cần danh sách làm gì nữa? Cũng không biết được gì hơn. Mất tích mà có tên trong danh sách này thì không còn là mất tích nữa.
Gơrebê chăm chăm nhìn ông ta mà không hiểu. Ông ta có vẻ tự hào về lí luận của mình. Nhưng lý luận và những lời giải thích đúng phép tắc thường không phù hợp được với đau khổ và tai họa. Và biết nói thế nào với một người tàn phế.
– Tất nhiên rồi. Gơrebê đáp.
Anh đến tòa thị chính. Một nữ thư kí, đeo kính, có vẻ mệt lả vì công việc bận rộn, ngồi trong một căn phòng duy nhất còn dùng được. Gơrebê đợi ngoài hành lang ám khói, và có axit. Sau cùng người ta cho anh vào.
– Tôi không biết gì hết, tôi không biết gì hết, người thư kí gắt lên. Không còn hồ sơ nào cả. Phần lớn cháy rồi, còn lại thì bọn lính chữa cháy ngu ngốc làm ngập nước. Tôi chịu không làm gì được đâu.
– Sao không cất hồ sơ vào một nơi an toàn? Viên hạ sĩ quan cùng vào với Gơrebê hỏi.
– An toàn, an toàn à? Ở đâu được an toàn? Ông có biết không? Tôi không ở trong Hội đồng thành phố. Các ông đến đấy mà kiện.
Cô ta chỉ vào đống giấy ướt sũng, dáng điệu kiểu cách như đóng kịch.
– Sổ sách giấy tờ hộ khẩu đây, chỉ còn lại có thế thôi. Bây giờ ai muốn khai lý lịch ra sao cũng được.
– Dễ sợ thật!
Viên hạ sĩ quan nhổ xuống đất rồi kéo Gơrebê đi.
– Đi thôi anh bạn. Ở đây họ điên cả rồi.
Cả hai ra ngoài quảng trường trước tòa thị chính. Không còn một căn nhà nào nguyên vẹn. Cả bức tượng Bitxmăc[29] chỉ còn lại đôi ủng bằng đồng. Một bầy chim bồ câu hoảng hốt bay lượn quanh gác chuông nhà thờ Đức Bà Thánh Mari bị đổ mất một nửa.
– Chúng nó đánh hay đấy chứ? Viên hạ sĩ quan nói. Anh tìm ai?
– Tìm bố mẹ.
– Tôi tìm vợ. Tôi không viết thư báo trước là tôi về phép, tôi định làm cô ta ngạc nhiên. Còn anh?
– Đại khái cũng vậy. Vì việc đi phép bị hoãn lại nhiều lần; tôi không muốn làm ông bà cụ thất vọng một lần nữa. Rồi bỗng nhiên lại có giấy phép. Thế là không còn thì giờ viết thư nữa.
– Bê bối quá nhỉ. Bây giờ anh định làm gì?
Gơrebê nhìn một lượt quảng trường trước chợ. Từ năm 1933, nơi đó được gọi là quảng trường Ađôn Hitle. Sau thế chiến thứ nhất nó là quảng trường Êbe[30]. Cho tới năm 1918, đó là quảng trường Hoàng đế Ghiôm[31]
– Tôi không biết nữa. Tôi chẳng hiểu gì cả. Chẳng lẽ sống giữa nước Đức mà bị lạc nhau như thế này?
– Anh tưởng thế đấy chứ?
Viên hạ sĩ nhìn anh, vẻ mỉa mai lẫn thương hại.
– Anh ngây thơ quá, anh chưa thấy hết đâu. Tôi đi tìm vợ đã năm hôm nay rồi, suốt từ sáng đến tối. Cô ta biến mất như có phép tiên vậy.
– Sao lại có thể như thế được nhỉ? Phải có cái gì…
– Biến mất, viên hạ sĩ nhắc lại. Hàng ngàn người cũng biến mất như thế. Người thì vào trại tản cư, người khác thì lũ lượt kéo nhau về các làng quanh đây. Bưu điện không hoạt động, đi đâu mà hỏi được.
– Về các làng à? Gơrebê nói, vẻ nhẹ nhõm. Ừ, phải đấy, sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Trong làng, được an toàn hơn. Chắc bố mẹ tôi phải ở đó…
– Bây giờ thì khá hơn rồi, viên hạ sĩ cười chua chát và nói. Anh có biết là quanh cái thành phố thổ tả này, có đến hơn hai tá làng xóm không? Anh chưa đi hết nửa số đó, giấy phép của anh đã hết hạn từ lâu rồi.
Gơrebê biết vậy nhưng cái đó không quan trọng. Anh chỉ cần một điều: bố mẹ anh vẫn sống, còn ở đâu cũng được.
– Anh hãy nghe tôi, viên hạ sĩ nói, vẻ bình tĩnh hơn, phải hành động cho khôn khéo. Đừng chạy như ngựa, chỉ mất thì giờ và ốm xác thôi. Phải làm việc cho có phương pháp. Anh định bắt đầu như thế nào?
– Tôi không biết nữa. Có lẽ tôi thử đi hỏi những người quen biết bố mẹ tôi xem có tin gì không. Tôi đã tìm được địa chỉ một người ở cùng phố với nhà tôi đã đi nơi khác.
– Anh sẽ không biết được gì đâu. Họ sẽ câm như hến vì sợ. Chính tôi đã nhận thấy thế rồi. Nhưng anh cứ thử đi xem… Hay thế này nhé! Chúng ta có thể hợp tác với nhau. Anh đến đâu cũng hỏi tin tức vợ tôi; còn tôi, tôi cũng sẽ hỏi thăm tin tức của bố mẹ anh. Thế được không?
– Được.
– Hay lắm. Tên tôi là Bôtsê. Vợ tôi là Anna. Ghi đi.
Gơrebê ghi tên Anna Bôtsê vào sổ tay. Rồi anh ghi tên bố mẹ anh vào một mảnh giấy nhỏ và đưa cho Bôtsê. Anh ta đọc cẩn thận, rồi gấp mảnh giấy cất vào ví.
– Anh ở đâu, Gơrebê. Y hỏi anh.
– Chưa biết ở đâu. Tôi cũng phải đi kiếm một chỗ ở.
– Ở trại, có giường dành cho những người đi phép gặp tai nạn đấy. Anh đến chỗ Ban chỉ huy mà trình diện, họ sẽ cấp cho một phiếu tạm trú. Anh đến xin chưa?
– Chưa.
– Thế thì cố xin đến ở phòng 48. Tôi cũng ở đấy. Ăn uống khá hơn các nơi khác.
Bôtsê rút một mẩu thuốc lá dở ở trong túi ra. Y ngắm nghía một lát rồi lại cất đi.
– Hôm nay, tôi có thể đến các bệnh viện, chiều nay chúng ta có thể gặp nhau ở một chỗ nào nhỉ. May ra một đứa ta biết được tin gì chăng.
– Đồng ý. Ta gặp nhau ở đâu nào?
– Thế thì, ở đây chẳng hạn. Chín giờ nhé?
– Được.
Bôtsê gật đầu rồi ngẩng nhìn trời xanh.
– Trông kìa, mùa xuân - Y chua chát nói - Đáng lẽ, mình phải ngủ với con vợ béo mập như heo nái của mình mới phải thế mà đã năm đêm nay, mình cứ phải ngủ với lũ đực, râu cũng không chịu cạo.
Hai căn nhà đầu tiên của phố Gacten đã bị phá hủy. Không ai ở đó nữa. Căn thứ ba gần như nguyên vẹn. Chỉ có mái bị cháy. Gia đình Diglê ở đó. Trước kia, Diglê là bạn của bố Gơrebê.
Anh bước lên thang. Bậc nào cũng có những thùng cát và nước. Tường dán đầy thông báo chính thức. Anh bấm chuông và ngạc nhiên khi thấy chuông còn kêu. Một lát sau một bà già vẻ thiểu não, sợ hãi ra mở cửa.
– Bà Diglê, Gơrebê nói, cháu là Ernest Gơrebê đây:
– Vâng… bà cụ già chăm chú nhìn anh, do dự - Thế thì mời ông vào, ông Gơrebê.
Bà cụ mở cửa cho Gơrebê vào rồi gài chốt ngay. Bà nói to - Ông nó ơi, không có gì đâu. Anh Ernest Gơrebê, con ông Pôn Gơrebê đấy!
Gian phòng có mùi xi còn mới. Những tấm nhựa sơn trải dưới sàn nhà bóng lên như gương. Trên thành cửa sổ, có những cây cảnh, lá dầy, lấm tấm vàng như có xoa bơ. Sát tường sau chiếc trường kỉ có treo bức trướng thêu hoa, có dòng chữ thêu bằng mũi kim chữ thập: “Ở nhà mình, mình là vua…”
Diglê từ phòng ngủ đi ra. Ông ta mỉm cười nhưng rõ ràng là ông sợ.
– Bây giờ, không biết trước được gì cả. Tôi thật không ngờ anh lại đến đây. Anh từ ngoài ấy về à?
– Vâng, cháu đi tìm bố mẹ cháu. Bố mẹ cháu gặp tai nạn.
– Anh hãy bỏ sắc ra nào, bà Diglê nói, để tôi đi pha cà phê anh uống. Nhà còn cà phê ngon đấy.
Gơrebê treo sắc ở phòng bên.
– Người cháu bẩn quá, anh nói xin lỗi. Ở đây cái gì cũng sạch, cháu không quen.
– Không sao đâu, anh cứ tự nhiên. Anh ngồi xuống đi.
Bà Diglê biến vào bếp. Ông Diglê ngập ngừng nhìn Gơrebê.
– Ra thế đấy. Sau cùng ông nói.
– Bác có biết gì về bố mẹ cháu không? Gơrebê hỏi. Cháu không biết gì về tung tích bố mẹ cháu. Ở tòa thị chính, họ cũng không biết gì. Tất cả đều lộn nhào lên.
Diglê lắc đầu - Chúng tôi không ra khỏi nhà. Chúng tôi không tiếp ai cả. Chúng tôi không biết tí gì đâu, anh Ernest ạ.
– Các bác không gặp bố mẹ cháu bao giờ à? Lần sau cùng hai bác trông thấy bố mẹ cháu là bao giờ?
– Lâu lắm, rất lâu rồi, có lẽ đến năm sáu tháng nay.
Bà im bặt.
– Rồi sao nữa? Lúc đó bố mẹ cháu thế nào?
– À! Ông bà khỏe cả! Thời kì đó, ông bà khỏe cả. Nhưng tất nhiên là từ đó tới nay…
– Vâng, cháu đã thấy rồi. Gơrebê nói. Ở ngoài kia, chúng cháu cũng biết là các thành phố có bị ném bom nhưng không ngờ đến nỗi này.
Cả ba im lặng một lát, cùng cúi gằm mặt xuống đất. Bà ta lại nói.
– Cà phê sắp xong rồi, anh uống một tách nhé!
Bà bày bộ tách hoa lên bàn. Gơrebê nhớ nhà mình cũng có những tách tương tự như thế, gọi là kiểu tách củ hành. Anh không hiểu sao lại gọi thế.
– Ra thế đấy, Diglê lại nhắc lại.
– Bác có cho rằng bố mẹ cháu đã tản cư không? Gơrebê hỏi.
– Có thể. Bà này, còn cái bánh ngọt nào mà Ecvin mang về không nhỉ. Lấy ra mời anh Ernest đi.
– Ecvin sao rồi ạ?
– Ecvin à? Ông già giật mình. Ecvin khỏe, rất khỏe.
Bà Diglê rót cả phê. Bà đặt lên bàn cái hộp bằng thiếc, nhãn hiệu Hà Lan, trong còn vài chiếc bánh ngọt. Gơrebê nghĩ, đồ Hà Lan. Hồi đầu chiến tranh anh cũng đã từng mua bánh ngọt từ Pháp về cho bố mẹ.
Bà Diglê có nài ép anh ăn một chiếc bánh ngọt nhỏ, hồng và ngọt đậm, như có sạn. Cả hai ông bà đều không ăn gì. Tách của họ cũng để không. Diglê lơ lãng gõ tay xuống bàn.
– Anh ăn nữa đi. Bà Diglê mời. Được đấy chứ, chúng tôi cũng chẳng có gì khác để mời anh.
– Vâng, bánh ngon lắm. Cảm ơn hai bác. Cháu đã ăn xong rồi.
Anh thấy không thể hỏi gì thêm được ở hai ông bà già này. Có lẽ họ không biết gì thật.
– Bác bảo cháu liệu hỏi ở đâu, có thể biết được chút ít tin tức nhỉ?
– Chịu, không biết ở đâu cả. Chúng tôi không gặp ai bao giờ, anh Ernest ạ. Chúng tôi rất tiếc, tình hình là như thế đấy.
– Cháu tin là hai bác nói thật với cháu. Cảm ơn hai bác đã cho cháu uống cà phê.
Gơrebê đi ra cửa.
– Anh ở đâu? Đột nhiên Diglê hỏi anh.
– Cháu sẽ tìm được nhà trọ. Nếu không cháu sẽ vào trại.
– Chúng tôi cũng không có chỗ, bà Diglê nhìn chồng rồi nói rất mau. Hẳn quân đội thế nào chẳng nghĩ đến những binh sĩ gặp tai nạn.
– Nhất định rồi, Gơrebê nói.
– Bà này, trong khi chưa tìm được chỗ nào, anh ấy có thể để sắc ở đây được chứ. Cái sắc trông có vẻ nặng đấy.
Gơrebê đã thấy cái nhìn của bà già.
– Không, không sao. Cháu đeo đã quen rồi, anh nói.
Gơrebê đóng cửa lại và xuống thang. Không khí thật nặng nề. Ông bà Diglê sợ ra mặt. Anh không biết họ sợ gì. Nhưng từ năm 1933, thiếu gì lý do để sợ.
Gia đình Lôdê ở tại phòng họp của nhà kèn thành phố. Gian phòng lủng củng những giường, ván và nệm. Cờ, huân chương chữ thập ngoặc, những khẩu hiệu hiếu chiến và một tấm hình Quốc trưởng trong khung mạ vàng che kín cả tường. Đó là vết tích của những cuộc biểu dương tình thần yêu nước ngày trước. trong phòng lúc nhúc đàn bà và trẻ con. Ở giữa, là giường, hòm, xoong, chảo, lò sưởi, thực phẩm, vài thứ đồ đạc có thể chạy được, chất thành đống.
Bà Lôdê ngồi trên một cái giường kê ở giữa phòng, vẻ ủ rũ. Bà ta người to lớn, mặc quần áo màu xám, tóc sổ rối bù.
– Bố mẹ anh à?
Bà đăm đăm nhìn Gơrebê với đôi mắt ngây dại, có vẻ như đang gắng nhớ lại.
– Chết rồi, Ernest ạ, sau cùng bà nói.
– Bà nói sao?
– Chết rồi, bà nhắc lại. Anh còn muốn biết gì hơn?
Một đứa bé mặc đồng phục của đội HJ[32] lao vào chân Gơrebê. Anh đẩy nó ra.
– Bác biết gì về những việc đó? Anh hỏi.
Anh thấy nghẹn lời, nói không ra tiếng nữa. Anh nuốt nước bọt một cách khó khăn và hỏi thêm:
– Bác có trông thấy gì không? Ở đâu?
Bà Lôdê lắc đầu chậm chạp.
– Không thể trông thấy gì được, Ernest ạ, bà ta thì thầm. Chỉ có những tiếng kêu, lửa cháy rồi thế là hết…
Tiếng thì thầm của bà ta ấp úng nghe không rõ rồi im bặt. Bây giờ người đàn bà to lớn ấy ngồi lặng thinh; hai khủy tay tì trên gối, mắt lơ đãng mải mê theo đuổi những ý nghĩ riêng, như chỉ còn một mình bà trong phòng. Gơrebê tuyệt vọng đón ánh mắt bà ta.
– Bác Lôdê, anh nói từ từ, lớn giọng. Bác hãy nhớ lại đi. Bác hãy nói cho cháu biết, sao bác biết bố mẹ cháu đã chết? Anh cố nén để khỏi túm lấy vai bà ta mà lắc mạnh - Bác cố nhớ đi. Bác gặp bố mẹ cháu lần chót là vào hồi nào?
Bà ta như không nghe thấy.
– Lêna, bà lẩm bẩm. Tôi cũng không thấy mặt cả nó nữa. Họ không muốn để tôi lại gần. Hình như cũng chẳng còn gì mấy. Mà nó còn bé quá! Tại sao họ lại làm như vậy? Anh là lính, anh phải biết chứ?
Gơrebê luống cuống nhìn quanh. Một người đàn ông len qua giẫy giường đến chỗ hai người. Đó là ông Lôdê đã già và gầy đi. Ông đặt nhẹ tay lên vai vợ, bà này lại ủ rũ gục xuống. Ông ta ra hiệu cho Gơrebê.
– Bà nhà tôi không biết gì đâu, anh Ernest ạ, ông nói.
Dưới bàn tay của ông, người đàn bà to lớn cử động và từ từ ngước mắt lên nhìn chồng.
– Thế ông biết à?
– Lêna…
– Nếu ông biết được điều đó, ông cũng không hơn gì những kẻ đã gây ra việc ấy, bà ta nói với một giọng bỗng trong và to hơn.
Ông Lôdê sợ hãi liếc nhìn các giường bên. Không ai có thể nghe được những lời đó. Thằng bé mặc đồng phục đùa giỡn ầm ĩ với vài đứa bạn sau một chồng va-li.
– Không hơn gì cả. Bà Lôdê nhắc lại.
Rồi bà ta gục đầu xuống và bây giờ bà chỉ còn là một đụn thịt đầy vẻ u uất của loài vật.
Lôdê ra hiệu cho Gơrebê đi theo ông. Cả hai ra xa.
– Bố mẹ cháu sao rồi? Gơrebê hỏi ngay. Bác gái bảo bố mẹ cháu đã chết rồi.
Lôdê lắc đầu.
– Bà ấy không biết gì đâu, anh Ernest ạ. Bà ta đã hơi… Anh nghe rõ rồi phải không? - Lôdê nuốt nước bọt. Cục hầu chạy lên chạy xuống trong cổ gầy nhẳng của ông, - Bà ấy nói những điều… Người ta đã tố giác chúng tôi rồi… Những người ở đây…
Trong nháy mắt, Gơrebê thấy Lôdê ở xa tít, bé tí tẹo trong bầu ánh sáng xám bẩn, rồi ông ta lại trở lại ngay bên anh và anh nhận thấy gian phòng trở nên lặng lẽ.
– Thế bố mẹ cháu không chết à? Anh hỏi.
– Tôi không dám nói chắc vậy, anh Ernest ạ. Anh không thể nào ngờ được mười hai tháng vừa qua là thế nào. Mọi việc ngày càng tồi tệ. Chúng tôi sợ lẫn nhau. Không ai dám tin ai nữa. Chắc bố mẹ anh đã ở một nơi an toàn nào rồi.
Gơrebê thấy như trút được gánh nặng đè lên ngực anh.
– Thế bác không thấy bố mẹ cháu bao giờ à? anh hỏi.
– Có, trông thấy một lần, ở ngoài phố. Đến bốn năm tuần nay rồi. Bấy giờ hãy còn ít tuyết, tôi nhớ rõ. Đó là trước khi bị ném bom.
– Bố mẹ cháu ra sao? Có khỏe không?
Lôdê không trả lời ngay.
– Hình như khỏe thì phải, mãi sau ông mới trả lời và ông nuốt nước bọt.
Gơrebê bỗng thấy ngượng. Anh vừa hiểu ra rằng đây không phải là lúc, cũng không phải là nơi để hỏi thăm xem bốn tuần lễ trước đây, một người nào đó có mạnh khỏe hay không. Ở đây người ta chỉ đếm người sống và người chết chứ không biết gì hơn.
– Xin lỗi bác nhé, anh ngượng ngùng nói.
– Không có gì đâu, anh Ernest ạ? Lôdê giơ tay từ chối. Bây giờ không ai còn hơi sức nghĩ đến người khác. Trên trái đất này, có nhiều tai họa quá.
Gơrebê không nhận ra phố nữa. Khi anh vào nhà kèn của thành phố thì ngoài đường xá vắng ngắt và ảm đạm. Bây giờ anh thấy sáng sủa hơn và đầy sức sống ấm áp. Anh không còn thấy những căn nhà trống hoác nữa, anh chỉ thấy cây đâm chồi, hai con chó đang nô rỡn, trời xanh và ẩm ướt. Bố mẹ anh không chết, chỉ là mất tích. Một giờ trước đây, anh xúc động đau khổ vì người công chức cụt tay đã cho anh biết tin đó, bây giờ thì tin đó lại đem tới một niềm hi vọng bí ẩn. Anh biết rằng sự thể xoay vần như vậy vì lúc trước anh đã lâm vào cảnh tuyệt vọng. Anh nghĩ, sao niềm hi vọng chỉ cần chút ít mà cũng sống được, sao nó bén rễ trong lòng người nhanh đến thế?
[29] Một chính trị gia người Phổ, làm thủ tướng dưới thời vua Phổ Ghiôm đệ nhất, rất độc đoán và có những thủ đoạn để thực hiện mọi âm mưu xâm lược của nước Phổ. Chính ông ta đã tẩy xóa những điện ngoại giao của Pháp, do đó gây ra cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870.
[30] Phrêdrich Êbe (1871 – 1925) tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa Đức.
[31] Hoàng đế nước Phổ và Đức (1859 – 1941) trong thời kì đại chiến thế giới lần thứ nhất. Sau khi Đức bị bại trận, chạy trốn sang Hà Lan, và thoái vị năm 1913, chết năm 1941.
[32] Đội thiếu niên Quốc xã Đức do hai chữ đầu của hai chữ Hitler Jugend viết tắt