← Quay lại trang sách

Chương 9

Anh dừng lại trước căn nhà. Trời tối nên anh không sao nhận ra được số nhà.

– Ông muốn gì? Một người đứng tựa gần cửa ra vào hỏi.

– Đây có phải nhà số 22 phố Mari không?

– Phải. Ông hỏi ai?

– Bác sĩ Crudê à?

– Crudê à? Ông muốn hỏi gì ông ta?

Gơrebê nhận ra trong bóng tối đôi bốt và một bộ binh phục lính S.A[33]. Anh nghĩ “Lại đến mức này nữa. Một tên trưởng khối định giở trò gì đây?”

– Tôi sẽ nói chuyện thẳng với bác sĩ Crudê, anh đẩy cửa và nói.

Anh thấy mệt rã rời, thân thể mệt thấm hơn cái mệt ở trong đôi mắt và từng khớp xương của anh. Anh đã đi tìm và hỏi suốt ngày hôm nay nhưng không biết được chút gì. Gia đình anh không có họ hàng trong thành phố, láng giềng quen biết đều biến đi mất. Bôtsê nói đúng: tâm trạng hoang mang là phổ biến. Mọi người câm lặng vì sợ bọn Ghextapô, hoặc họ chỉ dẫn lơ mơ rồi bảo đi hỏi những người khác cũng không biết gì hơn.

Anh lên thang. Phòng ngoài tối mò. Bác sĩ ở tầng lầu nhất. Gơrebê chỉ quen sơ ông ta nhưng anh nhớ là ông đã chữa bệnh cho mẹ mình nhiều lần. Biết đâu ông chẳng có địa chỉ mới của mẹ anh.

Một người đàn bà, không ra già hay trẻ, mặt lì lì, mở cửa cho anh.

– Crudê à? mụ hỏi. Anh muốn gặp bác sĩ Crudê à?

– Vâng.

Mụ lặng lẽ nhìn Gơrebê, cũng không tránh sang bên để anh bước vào.

– Ông ấy có nhà không? Gơrebê nóng ruột hỏi.

Người đàn bà không trả lời. Mụ như ngóng đợi một tiếng động ở tầng dưới.

– Ông đến khám bệnh à? Sau mụ hỏi.

– Không, việc riêng.

– Việc riêng à?

– Phải, đây là một việc riêng. Bà là bà Crudê à?

– Nhờ trời! Không phải.

Gơrebê ngắm nhìn nhân vật kì lạ đó. Suốt một ngày, sợ hãi, căm thù và dối trá đã hiện ra với anh dưới nhiều bộ mặt khác nhau; nhưng lối đón tiếp này thật mới mẻ.

– Bà hãy nghe đây, anh nói. Tôi không biết việc gì đã xảy ra ở đây và tôi cũng không cần biết đến nó. Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ Crudê, chỉ có thế thôi. Bà nghe rõ không?

– Crudê không ở đây nữa, mụ đàn bà bỗng nhiên nói to với giọng gay gắt và thù địch.

– Nhưng tên ông ta vẫn ở ngoài cửa này.

Gơrebê chỉ tấm biển bằng đồng có ghi giờ khám bệnh của bác sĩ.

– Lẽ ra tấm biển này phải gỡ đi từ lâu rồi.

– Được, nhưng nó vẫn còn ở đây. Gia đình ông ta còn ai ở nhà này không?

Người đàn bà nín lặng. Gơrebê định bảo mụ cút đi và quay ra thì bỗng anh nghe tiếng cửa mở ở trong phòng. Một tia sáng chiếu ra phòng ngoài tối đen.

– Ai hỏi tôi thế? Có tiếng người nói.

– Có đây, Gơrebê trả lời hú họa. Tôi muốn nói chuyện với người nào quen biết bác sĩ Crudê. Sao mà khó thế!

– Tôi là Elidabet Crudê đây.

Gơrebê quay về phía mụ đàn bà không ra già hay trẻ ấy. Mụ đã tránh ra và lui vào phòng.

– Sáng quá đấy! Trước khi biến hẳn vào trong phòng, mụ còn la to: Cấm không được thắp đèn sáng quá!

Gơrebê đứng đợi. Một cô gái trạc hai mươi tuổi hiện ra trong vầng sáng như trên cánh chim vàng. Anh thoáng thấy đôi mày cong, đôi mắt đen và mớ tóc hung mềm mại xõa xuống vai. Và cô ra đứng cạnh anh trong bóng tối mờ mờ của hành lang.

– Ba tôi không khám bệnh nữa, cô nói.

– Tôi không đến để khám bệnh. Tôi chỉ cần hỏi một việc.

Người con gái biến sắc. Cô liếc nhìn sau lưng, xem mụ kia đã đi hẳn chưa. Rồi cô mở mau cửa và thì thầm: “Ông vào ngay đi”. Anh theo cô vào gian phòng có ánh sáng. Cô quay lại, quan sát anh vẻ dò hỏi. Đôi mắt cô không còn đen nữa, nó màu xám và trong suốt.

– Hình như tôi có quen anh. Anh có học trường trung học ở đây không?

– Có. Tên tôi là Ernest Gơrebê.

Bây giờ thì Gơrebê đã nhớ ra. Một cô gái gầy ốm, tóc quá dầy và mắt quá to. Mẹ cô chết rất sớm và cô ta phải đến ở với họ hàng tại một thành phố khác.

– Elidabet, em thay đổi nhiều quá! Anh không nhận ra đấy!

– Chúng ta gặp nhau lần cuối có lẽ đến bảy, tám năm rồi. Anh cũng khác trước nhiều.

– Không nhiều bằng em.

Hai người nhìn nhau không nói câu nào.

– Ở đây có chuyện gì vậy? Sau cùng Gơrebê hỏi. Người ta cảnh giác như gác dinh đại tướng vậy.

Elidabet thoáng cười chua chát.

– Không phải dinh đại tướng mà như tù vậy.

– Tại sao? Tại sao vậy? Ba em…

Cô giơ tay ra hiệu cho anh im lặng và nói nhỏ: “Anh đợi một chút nhé”. Cô đi quanh bàn đến mở máy hát. Ngay tức khắc một bản quân hành vang lên.

Gơrebê nhìn cô, không hiểu. Hình như Bôtsê nói đúng. Trong thành phố này mọi người đều hóa điên.

– Thế này là nghĩa lý gì? Anh hỏi. Thôi em dẹp ngay cái bản nhạc đáng ghét này đi. Anh đã chán ngấy cái này rồi. Em hãy cho anh biết chuyện gì đã xảy ra ở đây thì hơn. Tại sao người ta lại canh em như canh tù vậy?

Elidabet đến gần anh.

– Mụ ấy nghe đấy! Nó là con mật thám! Vì thế phải mở nhạc.

Elidabet ngẩng mặt lên, lo âu nhìn Gơrebê, bỗng nhiên cô nghẹn ngào:

– Ba em làm sao? Anh biết tin gì mới à?

– Không, anh chỉ muốn hỏi ba em một điều. Ba em đâu rồi?

– Anh không biết à?

– Không, anh chỉ muốn hỏi xem ba em có biết địa chỉ của bố mẹ anh không. Bố mẹ anh không biết đi đâu.

– Chỉ có thế thôi à?

Gơrebê mở to mắt đăm đăm nhìn Elidabet.

– Với anh, thế là đủ rồi.

Mặt cô gái trở lại bình thường.

– Anh nói đúng, cô nói vẻ mệt mỏi. Em cứ tưởng anh cho em biết tin tức của ba em.

– Ba em ở đâu?

– Ở trại tập trung. Đã bốn tháng nay, có người tố cáo. Khi anh đến hỏi ba em, em cứ tưởng anh biết tin gì mới về ba em.

– Nếu có anh đã nói ngay.

Elidabet lắc đầu.

– Không nói trước mặt mụ ấy được. Phải cẩn thận chứ?

Gơrebê nghĩ thầm “Cẩn thận”. Hôm nay mình đã được nghe câu đó bằng đủ các thứ giọng. Bản hành khúc Hôhenphritbec[34] vang lên trong phòng nghe sang sảng.

– Bây giờ có thể tắt nhạc được rồi chứ? Gơrebê hỏi,

– Được, nhưng anh nên đi đi thì hơn. Anh cũng biết tại sao rồi chứ?

– Anh không phải là mật thám, Gơrebê cáu kỉnh nói. Mụ ta là cái thớ gì? Mụ ấy tố cáo ba em đấy à?

Elidabet nhắc cần máy hát lên nhưng không hãm máy làm đĩa hát vẫn quay nhưng không phát ra tiếng. Trong cảnh im lặng, bỗng tiếng còi báo động rền rĩ nổi lên.

– Báo động! Lại báo động nữa! Elidabet lẩm bẩm.

Có tiếng người đập cửa thình thình.

– Tắt đèn đi! Ở đây để đèn suốt ngày nhé! Lúc nào cũng để đèn sáng quá. Chẳng có gì là lạ cả!

Gơrebê mở cửa ra.

– Cái gì chẳng lạ nào? anh hỏi.

Mụ đã chạy ra đầu hành lang, lắp bắp nói không nghe rõ được là gì rồi biến mất.

Elidabet gạt tay anh ra và đóng cửa lại.

– Con mụ nặc nô ấy là thế nào vậy? Anh hỏi. Ai cho nó đến ở đây?

– Sở nhà đất. Em còn giữ được căn phòng này là may lắm đấy.

Phố xá nhộn nhịp hẳn lên. Có tiếng trẻ con khóc, tiếng một người đàn bà thét lên. Tiếng còi dự báo to dần. Elidabet lấy áo mưa choàng lên vai.

– Chúng ta phải xuống hầm trú ẩn đi.

– Còn đủ thì giờ. Sao em vẫn ở đây? Sống với con mụ mật thám ấy chắc khổ cực lắm nhỉ?

– Tắt đèn đi! Mụ nặc nô gào lên ngoài cửa sổ.

Elidabet đến chỗ hãm điện và tắt đèn. Rồi cô nhẹ nhàng bước tới cửa sổ.

– Tại sao em lại ở đây ư? Vì em không muốn bỏ trốn.

Cô mở cửa sổ. Ngay tức khắc bản hòa tấu của những tiếng còi tràn vào phòng, đinh tai nhức óc. Trong khi cô lấy đinh đóng chặt các ô vuông của cửa sổ vẫn mở toang làm cho hơi bom có mạnh, kính cũng khó vỡ được, bóng cô nổi lên trên nền trời mờ nhạt. Rồi cô trở lại bên Gơrebê. Tiếng động giống như một làn sóng vô hình xô đến với anh.

– Em không muốn bỏ trốn, cô nói trong tiếng ầm ầm vang dội. Anh hiểu không?

Gơrebê nhìn mắt cô. Bây giờ chúng đã đen lại như lúc trước ở ngoài hành lang. Trong cái nhìn của cô âm ỉ một sức mạnh vô bờ. Anh cảm thấy như mình phải chống lại tất cả những sự việc thù địch, mơ hồ, chống những cặp mắt, khuôn mặt này, chống tiếng còi báo động, chống những cảnh hỗn loạn đang từ cửa sổ này trút xuống hai người.

– Không, anh kêu lên. Anh không hiểu. Ở lại đây chỉ tự làm khổ mình mà không có ích gì. Không chịu đựng nổi thì phải bỏ đi. Anh đã học được điều đó ở ngoài mặt trận.

Cô say sưa chăm chú nhìn anh.

– Thế thì anh đi đi, cô nói to. Anh hãy đi đi và để mặc em.

Cô định đẩy anh ra để bước tới cửa sổ. Anh nắm lấy tay cô. Cô giật mạnh vùng ra được. Anh không ngờ cô lại khỏe thế.

– Đợi anh với, anh kêu lên. Anh sẽ đi với em.

Tiếng còi báo động vây quanh họ như một trận bão vô hình. Nó lồng lộn khắp mọi nơi, trong phòng, ngoài hành lang, trên cầu thang, nó đập vào tường, rồi dội trở lại thành tiếng vang, dồn dập từ khắp nơi đến như không vật gì hay người nào có thể thoát được nó, nó thấm qua tai, vào da thịt, làm sôi máu lên, thần kinh rung động, trí óc mòn mỏi.

– Cái còi ở chỗ nào vậy? Gơrebê kêu lên. Đến điên vì nó mất.

Cửa ra vào đóng sầm lại, tiếng còi rú lên nghe nhỏ lại ngay.

– Còi ở ngay góc phố, Elidabet nói. Phải xuống hầm công cộng ở quảng trường Các đi thôi. Hầm nhà chẳng ra gì đâu.

Những bóng người xác vali và balô từ trên gác đổ xuống. một chiếc đèn pin nhỏ lóe lên trong khoảnh khắc và thoáng soi vào mặt Elidabet.

– Nếu cô có một mình thì đi với chúng tôi. Có tiếng người nói.

– Cảm ơn, tôi không đi một mình.

Cửa lại mở, những bóng đen ùa ra. Từ khắp các nhà, người ta chạy tóe như những người lính bằng chì trong hộp đồ chơi của trẻ con bị đổ ra. Những viên trưởng khối quát tháo, ra lệnh.

Một người đàn bà mặc chiếc áo ngủ dài bằng lụa đỏ chạy qua, tóc xõa tung bay trước gió như một nữ kị sĩ. Những ông bà già rảo bước ven bên tường vừa đi vừa nói nhưng trong tiếng ồn ào, không ai nghe được gì. Người ta có cảm tưởng những cặp môi khô héo đó lặng lẽ nhai những lời nói đã tắt ngấm.

Họ đến quảng trường. Trước hầm trú ẩn, một đám đông chen lấn, ồn ào. Những viên trưởng khối chạy ngược chạy xuôi như những con chó becgiê, gắng lập lại đôi chút trật tự. Elidabet không có vẻ gì vội vã.

– Chúng ta có thể len ở phía bên cạnh để vào, Gơrebê gợi ý.

Cô lắc đầu:

– Không, cứ ở đây thôi.

Đám người tuôn vào hầm trú ẩn như những đợt sóng đen ngòm. Gơrebê nhìn Elidabet. Người ta chợt tưởng như tất cả cảnh này không liên quan đến cô.

– Em can đảm lắm, anh nói.

Cô ngước mắt nhìn anh.

– Không, em sợ. Em sợ vào hầm trú ẩn.

– Sao còn đứng đây? Một viên trưởng khối nổi nóng la lên. Phải chính thức mời anh chị xuống nữa chắc.

Căn phòng rộng rãi, thấp và vững, có nhiều cột chống thêm cho chắc, có đèn sáng và nhiều lối ra vào. Trong hầm có ghế dài, nhưng mọi người đều mang theo nệm, chăn và giường gấp… cuộc sống ở dưới đất được tổ chức dần dần. Gơrebê nhìn chung quanh với con mắt hiếu kì. Đây là lần đầu tiên, anh ở trong hầm với những người dân, lần đầu tiên, anh ở cùng với đàn bà và con nít, ở ngay trên đất Đức.

Ánh sáng xanh nhạt của các ngọn đèn làm mặt con người trông nhợt nhạt, nom như cuộc họp của những người chết đuối. Người đàn bà mặc áo ngủ dài đỏ ngồi cách anh không xa. Chiếc áo ngủ dài trở thành màu tím, mái tóc người đàn bà ánh lên xanh biếc. Anh nhìn Elidabet. Mặt cô cũng xám lại và rũ xuống, hai mắt sâu hoắm trong lỗ mắt đen ngòm, tóc xỉn và khô như chết. Gơrebê nghĩ, đúng là những người chết đuối. Những người chết đuối vì bị dối trá và sợ sệt nhận chìm, bị xua đuổi xuống lòng đất, và từ nay trở đi, họ thù ghét ánh sáng, quang đãng và sự thật. Một người đàn bà ngồi thu mình trước mặt anh với hai đứa con nhỏ. Những đứa bé nép vào lòng mẹ. Mặt chúng lặng lẽ và lờ đờ, chỉ có cặp mắt là còn hơi linh hoạt. Những đôi mắt mở to, lóe lên trong ánh sáng mờ nhạt, khi những tiếng rú và tiếng súng phòng không nổ dồn dập, chúng nhìn lên cửa, lướt lên trần thấp, theo dọc những bức tường bê tông rồi lại quay ra cửa mà không biết mỏi? Những cử chỉ gấp gáp và giần giật của chúng nhịp theo tiếng động. Đó là những cặp mắt của các con thú bị tê liệt hay sa bẫy, có cái nhìn vừa nhanh vừa lạnh ngắt phản chiếu những ngọn đèn chong, mờ mờ. Hai đứa bé không nhìn thấy Gơrebê lẫn mẹ chúng, chúng không đủ sức nhận ra ai hay bộc lộ điều gì; chúng có một cái vẻ chăm chú khác thường, rinh đón một nguy cơ vô hình: tiếng động ầm ầm có thể có nghĩa là cái chết. Những đứa trẻ không còn nhỏ đến nỗi không biết nguy hiểm là gì, nhưng chúng lại quá trẻ nên không thể tạo ra một vẻ dũng mãnh vô ích, chúng tỉnh táo nhưng bất lực.

Gơrebê nhận ra ngay là không riêng trẻ con mới có thái độ phó mặc một cách sáng suốt và nhẫn nhục như thế mà hầu hết những người dân tụ tập trong hầm cùng để lộ rõ thái độ ấy. Những cái nhìn của họ đều giống nhau. Nét mặt và thân thể của họ thản nhiên như không. Họ cố sức lắng nghe bằng cả hai tai, bằng cả cái lưng cúi gập, bằng đôi đầu gối cặp chặt, bằng hai bàn tay bắt chéo. Họ lắng nghe mà không cử động, và chỉ có đôi mắt là theo dõi những tiếng động khác nhau, vẳng đến với họ như những mệnh lệnh ngắn và đáng sợ.

Chính lúc đó, nỗi lo sợ bắt đầu thấm vào anh.

Có điều gì không tả được làm thay đổi không khí nặng nề. Tiếng nổ ầm ầm vẫn vang bên ngoài, nhưng lại có luồng gió mát không biết từ đâu thổi đến. Những thân thể cứng đờ này lại bắt đầu có chút nhựa sống. Hầm trú ẩm không còn là một viện bảo tàng trưng bày các bộ mặt bằng sáp, bây giờ là những con người bắt đầu sống và hi vọng trở lại. Mỗi chiếc mặt nạ trở thành mặt người, những cặp mắt gặp nhau.

– Chúng đi xa rồi, một ông già ngồi gần Elidabet nói.

– Chúng có thể trở lại, một người khác cãi. Đã có lần như thế rồi. Chúng đến một lần rồi đột nhiên quay lại khi có tiếng còi báo yên.

Hai đứa trẻ bắt đầu cựa quậy. Một người đàn ông ngáp. Một con chó từ một xó nào hiện ra và chạy quanh hầm. Rải rác, đã có người mở gói đồ ăn ra ăn. Một người đàn bà to lớn giống một tiên nữ[35] bỗng kêu lên:

– Acnôn! Lại quên tắt bếp gaz rồi! Thức ăn đến cháy thành than mất. Giá như ông để ý một chút thì phải.

– Bà đừng lo, ông chồng nói. Có báo động là người ta tắt khí đốt ngay.

– Cũng không hơn gì. Khi có hơi thì lại nồng nặc khắp nhà, còn khổ hơn!

– Không phải hễ có báo động là tắt khí đốt đâu, chỉ khi ném bom mới tắt, một giọng quả quyết nói như vậy.

Elidabet lấy gương lược trong túi xách tay ra và sửa lại mái tóc. Dưới ánh sáng kỳ lạ đó, cái lược nom như một thỏi mực khô, nhưng mớ tóc cứ gợn lên thành sóng và kêu rin rít dưới tay cô.

– Em muốn ra ngay, cô nói thầm, ở đây muốn chết ngạt!

Họ còn phải đợi thêm nửa giờ nữa. Rồi các cửa hầm mới mở. Họ đứng dậy đi ra. Những cây đèn nhỏ đã được che bớt ánh sáng chiếu các bậc cửa. Bên ngoài ánh trăng rọi xuống thềm. Elidabet như sống lại theo bước chân đi. Quầng đen dưới hai con mắt cô đã mất, màu da xám như chì của cô cũng biến theo, những ánh vàng lại nhảy nhót trên tóc cô, da dẻ cô trở lại tươi tắn. Cô đã hồi phục lại như cũ, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn trước. Cô hít mạnh không khí ban đêm như để tận hưởng phút yên tĩnh mới mẻ vừa được ban cho cô. Họ ngập ngừng trước cửa hầm. Elidabet lắc mạnh đầu và vai như con vật bị nhốt lâu ngày vừa được thả.

– Những cái hố công cộng dưới mặt đất. Sao em ghét chúng thế. Cô nói và hất mớ tóc về sau.

– Ở trong đó người ta chết ngạt từ từ. Chẳng thà ở giữa đống nhà đổ còn hơn. Ít ra còn thấy bầu trời trên đầu mình.

Gơrebê nhìn cô thán phục. Ra khỏi cửa hầm bê-tông trông giống như lối đi vào địa ngục, trông cô có một vẻ sôi nổi và hoang dại.

– Em muốn về nhà ư? Anh hỏi.

– Vâng. Còn đi đâu được? Lang thang ở các phố tối đen ư? Em đã đi như thế nhiều lần rồi.

Họ đi qua công trường Các. Gió lồng lên quanh người họ như một con vật quen thuộc.

– Em không thể dọn nhà đi được à? Gơrebê hỏi.

– Đi đâu? Anh biết chỗ nào có phòng không?

– Không.

– Em cũng vậy. Trong thành phố có hàng ngàn người không có nhà ở. Anh muốn em đi đâu bây giờ?

– Tất nhiên, bây giờ thì đã muộn.

Elidabet ngừng lại.

– Mà dù có kiếm được chỗ khác, em cũng không di. Em có cảm tưởng như bỏ mặc ba em vậy, anh hiểu không?

– Anh hiểu.

Họ lại đi. Gơrebê thấy mình đã hiểu quá rõ cô gái lạ lùng và bướng bỉnh này. Cô có thể làm mọi điều cô thích. Anh cảm thấy kiệt sức và bồn chồn và bỗng anh thấy như chính lúc này bố mẹ anh đang tìm anh ở phố Haken.

– Anh phải đi đây, anh nói. Anh có hẹn mà bây giờ đã trễ rồi. Chúc em ngủ ngon, Elidabet.

– Chúc anh ngủ ngon, Ernest.

Anh đi theo cô một quãng. Bóng cô lẫn vào bóng tối thật nhanh. Anh tự nhủ “Giá mình đưa cô ta về nhà thì phải”. Nhưng điều đó không quan trọng lắm với anh. Anh nhớ đến nỗi ác cảm cũ xưa của anh đối với cô, khi hai người còn nhỏ. Anh trở lại và đi về phía phố Haken. Phố xá vắng ngắt. Không ai đợi anh cả. Chỉ có mặt trăng và cảnh lặng lẽ đến thê lương kỳ lạ của những căn nhà mới đổ, chúng nổi lên sừng sững trên bầu trời như tiếng vang của một lời kêu câm lặng. Cảnh lặng lẽ của những căn nhà đổ từ lâu khác hẳn.

Bôtsê đã đứng trên thềm tòa thị chính rồi. Trong ánh trăng đêm, miệng một máng nước hình đầu con thú[36] màu tái nhợt nhăn nhó trên đầu hai người.

– Anh có biết được gì không? Vừa thấy Gơrebê y hỏi ngay.

– Không. Còn anh?

– Tôi cũng không. Bố mẹ anh không ở trong bệnh viện nào cả. Chắc chắn là như vậy. Tôi đã đi gần hết các bệnh viện. Giá anh được thấy những cảnh đó nhỉ? Toàn đàn bà và trẻ con, khác hẳn cảnh lính. Thôi đi đâu uống bia đi.

Họ đi ngang qua quảng trường Ađôn Hitle. Tiếng bốt của họ vang trên hè phố.

– Lại mất toi một ngày nữa, Bốtsê nói. Mình hết phép đến nơi rồi mà vẫn chưa tìm được vợ.

Y đẩy cửa một quán rượu và đưa bạn vào một bàn gần cửa sổ. Màn cửa được kéo cẩn thận. Những vòi rượu ở quầy bóng lên thành hình bán nguyệt. Bôtsê có vẻ quen biết quán rượu này từ lâu. Cô hầu bàn không chờ họ gọi, đã đem đến hai cốc bia. Y nhìn theo cô gái. Cô ta trông đồ sộ, cặp mông nhún nhảy nặng nề theo bước chân đi.

– Thế là bọn ta ngồi một mình ở đây. Y nói, vợ tớ cũng ngồi một mình ở một xó xỉnh nào đấy, ít ra tớ cũng đoán là như vậy. Chỉ nghĩ thế cũng đủ phát điên lên.

– Tôi không biết. Tôi chỉ cần biết là bố mẹ tôi ngồi trước một cốc bia ở một nơi nào đó, bất cứ ở đâu, thế cũng đủ làm tôi sướng rồi.

– Tất nhiên hai việc đó không giống nhau. Bố mẹ không phải là vợ. Người ta không cần bố mẹ. Biết được bố mẹ mình còn khỏe, thế thì tốt rồi. Còn vợ thì…

Họ gọi hai cốc khác và mở gói thức ăn ra. Cô hầu bàn lượn quanh bàn họ, liếc nhìn khúc dồi và mỡ.

– Chà! Các anh không đến nỗi phải bóp mồm bóp miệng nhỉ?

– Phải, bọn tôi có đủ, Bốtsê đáp. Mỗi đứa chúng tôi có một gói thịt và đường đề mang về gia đình nữa cơ. Chúng tôi không biết dùng làm gì đấy!

Y uống một ngụm.

– Anh còn may, y giải thích cho Gơrebê với vẻ chua chát. Anh chỉ việc ăn cho no rồi đi kiếm một con điếm nào mà nằm trong tay nó là quên hết sự đời.

– Ai cấm anh làm như vậy?

Bốtsê lắc đầu. Gơrebê ngạc nhiên nhìn y. Anh không tin vào lòng chung thủy với vợ của tên lính già này.

– Chúng nó gầy quá, chú mày ạ, y nói tiếp. Cái khổ là tớ chỉ thích những người rất mập thôi. Những đứa khác làm tớ dửng dưng, y như tớ phải nằm với một súc gỗ[37] vậy. Phải mập mạp mới được. Không thì chẳng khoái chút nào.

– Thì mập đấy còn gì. Gơrebê ra hiệu cho y thấy cô hầu bàn và nói.

– Chú mày lầm rồi! Bôtsê bốc lên nói. Có nhiều loại đàn bà mập mạp, chú mày biết không. Đây là miếng thịt đông núng na núng nính. Thứ ấy chỉ ngó ngoáy chán rồi lún xuống thôi. Đẹp đấy, tớ công nhận thế, nhưng đó chỉ là nệm bông, không phải thứ nệm lò xo[38] như vợ tớ. Vợ tớ à, toàn là lò xo bằng thép! Khi cô ta mà lên cơn thì cả nhà rung chuyền như bếp lò rèn vậy. Phải thấy khung ảnh rung chuyển trên tường mới biết được. Thứ đàn bà ấy không dễ ra đường là gặp ngay đâu, chú mày ạ.

Y nín lặng, ngồi mơ màng, vẻ ủ rũ. Bỗng Gơrebê thoáng thấy một mùi hoa viôlet. Anh tìm xung quanh và thấy một hình hoa nhỏ đặt bên thành cửa sổ. Hương thơm vô cùng dịu ngọt, ngào ngạt chứa đầy mộng ước của tuổi thanh xuân, những kỷ niệm bình dị và xa xưa tràn ngập trong anh như những đợt sóng dồn. Một làn hương thơm lại làm anh xúc động và mệt mỏi hình như anh vừa đeo ba-lô chạy một quãng dài trong tuyết. Anh đứng dậy.

– Cậu đi đâu? Bốtsê hỏi.

– Tôi không biết nữa. Đi đâu cũng được.

– Cậu đã đến trạm chưa?

– Rồi. Tôi đã được cấp giấy vào ở trại rồi.

– Tốt, thể cố xin cho được ở phòng 48 nhé.

– Đồng ý.

Mắt Bốtsê vẫn theo dõi cô hầu bàn nhưng không có vẻ hứng thú lắm.

– Tôi còn ở đây một lát. Cho một cốc bia nữa, cô!

Gơrebê thủng thẳng đi về phía trại lính. Ðêm hơi lạnh. Ở một góc phố, đường sắt xe điện dựng đứng trên một hố bom. Mặt trăng tỏa chiếu một thứ ánh sáng bàng bạc vào cửa các căn nhà đổ. Anh nghe rõ tiếng bước chân anh vang lên như có ai theo sau. Tất cả đều trống rỗng, sáng sủa và lạnh lẽo.

Trại lính ở một khoảng đồi ven thành phố. Nó còn nguyên vẹn. Cái sân trắng xóa dưới ánh trăng trông như phủ tuyết. Gơrebê đi qua cồng chính. Anh có cảm giác như đã hết phép rồi. Quá khứ như đổ sụp sau lưng anh, như căn nhà của bố mẹ anh và anh lại trở ra mặt trận. Lần này là một mặt trận khác, không đại bác, không súng trường, nhưng cũng nguy hiểm không kém mặt trận kia.

[33] Một tổ chức xung kính trong quân đội quốc xã. Tên Đức lấy chữ đầu hai chữ STURM ABTEILUNG.

[34] Hohenfriedberg: Một bài quân hành Phổ ca ngợi chiến thắng của hoàng đế Phổ Phêđrich đệ nhất tại Hôhenphritbec.

[35] Nguyên bản tiếng Pháp; walkyrie là một loại nữ thần đẳng cấp thấp trong các truyện thần thoại của dân tộc Xcanđinavơ. Loại nữ thần này có nhiệm vụ chuốc rượu ngọt cho các anh hùng hi sinh trong chiến đấu.

[36] Ở châu Âu, miệng các máng dẫn nước trên nóc các nhà kiểu cổ thường được trạm trổ theo hình mặt người hoặc thú, và trình bày, như một công trình kiến trúc có tính chất nghệ thuật.

[37] Nguyên bản tiếng Pháp: y như tớ phải nằm với cái cán chổi vậy.

[38] Nguyên bản tiếng Pháp: nệm bảo hiểm của những người làm trò nhào lộn nguy hiểm ở các rạp xiếc ( sommier d’acrobate)