Chương 10
Ba ngày sau, trong phòng số 48, bốn người đang chơi bài bơ-lốt[39] quanh một cái bàn. Họ chơi đã hai hôm nay, chỉ ngừng lại để ăn và ngủ. Ba người đã nhường chân cho người khác thay, nhưng người thứ tư chơi liên tục. Tên anh ta là Rammen, và ba hôm trước đây, anh ta về phép, đến nhà vừa kịp để chôn vợ và con gái. Anh ta nhận được vợ do một vết chàm ở bên hông, vợ anh ta đã mất đầu. Sau khi chôn cất xong, anh về trại và bắt đầu chơi bài. Anh không nói với ai. Anh chúi vào ván bài, lặng lẽ và thản nhiên. Anh thường được luôn.
Gơrebê ngồi gần cửa sổ. Bên anh là viên đội Roi-tơ, tay cầm chai bia, chân phải bị băng bó, đặt trên chiếc ghế đẩu. Y là người cũ ở phòng này, y mắc bệnh tê thấp. Phòng số 48 không phải chỉ là nơi trú chân của những người đi phép gặp tai nạn, nó còn là phòng chữa trị cho những người bị thương nhẹ của bệnh viện. Ở một góc phòng có tiếng thở của viên cai Phenman. Hắn có ý định ngủ ngoài mặt trận. Hắn chỉ rời khỏi giường để ngồi vào bàn ăn.
– Bốtsê đâu rồi? Gơrebê hỏi. Chưa về à?
– Nó đi Haxtê và Ibua rồi. Nó mượn ai được cái xe đạp. Bây giờ mỗi ngày nó có thể đến hai làng. Nó còn phải đi tới mười hai làng nữa. Lại còn các trại của những người tản cư, do các đoàn xe chuyển đến, thường ở cách nhau tới hàng trăm cây số. Tớ không hiểu nó có định đến đấy không?
– Tôi đã viết thư cho bốn trại tản cư, Gơrebê nói, hỏi tin vợ ý và bố mẹ tôi.
– Cậu tưởng người ta sẽ trả lời cậu à?
– Không chắc, nhưng chẳng sao, cứ viết.
– Cậu gửi những thư đó cho ai?
– Cho Ban chỉ huy Trại và ở mỗi trại, gửi thẳng cho bố mẹ mình và vợ Bốtsê.
Gơrebê rút ở trong túi ra một tập thư.
– Tôi mang ra Bưu điện gửi ngay đây.
Roitơ gật đầu.
– Hôm nay cậu đi đâu?
– Đến trường trung học và phòng tập thể dục của trường ở gần nhà thờ. Rồi mình đến hỏi ở trạm hướng dẫn những người bị nạn và quay về trạm đón tiếp. Chẳng có gì cả.
Một người đánh bài vừa nhường chân cho người khác, tới ngồi bên hai người.
– Tôi không hiểu sao lại có những kẻ được nghỉ phép lại đến trại lính ở, hắn nói với Gơrebê. Tôi thì càng xa mọi thứ dính đến quân đội càng tốt. Nguyên tắc của tôi là như vậy. Tôi sẽ thuê một căn phòng, ăn mặc thường phục và trong mười lăm ngày tôi trở lại làm người.
– Thế cứ ăn mặc thường phục là trở thành người à? Roitơ hỏi.
– Hẳn rồi. Có cần gì nữa đâu?
– Cậu nghe thấy chưa? Roitơ nói với Gơrebê. Khi người ta có những ý nghĩ đơn giản thì cuộc sống cũng đơn giản. Cậu có bộ com-lê nào không?
– Không. Đồ đạc của tôi bị chôn cả dưới đống gạch ở phố Haken rồi.
– Tôi sẽ cho cậu mượn nếu cậu muốn.
Gơrebê nhìn qua cửa sổ sân trại. Mấy trung đội lính mới đang tập ở đó, tập chào, xung phong và nhắm bắn.
– Nghĩ cũng lạ, anh nói. Ở ngoài đó, mình tưởng về đến nhà, việc cần nhất là cởi bộ binh phục quẳng vào một xó, rồi lấy quần áo thường ra mặc; bây giờ thì không thiết nữa.
– Thế nghĩa là cậu chỉ mòn đời làm hạ sĩ quan, anh chàng vừa đánh bài xong ăn một miếng dồi lớn và nói. Hơn nữa cậu cũng chẳng biết là cậu muốn gì nữa cơ. Những người như thế bao giờ cũng được đi phép.
Anh ta lại vào bàn bạc. Anh ta vừa thua bốn mác cho Rummen. Ngoài ra, sáng nay, bác sĩ quân y tuyên bố anh đủ sức khoẻ để đi chiến đấu. Vận đen đó làm anh bực tức.
Gơrebê đứng dậy.
– Cậu đi đâu đấy? Roitơ hỏi anh.
– Ra phố. Bỏ thư và lại đi tìm.
Roitơ đặt chai rượu xuống bàn.
– Dù sao cũng đừng quên là cậu đang nghỉ phép và không còn bao lâu nữa.
– Cậu không phải lo, Gơrebê trả lời không hứng thú lắm.
Roitơ nhẹ nhàng nhắc cái chân băng bó lên và đặt xuống đất.
– Phải hiểu ý tớ nhé, y nói tiếp. Cậu cứ việc làm đủ mọi cách để tìm cho ra bố mẹ cậu, nhưng dù sao cũng đừng quên là phải chơi bời chút đỉnh. Không phải rồi lại được đi phép ngay đâu.
– Tớ biết, tớ biết mà. Và từ nay đến ngày ấy, cũng không thiếu gì cơ hội để nghẻo luôn đâu.
– Được, Roitơ nói. Nếu cậu đã hiểu như thế thì tốt lắm.
Gơrebê đi ra cửa. Đám người đánh bài reo lên khi thấy Rummen lại vơ tiền cả làng. Anh còn nghe tiếng người nói.
– Đỏ thật. Thế mà chẳng thấy nó khoái chút nào!
* * *
– Ernest.
Gơrebê quay lại. Một người mập lùn, mặc quân phục đại uý SA[40] mỉm cười nhìn anh. Anh cố nhớ mãi mới nhận ra khuôn mặt tròn có đôi má hồng hào, cặp mắt màu hạt dẻ, và cái cười.
– Binđinh, Anphôn, Binđinh, anh nói.
– Thưa, chính tôi đây ạ.
Binđinh tiến lên, đưa tay ra trước.
– Trời! Chúng ta không gặp nhau đến hàng thế kỷ rồi đấy nhỉ? Cậu ở đâu về đây thế?
– Ở Nga.
– Thế là về phép hả? Nếu vậy thì phải ăn mừng mới được. Đến tớ đi. Tớ ở gần đây thôi. Tớ có rượu cô-nhắc loại nhất. Thật không ngờ. Mấy khi có bạn cũ từ mặt trận về thẳng đây. Tớ đã tóm được cậu, tớ sẽ không thả cho cậu đi đâu cả.
Gơrebê nhìn hắn. Binđinh học cùng một lớp với anh trong mấy năm trời nhưng anh đã quên bẵng hắn. Có lần, anh tình cờ được nghe nói là hắn đã gia nhập đội SA. Bây giờ thì anh thấy hắn mặc một bộ binh phục mới, với đôi bốt vừa chân, vẻ rạng rỡ và mặt mày nở nang.
– Nào, Ernest, hắn nằn nì. Quyết định đi chứ.
Gơrebê lắc đầu.
– Mình không có thì giờ.
– Sao lại thế, Ernest! Bạn cũ mà. Thế nào cũng phải bớt chút thì giờ uống vài ly với nhau chứ.
Bạn cũ! Gơrebê ngắm bộ quân phục và phù hiệu đại uý của hắn. Binđinh thật không bỏ phí thời gian chút nào. Anh chợt nghĩ, biết đâu chính hắn lại chẳng có thể giúp anh tìm ra bố mẹ. Có lẽ hắn ở trong Đảng. Có lẽ hắng biết những ngóc ngách mà chỉ đảng viên trong Đảng mới biết được.
– Thì đi, Anphôn, anh nói. Nhưng chỉ uống đúng một ly cô-nhắc thôi nhé.
– Cũng được, Ernest. Đi thôi, không xa đâu.
Thật ra. Binđinh ở xa hơn chỗ hắn nói. Hắn ở ngoại ô, trong một căn nhà trắng, nhỏ, giữa một khu vườn yên tĩnh, sau một hàng cây bạch dương. Trên cành cây, có treo những chuồng chim, và người ta nghe tiếng nước róc rách của một dòng suối mắt không nhìn thấy.
Binđinh đi trước Gơrebê vào nhà. Ở phòng ngoài, có bày biện những sừng hươu, đầu một con lợn rừng và đầu một con gấu nhồi rơm. Gơrebê tỏ vẻ ngạc nhiên.
– Mình không ngờ cậu lại là thiện xạ, Anphôn?
Binđinh cười vang.
– Cậu tưởng thế đấy! Tớ có sờ đến súng bao giờ đâu! Chỉ là đồ trang trí! Coi cũng đẹp đấy chứ! Trông có vẻ Đức lắm nhỉ!
Hắn đưa Gơrebê vào một căn phòng hoàn toàn trải thảm. Trên tường, treo đầy những khung ảnh đồ sộ mạ vàng. Ghế bành bọc da đặt xung quanh một chiếc bàn thấp.
– Cậu thấy thế nào? hắn hỏi, vẻ ngạo nghễ. Được đấy chứ, phải không?
Gơrebê gật đầu. Đảng biết thưởng công cho tay chân của mình lắm. Anphôn là con một người bán sữa nghèo, ông bố vất vả lắm mới nuôi được con ăn học.
– Ngồi xuống đi. Ernest. Cậu thấy bức họa Ruyben[41] của mình ra sao?
– Cái gì?
– Tranh Ruyben. Khúc dăm bông hồng trên đàn dương cầm kia.
Bức hoạ thể hiện một người đàn bà trần truồng, mũm mĩm bên bờ hồ. Mớ tóc vàng óng và mặt trời chiếu ánh lên cặp mông vĩ đại. Gơrebê nghĩ thầm, Bốtsê cần những loại như thế này đây.
– Đẹp lắm, anh nói.
– Đẹp thôi à? Binđinh không dấu nổi sự thất vọng. Cậu biết không? Một tác phẩm siêu việt đó. Tớ mua ở tiệm chuyên cung cấp tranh cho Thống chế đấy[42]. Một kiệt tác. Nhờ người giới thiệu, mình mua cũng rẻ thôi. Cậu không thích à?
– Thích chứ, nhưng mình không sành lắm. Mình biết có người nếu trông thấy bức tranh này của cậu có thể phát ốm lên mất.
– Thật không? Người sưu tầm tranh à?
– Không, hắn chỉ chuyên về Ruyben thôi.
Binđinh hớn hở ra mặt.
– Tớ thích lắm, Ernest. Quả là thích. Mình thật không ngờ có ngày lại trở thành nhà sưu tập tranh hội hoạ. Nhưng bây giờ cậu hãy bình tĩnh nói cho tớ xem tình hình cậu ra sao, cậu làm gì và tớ có thể giúp cậu được gì nào. Tớ cũng có những chỗ quen biết của tớ chứ.
Hắn cười đắc chí.
Dù sao Gơrebê cũng thấy cảm động. Từ lúc trở về đến nay, đây là lần đầu tiên có người đề nghị giúp anh một cách hồn nhiên, không úp mở gì.
– Cậu có thể giúp mình được việc này, anh nói. Bố mẹ mình biến đâu mất. Có lẽ ông bà cụ đi theo một đoàn tản cư, đang ở một nơi nào đó trong nước. Làm thế nào để tìm ra được ông bà cụ mình? Hình như cả hai đã ra khỏi thành phố.
Binđinh ngồi lọt trong một chiếc ghế bành gần chiếc bàn nhỏ bằng đồng thau. Hắn đung đưa đôi bốt đánh xi bóng lộn với vẻ sốt ruột.
– Nếu bố mẹ cậu không ở trong thành phố thì cũng hơi khó, hắn nói. Tớ sẽ cố hỏi xem. Có thể mất vài ngày. Hơn thế không biết chừng. Tất cả còn lệ thuộc vào địa điểm ông bà cụ cậu đang ở. Chắc cậu cũng biết lúc này tất cả đều lộn tùng phèo lên.
– Mình cũng có đủ thì giờ để nhận thấy thế!
Binđinh đến một cái tủ có ngăn đóng trên tường lấy ra một chai rượu và hai cái ly.
– Uống một ly đã, Ernest. Rượu ác-ma-nhắc[43] chính cống đấy. Tớ thích thứ này hơn cô-nhắc. Chúc cậu khỏe, Ernest.
– Chúc cậu khoẻ, Anphôn.
Binđinh lại rót đầy ly lần thứ hai.
– Bây giờ cậu ở đâu? Nhà họ hàng à?
– Mình không có ai thân thích trong thành phố này. Mình đang ở trại.
Binđinh vội đặt ly xuống.
– Ở trại? Cậu điên ư? Ernest? Nghỉ phép mà lại ở trại! Thế không còn là nghỉ phép nữa rồi! Lại đây với tớ! Tớ có đủ chỗ cho cả hai ta, phòng riêng với buồng tắm, đầy đủ tiện nghi.
– Cậu ở đây có một mình thôi à?
– Chứ sao! Cậu tưởng tớ lấy vợ rồi hẳn. Tớ không ngốc đến thế đâu! Ở địa vị tớ, thiếu gì cách, hắn nháy mắt về phía chiếc đi-văng bọc da ở góc phòng. Cái đi-văng kia, không biết nó đã chứng kiến biết bao nhiêu vụ rồi. Xin nói cho cậu biết là có những đứa phải quỳ trước mặt tớ cơ.
– Thật ư?
– Quỳ thật sự! Mới hôm qua thôi, một bà thuộc loại thượng lưu nhé, tóc vàng, ngực rất đồ sộ, chàng mạng mỏng, măng-tô lông thú, còn nằm trên tấm thảm này, mụ ta rống lên như bò, xin tớ cứu chồng mụ ra khỏi trại tập trung. Có gì mà mụ ta chẳng làm được!
Gơrebê ngước mắt lên.
– Cậu có thể làm được à?
Binđinh phá lên cười.
– Tớ có thế cho người ta vào đây được. Nhưng lấy ra lại là việc khác. Nhưng đời nào tớ lại nói thế với mụ ta. Thế nào? Cậu nghĩ về đề nghị của tớ ra sao? Cậu đến đây ở chứ? Cậu cũng thấy là tớ không khách sáo đâu nhé...
– Cảm ơn cậu. Nhưng hiện nay mình không thể bỏ trại đi được. Mình đã gửi địa chỉ đó đi khắp nơi rồi phòng khi có tin tức gì về bố mẹ mình chăng. Mình phải đợi thư trả lời chứ.
– Được. Cậu biết hơn tớ là nên làm gì rồi. Nhưng đừng quên là ngày đêm, lúc nào cũng có sẵn một phòng ở nhà Anphôn dành riêng cho cậu đấy. Tớ đã lo liệu trước rồi.
– Cảm ơn cậu, Anphôn.
– Không có gì. Thế là thường. Chúng mình là bạn học cũ với nhau, phải giúp đỡ nhau chứ. Trước cậu vẫn thường để tớ chép bài của cậu. À, mà cậu có nhớ Buyếcmaistơ không nhỉ?
– Giáo sư toán của chúng mình hả?
– Đúng rồi! Lão đểu ấy làm tớ bị đuổi ở lớp đệ nhất đấy. Vì câu chuyện với con Luyxi Étlơ. Cậu còn nhớ không.
– Nhớ chứ, Gơrebê nói vậy chứ anh chẳng nhớ gì hết.
– Chà! Tớ đã van lão đừng tố cáo tớ! Vô ích, thằng súc sinh không hề động lòng. Nó nói đến bổn phận tinh thần của nó, rồi gì nữa tớ cũng không nhớ! Ông bố tớ đã cho tớ một trận thừa sống thiếu chết về chuyện này. Buyếcmaistơ...
Anphôn nhắc đến cái tên đó với vẻ khoái trá.
– Tớ đã bắt lão phải đền tội rồi. Sáu tháng ở trại tập trung. Trời! Nom thấy lão lúc ra trại mới khoái làm sao. Vừa thoáng thấy tớ ở đằng xa, lão đã đứng nghiêm, không khéo lão còn són cả ra quần vì sợ. Lão giáo dục tớ, vì vậy tớ cũng phải hết sức giáo dục lão. Chuyện buồn cười đấy chứ!
– Buồn cười thật.
Anphôn lại cười.
– Cậu có thấy không, làm thế hả dạ lắm... Trong Đảng có cái hay là có thể chơi được những cú khoái trá như vậy đó.
Gơrebê đứng dậy.
– Cậu đi đấy à?
– Phải đi thôi. Mình đứng ngồi không yên nữa, biết làm sao được.
Binđinh đồng ý. Hắn bỗng nghiêm mặt lại.
– Tớ hiểu, Ernest ạ và tớ rất lấy làm buồn. Cậu tin tớ chứ, phải không?
– Nhất định rồi. Anphôn.
Gơrebê thấy hãy còn chút ít thời gian, nên anh muốn tận dụng cho hết.
– Vài hôm nữa, mình sẽ quay lại.
– Thế thì, chiều hay tối mai nhé. Chúng ta hẹn với nhau năm giờ rưỡi đi.
– Được, năm giờ rưỡi mai. Liệu cậu đã biết được tin gì chưa?
– Có thể, để xem sao đã. Dù sao chúng ta cũng sẽ uống với nhau một chầu nữa. À này, cậu đã đi qua các bệnh viện chưa?
– Rồi.
Binđinh gật đầu.
– Còn nghĩa địa nữa, cậu đã ra chưa. Tất nhiên đó chỉ là một thể thức không sao bỏ qua được thôi!
– Chưa.
– Có dịp thì ra đấy đi. Phòng xa thế thôi. Có nhiều người đã chết mà chưa được ghi tên vào sổ đấy.
Mai mình sẽ đi.
– Tốt lắm. Binđinh lộ vẻ nhẹ nhõm ra mặt. Mai cậu có đến thì ngồi lâu hơn một chút nhé. Bạn học cùng trường, ta phải giúp đỡ nhau chứ. Cậu không thể tưởng tượng được là ở địa vị tớ, thỉnh thoảng tớ thấy cô độc lắm. Người ta có đến thăm cũng là để xin xỏ cái gì.
– Mình cũng đến nhờ cậu đấy.
– Cậu khác. Tớ muốn nói đến vấn đề vui vẻ giúp đỡ nhau thôi.
Binđinh cầm chai rượu ác-ma-nhắc lên, năm tay đóng chặt nút chai rồi đưa cho Gơrebê.
– Này, Ernest! Cầm lấy! Thế nào cậu cũng sẽ cần đến nó.
Hắn mở cửa. Bà Klaine đâu! Lấy một miếng giấy ra đây. Gơrebê cầm chai rượu trên tay, ngập ngừng.
– Mình không cần đâu, Anphôn. Binđinh gạt đi.
– Có, có lúc cần chứ! Cứ cầm đi. Tớ còn đầy một hầm rượu cơ. Hắn cầm miếng giấy bà quản gia đưa tới và gói chai rượu lại.
– Cố lên, Ernest! Mà đừng nản chí. Mai nhé.
Gơrebê trở lại phố Haken. Anh hơi chưng hửng về cuộc gặp gỡ này. Anh nghĩ, người đầu tiên tỏ ra đầy thiện chí với mình, không dè dặt chút nào, mời mình ăn và ở, lại là một tên chỉ huy đội SA! Anh bỏ chai rượu vào túi áo ca-pốt.
Trời bắt đầu về chiều. Bầu trời lóng lánh màu xà cừ và cây cối nổi bật lên phía chân trời sáng chói thành những hình thủng lỗ chỗ. Ánh chiều ta xanh nhạt phủ dần lên cảnh tan hoang.
Gơrebê dừng trước cánh cửa dán đầy thư. Bức thư của anh đã biến mất. Thoạt tiên anh ngỡ gió đã cuốn bay đi. Nhưng nếu thế thì đinh ghim phải còn lại trên cửa. Nhưng cả đinh cũng biến mất, chắc có người đã gỡ ra.
Tim anh đập rộn ràng. Anh vội vàng đọc các biển khác hy vọng tìm thấy một bức thư mới có quan hệ đến anh. Không có gì. Anh lại chạy đến nhà bố mẹ anh. Bức thư thứ hai của anh vẫn ở đó. Anh cầm lên xem kỹ. Không ai đụng đến thư đó. Không có thư nào gửi cho anh.
Anh đứng dậy ngần ngừ, lúc đó mới nhận thấy một vệt trắng, gió thổi bay trên mặt đường ở phía dưới một chút. Anh chạy đến tận nơi. Đó là bức thư của anh. Anh nhặt lên xem. Chắc có người nào đã gỡ nó ra. Bên lề thấy ghi nguyệch ngoạc chữ “Đồ ăn cắp”.
Mới đầu anh không hiểu. Sau anh nhận ra rằng hai cái đinh mà anh mượn ở bức thư cạnh đấy đã được ghim vào chỗ cũ. Vậy là chủ nó đã lấy lại tài sản của mình còn cho anh một bài học. Hoạn nạn không làm cho con người rộng lượng chút nào.
Anh tìm hai hòn đá đẹp, chặn thư của mình trên thềm cửa rồi trở vào nhà bố mẹ.
Đứng trước cảnh tan hoang, anh nhận thấy có vài thay đổi từ sau lần anh đến. Chiếc ghế bành bằng nhung đã biến mất. Hẳn đã có người đã lấy nó đi. Ở chỗ chiếc ghế, vài tờ báo hàng ngày lẫn vào đống gạch vụn. Anh leo lên lấy mấy tờ báo đó để coi. Đó là những tờ tin buổi chiều đã cũ rách và ố vàng. Trên trang nhất, những hàng tít lớn ngạo nghễ phô trương lên những chiến thắng. Anh ném những tờ báo ấy đi và tiếp tục tìm. Một lát sau anh thấy một cuốn sổ nhỏ, để mở, bị kẹt dưới hai xà nhà. Anh cầm lên và nhận ra ngay là quyển sách học của anh. Trên tờ bìa, chữ viết tên anh đã bị mờ gần hết. Khi viết tên ấy, anh mới độ mười hai, mười ba tuổi.
Đó là cuốn sách học giáo lý của anh trong các buổi học về tôn giáo. Một tập rất nhiều câu hỏi và câu trả lời đối diện nhau. Những trang sách đã bị bẩn và trên một vài trang còn có thể đọc được những điều nhận xét mà anh đã viết ra ngoài lề. Những hồi ức xô nhau dồn dập đến với anh, mãnh liệt không ngờ. Mọi vật như rung chuyển và anh không sao nói được rằng đó là cái thành phố bị phá hoại với bầu trời bình dị, màu xà cừ rung chuyển hay chỉ là cuốn sách nhỏ anh cầm trên tay trong đó có những câu trả lời thật đơn giản, thật rõ ràng đối với các vấn đề nhân loại đã đặt ra. Anh đặt quyển sách xuống và tiếp tục tìm. Anh không thấy gì nữa, không một quyển sách, không một vật gì của bố mẹ anh. Điều đó không có gì là lạ; gian phòng ở tầng thứ hai và tất cả đồ đạc của bố mẹ anh chắc bị chôn sâu dưới đống gạch. Cuốn sách giáo lý hẳn đã bị hơi nổ làm tung lên không rồi nó rơi là là xuống. Anh nghĩ cuốn sách giống như một con chim bồ câu, một con chim bồ câu trắng và cô độc, con chim của hoà bình và tin tưởng, mang theo tất cả những câu hỏi và những câu trả lời, bay trong một đêm khói lửa và than muội, đầy những thịt nát, xương tan, giữa những tiếng kêu là và chết chóc.
Anh lần lữa một lúc nữa giữa cảnh hoang tàn. Gió chiều nổi lên và thổi bay vài trang giấy của cuốn sách nhỏ, hình như có một linh hồn nào phảng phất đâu đây đang đọc những trang đó. Chúa là đấng tối cao, tốt vô biên, đáng quí vô biên, sáng tạo và làm chủ muôn loài.
Trời đã tối. Không một ánh đèn. Gơrebê đi ngang qua quảng trường Các. Vòng qua một hầm trú ẩn, anh suýt vấp phải một người đi đường. Đó là một viên sĩ quan trẻ có vẻ đang vội.
– Anh không thể chú ý được một chút à? Viên thiếu uý cáu kỉnh cằn nhằn.
Gơrebê nhìn y.
– Xin lỗi, Lútvích, anh nói. Lần sau mình sẽ cố cẩn thận hơn.
Viên thiếu uý nhìn vào mặt anh và ngay lập tức một nụ cười rộng nở trên mặt y.
– Ernest! Cậu đấy à?
Tên y là Lútvích Venman.
– Cậu làm gì ở đây thế? Nghỉ phép à?
– Phải, thế còn cậu?
– Tớ hết phép rồi. Tớ phải đi chiều nay, vì thế cho nên vội.
– Nghỉ thú không?
– Cũng nhì nhằng... Cậu hiểu ý tớ chứ. Lần nghỉ phép sau, tớ sẽ làm khác. Tớ không nói gì với ai cả, tớ sẽ đến thẳng một nơi nào yên tĩnh, đâu cũng được miễn là không về nhà.
– Sao vậy?
Venman nhăn mặt.
– Ông bà già tớ! Không sao chịu nổi! Ông bà già làm hỏng từ đầu đến cuối những ngày nghỉ phép này. Cậu ở đây đã bao lâu rồi?
– Bốn ngày.
– Thế thì cứ chờ đấy! Rồi cậu sẽ thấy.
Venman cố châm một điếu thuốc. Gió làm diêm tắt ngay. Gơrebê đưa bật lửa cho y mượn. Ngọn lửa chiếu sáng trong giây lát khuôn mặt gầy và rắn rỏi của y.
– Các cụ cứ cho mình là con nít. Đi đâu một tối là hôm sau ông bà già làm mình phát sợ. Phải ở nhà suốt ngày đêm. Đối với bà cụ thì tớ vẫn là đứa bé mười ba tuổi. Nửa thời gian nghỉ phép đầu của tớ, bà cụ khóc như mưa như gió vì mừng tớ đã trở về. Nửa thời gian sau, bà cụ tiếp tục khóc ròng vì tớ sắp đi. Thật kinh khủng!
– Còn ông bố! Trong chiến tranh trước, ông cũng là lính mà!
– Phải, nhưng ông quên hết rồi, hay ít ra cũng quên một phần. Đối với ông cụ, tớ là một người hùng. Ông cụ hãnh diện về lô huân chương của tớ lắm. Ông muốn đem tớ đi khoe khắp mọi nơi. Ông cụ tốt nhưng thuộc về thế hệ khác. Các ông bà già không hiểu được bọn mình. Đừng để ông bà cụ cậu cũng bắt cậu phải chịu cái cảnh ấy trong thời gian cậu nghỉ phép nhé.
– Mình sẽ dè chừng, Gơrebê nói.
– Ông bà cụ bọn mình có những ý định tốt nhất thế giới. Chỉ là chăm sóc yêu chiều thôi, nhưng đó lại là điều đáng sợ! Chỉ cần cậu có vẻ muốn gạt đi, thế là đối với ông bà cụ, cậu đã trở thành một thằng súc sinh không có lương tâm
Venman đưa mắt nhìn theo một người đàn bà đi đường có đôi bít tất sáng ánh lên trong bóng tối.
– Thế là cả ký nghỉ phép của cậu đi đứt, y nói. Tớ chỉ xin được một điều là ông bà cụ đừng đưa tớ ra ga, mà cũng chưa chắc là sẽ không gặp ông bà cụ tớ ở đấy đâu nhé. – Y cười – Cậu phải đặt vấn đề ngày từ đầu mới được. Ernest ạ. Ít ra cũng giành cho riêng mình những buổi tối. Nghĩ ra một chuyện gì đó, họp, công việc, bịa gì thì bịa. Nếu không thì rồi cũng sẽ như tớ thôi, bố mẹ cậu cứ coi cậu như học sinh vậy.
– Mình chắc đối với mình sẽ không xảy ra như thế.
Venman bắt tay anh.
– Tớ chúc cậu sẽ được như vậy! Cậu sẽ gặp may hơn mình. Cậu có đến trường không?
– Không.
– Đừng đến nhé. Tớ có đến. Lại một sai lầm nữa. Chán ngấy. Chúng nó đã tống ra cửa, giáo sư đứng đắn nhất của bọn ta, ông dạy bọn mình về tôn giáo đó, ông Pônman. Cậu còn nhớ ông ta không?
– Nhớ chứ! Mình còn định đến thăm thầy nữa cơ.
– Đừng đến, ông ta có tên trong sổ đen. Quên tất cả đi là hơn. Không nên quay trở lại bất cứ đâu. Đời sống ngắn ngủi và đó là quang vinh của chúng ta đấy! Thôi đi! Cố gắng nhé!
– Phải Lútvích ạ, cuộc đời quang vinh của chúng ta, do nhà nước nuôi, cho nhà ở, cho tiền giặt quần áo, cho tiền đi ra nước ngoài chơi, và do nhà nước chôn cất.
– Thật là quá bẩn thỉu! Có Trời biết bao giờ chúng ta gặp nhau nhỉ.
Venman cười rồi biến trong bóng tối.
Gơrebê lại đi. Anh không biết làm gì nữa. Thành phố tối đen. Không thể tiếp tục đi tìm được nữa và anh thấy là cần phải kiên nhẫn. Anh ghê sợ buổi tối dài thê lê đang chờ anh. Về trại còn sớm quá. Anh không muốn đến nhà mấy người quen trong thành phố. Vẻ ân cần lúng túng của họ làm anh thấy nặng nề khó chịu và mỗi lần ra về là anh thấy nhẹ nhõm hẳn.
Anh nhìn các mái nhà rách nham nhở. Về đây anh mong đợi gì? Một hòn đảo yên tĩnh xa mặt trận chăng? Hay là chốn gia đình, một chỗ an toàn, một nơi trú ẩn, một nguồn an ủi? Có lẽ thế đấy. Nhưng từ lâu, những hòn đảo hy vọng đã bị chìm trong cái chết ngu ngốc và đơn điệu. Chiến tranh đã vượt qua trận tuyến, nó đã tràn vào trong nước, nó đã chiếm lĩnh tư tưởng và thấm sâu và tận đáy lòng người.
Anh dừng lại trước một rạp chiếu bóng rồi bước vào. Rút cục thì trong rạp lại không tối bằng ở ngoài phố. Nghĩ cho cùng thì chờ đợi ở đây còn hơn là lang thang ngoài phố hay trôi giạt vào một quán nào để uống rượu.
[39] Một lối chơi bằng cỗ xì, có tính điểm, của người châu Âu: Pháp, Đức.
[40] Nguyên văn Sturmfuhrer- một chức vụ trong quân đội quốc xã tương đương với đại úy.
[41] Họa sĩ người xứ F lăng đ rơ (sau thuộc Đức) Perus Paulus Rubeas (1577-1610) nổi tiếng trên thế giới về sức sáng tạo dồi dào, có một vẻ khỏe và táo bạo, dùng sắc màu rực rỡ và mạnh. Tác phẩm danh tiếng: Hạ Chúa xuống dưới thánh giá, Đóng đinh cầu rút thánh Pi-e, v.v…
[42] Chỉ Gơ ring, thống chế bộ trưởng không quân Đức của Hít le còn nổi tiếng về việc cướp đoạt các tác phẩm nghệ thuật ở các nước bị Đức chiếm đóng để sưu tầm.
[43] Tên một vùng thuộc miền Py-rê-nê Tây Nam nước Pháp, nổi tiếng về rượu mạnh. Ở đây chỉ thứ rượu mang tên đó.