Chương 11
Nghĩa trang tắm dưới ánh nắng chói chang. Cửa ra vào bị trúng bom. Nhiều cây thập tự và mộ chỉ nằm rải rác trên các lối đi và trên các mộ khác. Những cây liễu rủ, bị lộn ngược, đám rễ rối bù giương lên trời, còn cành nằm dưới đất thì như những nhánh rễ xanh. Chúng giống những cây thảo mộc kỳ quặc nhổ từ một biển ngầm nào lên, còn bám rêu và rong. Hầu hết xương cốt những người chết bị văng lên đã được thu vén thành từng đống gọn. Chỉ những mảnh xương nhỏ hay những mảnh quan tài đã mục là còn vương cãi mỗi nơi một ít. Không có cái sọ nào.
Một cái lán được dựng lên gần ngôi nhà nguyện. Một người gác và hai người phu đào huyệt làm việc ở đó. Người gác có vẻ mệt lả và khi thấy Gơrebê trình bày yêu cầu của mình, ông ta gạt đi.
– Không có thì giờ đâu, anh ơi! Trước khi ăn, sáng nay chúng tôi còn phải chôn mười hai người. Chúng tôi làm sao biết được bố mẹ anh có chôn ở đây không? Có đến hàng tá mộ không ghi tên ai cả. Ở đây làm việc theo lối dây chuyền. Anh bảo chúng tôi làm sao biết được!
– Các bác không làm danh sách à?
– Danh sách ư?- Người gác kêu to, vẻ chua chát, rồi quay lại phía hai người phu. Anh ta muốn tìm danh sách đấy, các bác có nghe thấy không? Anh biết có bao nhiêu xác chết đang đợi ở ngoài cổng không? Ba trăm. Còn lần ném bom trước, người ta giao cho chúng tôi bao nhiêu không? Bốn trăm. Rồi lần nắm bom trước nữa? Năm trăm. Mà phải làm tất cả trong vòng bốn ngày thôi. Anh bảo chúng tôi làm sao cho xuể được. Chúng tôi không được tổ chức làm việc đó. Chúng tôi chẳng cần đến cuốc đâu mà cần máy đào đất. Và ai biết trước được lúc nào sẽ xảy ra trận bom tới nữa? Chiều nay hay là mai? Thế mà ông ta lại còn muốn danh sách.
Gơrebê không trả lời. Anh rút ở túi ra một bao thuốc lá và đặt lên bàn. Người gác và hai người phu đào huyệt nhìn nhau. Gơrebê đợi một lát. Rồi anh đặt thêm ba điếu xì gà bên gói thuốc. Anh mang tất cả những thứ đó từ ở Nga về để biếu cha anh.
– Thôi được, người gác nói. Chúng tôi làm được gì thì sẽ làm. Anh viết tên vào một mảnh giấy đi. Một người trong bọn chúng tôi sẽ hỏi văn phòng nghĩa trang. Trong lúc chờ đợi, anh có thể đi ra xem ở chỗ những người chết chưa được ghi tên, xếp ở đằng kia, dọc theo tường nghĩa trang.
Gơrebê ra nơi anh được chỉ tới. Một số người chết đã được nhận diện. Một số đã có cả quan tài, có những xác bọc trong chăn nằm trên cáng. Nhiều người mặc quần áo ngày chủ nhật, một số được phủ vải. Anh lần lượt đọc từng tên người chết, lật vải che những xác chết vô danh, và chẳng bao lâu đã tới dẫy xác chết không nhận diện ra được nằm xếp thành hàng dưới chân tường. Người ta đã vuốt mắt một vài xác, một số khác chắp tay trước ngực, đa số nằm sóng sượt ở nguyên tư thế như khi người ta tìm thấy và người ta chỉ xếp tay cho xuôi dọc thân người để có thêm chỗ. Một đoàn người dân lặng lẽ đi thành hàng, cúi xuống từng bộ mặt tái nhợt và lạnh giá để tìm thân nhân.
Gơrebê nhập vào trong hàng. Cạnh anh vài bước, một người đàn bà bỗng quì gối xuống bên một xác chết và khóc nức nở. Những người khác đi vòng tránh bà ta và tiếp tục cuộc tìm kiếm bi thảm này với những bộ mặt lầm lì, kín đáo dường như không bộc lộ chút xúc động nào, nếu không phải là một vẻ chờ đợi khắc khoải. Càng gần hết hàng xác chết, chút hi vong mỏng manh càng hiện rõ trên các bộ mặt và họ tản đi với vẻ nhẹ nhõm trông thấy.
Gơrebê trở về chỗ cũ.
– Anh đã vào nhà nguyện chưa? Người gác hỏi.
– Chưa.
Những xác chết đã bị nát vụn, đều ở đấy- ông ta nhìn Gơrebê vẻ thúc dục- Nhưng có gan thì hãy vào. Mới hôm qua, một ông trung uý[44], tại một trại tập trung vào trong đó rồi đâm ra khó ở đấy. Thế mà ông ta trông khoẻ như trâu.
Gơrebê không trả lời. Anh đã thấy nhiều xác chết rồi, bây giờ không có gì có thể làm anh xúc động nữa kể cả xác chết của thường dân, dù trong đó có cả xác đàn bà, trẻ con. Những cảnh thảm khốc anh đã được chứng kiến ở Nga, ở Hà Lan, ở Pháp không kém những điều anh được thấy trong ngôi nhà nguyện này. Anh nhận thấy những xác chết lạnh cứng đã rữa nát ở các trình độ khác nhau, trong các vụ đông ở Nga, nhất là một toán năm mươi du kích bị treo cổ, mặt tím ngắt, sưng húp, mắt lồi ra khỏi chòng, đã chảy nước, môi nứt vỡ, lưỡi đen xì và sưng phồng lên, một cách kỳ dị, đã phơi bầy ra một cảnh kinh hãi hơn những mảnh thịt vụn chất đống trong nhà nguyện.
– Không thấy gì ở văn phòng nghĩa trang cả, một người phu đào huyệt nói. Trong thành phố có hai nhà xác. Anh đã đến đấy chứ?
– Rồi.
– Ở đấy họ còn có nước đá. Họ may hơn chúng tôi.
– Phải nhưng họ cũng bận ngập đầu.
– Không sao. Có đá thì không sợ gì. Trời còn nóng thế này mà cứ vài trận bom liên tiếp thì thế nào cũng có tai hoạ. Lúc đó đành phải chịu cảnh hố công cộng.
Gơrebê gật đầu. Nhưng đối với anh, tai hoạ không phải là việc phải dùng đến hố công cộng mà ở những nguyên nhân xa xôi hơn, làm cho hố công cọng trở nên cần thiết.
– Chúng tôi làm được đến đâu thì làm, người gác nói tiếp. Ngày nào chúng tôi cũng mộ thêm phu đào huyệt nhưng vẫn còn ít quá. Cách làm việc riêng đã xưa rồi. Và chúng tôi còn phải theo nghi lễ tôn giáo- ông ta chậm chạp lau mồ hôi trán. Chỉ ở trại tập trung là có những cải tiến thực sự. Ở đấy người ta thanh toán mỗi ngày hàng trăm xác chết. Người ta có những phương pháp tối tân bậc nhất. Dĩ nhiên phải nhờ lò thiêu xác mới làm được, nói đến cái đó làm gì ở đây.
Mắt ông lim dim nhìn phía trên tường một lát. Rồi ông giơ tay chào Gơrebê, rảo bước đi về lán, ra vẻ một công chức tận tâm của thần chết.
* * *
Gơrebê còn phải đợi vài phút. Cổng ra vào nghĩa địa đã bị hai xe tăng làm nghẽn. Anh nhìn xung quanh lần cuối cùng. Các cha cố đang cầu nguyện trên các mộ, tang quyến thì quì dưới đất, chim hót trong bầu không khí nồng mùi hoa tàn và mùi đất mới đào. Đám tang tiếp tục đi dọc theo tường, phu đào huyệt giơ cuốc lên trên những lỗ huyệt đào dở, thợ chạm lúi húi quanh các tấm mộ chí, tang gia lượn đi theo sự chỉ dẫn của người trưởng lễ. Khu vườn của cái chết trở nên nơi nhộn nhịp nhất trong thành phố.
Căn nhà trắng nhỏ của Binđinh được bóng cây xanh che phủ. Một tia nước róc rách trong cái bể nhỏ xây giữa bãi cỏ. Hoa thuỷ tiên và hoa tu-lip điểm những vệt sáng dưới những bụi li-la đang nở hoa. Cành lá mềm mại của một cây bạch dương nhẹ nhàng mơn trớn bức tượng bán thân một cô gái bằng cẩm thạch.
Người quản gia mở cửa. Đó là một người đàn bà tóc hoa râm, mặc áo tạp dề trắng.
– Ông có phải là ông Gơrebê?
– Phải.
– Ông cháu không có nhà. Ông cháu đi họp Đảng. Nhưng có để thư lại cho ông.
Gơrebê theo bà ta vào phòng ngoài có treo sừng hươu. Bức tranh của Ruyben làm bóng tối mờ mờ của gian phòng như sáng lên. Một bức thư và một chai rượu bọc trong giấy chờ Gơrebê trên chiếc bàn thấp. Anphôn viết là hắn chưa biết được tin gì mới nhưng hắn chắc chắn rằng không một cơ quan nào đang làm việc ở thành phố, ghi là bố mẹ Gơrebê đã chết. Như vậy có thể là ông bà cụ đã được di chuyển theo một đoàn tản cư nào hay ông bà đã tự động đi rồi. Mai Gơrebê có thể quay lại được không? Trong khi chờ đợi, anh cố nhờ chai rượu vốt-ka này mà tạm quên nước Nga vậy!
Gơrebê đút lá thư và chai rượu vào túi. Người quản gia đứng đợi ở ngưỡng cửa.
– Ông cháu có dặn gửi lời chào ông.
– Nhờ bác cũng chuyển lời tôi chào ông nhé, và nói với ông là mai tôi sẽ tới. Cảm ơn ông cả về chai rượu nữa. Đối với tôi, nó quí lắm đấy.
Người quản gia nở một nụ cười hiền hậu.
– Chắc ông cháu sẽ bằng lòng lắm. Sao mà ông ấy tốt thế!
Gơrebê đi qua vườn để ra ngoài. Anh nghĩ, sao mà ông ấy tốt thế! Thế mà hắn đã tống giáo sư dạy toán của hắn vào trại tập trung. Mỗi người chỉ tốt với một số người, còn đối với một số người khác, thì trái lại.
Anh nắn chai rượu làm phồng túi áo ca-pốt của anh. Dùng chai rượu này làm gì đây? Để ăn mừng hi vọng mỏng manh là sẽ tìm được bố mẹ? Để thết những người ở cùng phòng số 48? Và nếu anh đem tặng Elidabét Cơrudê thì sao? Có lẽ cô ta cần thứ đó hơn anh không biết chừng. Vả lại anh cũng vẫn còn chai rượu ác-ma-nhắc.
* * *
Người đàn bà mặt xạm mở cửa cho anh.
– Tôi muốn nói chuyện với cô Cơrudê. Gơrebê nói và định xông bừa vào. Mụ không tránh.
– Cô Cơrudê không có nhà, mụ nói. Ông phải biết thế chứ.
– Bà bảo tôi biết làm sao được?
– Cô ấy không nói với ông là cô ta đi làm à?
– Tôi quên rồi. Mấy giờ cô ấy về nhỉ?
– Bảy giờ.
Gơrebê không ngờ đến chuyện trở ngại này. Anh đã thoáng nghĩ đến việc gửi chai rượu lại cho Elidabét. Nhưng không biết mụ mật thám này có chịu chuyển giúp không?
– Thôi được, tôi sẽ trở lại vậy.
Anh do dự đi vài bước ra phố. Anh xem đồng hồ. Đã gần sáu giờ rồi. Trước mắt anh, lại là một buổi tối, buồn tẻ và đơn điệu nữa. Rôitơ đã nói với anh, cậu đừng quên tận dụng lần nghỉ phép này nhé. Anh không sao quên được. Nhưng biết tận dụng ra sao đây?
Anh lại ra ngay quảng trường Các và ngồi trên một ghế dài. Cách anh vài bước, cái hầm trú ẩn bằng bê-tông lù lù như một con rùa. Có những người lo xa lén lút lẩn vào trong đó ngủ đêm. Bóng tối dần dần lan ra quanh những bụi cây hoàng dương. Gơrebê luôn giở đồng hồ ra xem. Anh nghĩ nếu anh gặp Elidabét ở nhà, có lẽ anh đã đưa chai rượu vốt-ka cho cô rồi đi. Không gặp cô, anh ráng đợi đến bảy giờ.
Chính Elidabét ra mở cửa cho anh.
– Anh không ngờ gặp em đấy, anh ngạc nhiên nói với cô. Anh tưởng mụ nặc nô đang đứng gác ở cổng.[45]
– Mụ Lidơ không có nhà. Mụ ta đi dự một cuộc họp của tổ chức ái hữu những phụ nữ quốc xã.
– Chắc ở đội phụ nữ chân chì[46] chứ gì! Mụ ấy ở đấy thì khác gì ở nhà.
Gơrebê đưa mắt nhìn quanh phòng.
– Mụ ta đi khỏi, trông cái gì cũng khác hẳn nhỉ, anh nhận xét. Vì được bật đèn, Elidabét giải thích. Mụ ấy vừa quay đi là em bật đèn ngay.
– Còn khi mụ ở nhà thì sao?
– Khi mụ ở nhà thì phải tiết kiệm. Thế là yêu nước. Cứ việc ngồi trong bóng tối.
– Đúng rồi, Gơrebê nói. Mà họ muốn thấy chúng mình thế cơ.
Anh rút chai rượu ở trong túi ra.
– Anh mang đến cho em một ít rượu vốt-ka đây. Ở hầm rượu của một tên đại uý. Đây là quà của một người bạn học cũ.
Elidabét nhìn anh.
– Anh chọn bạn cũng lạ nhỉ.
– Cũng gần như em chọn các người cùng thuê nhà với em ấy.
Cô cười và cầm chai rượu.
– Thử xem có tìm ra cái mở nút chai không. Cô đi trước anh vào bếp. Anh thấy cô mặc một cái áo nịt, cổ cao, màu đen, bó sát thân người và một cái váy cũng màu đen, Tóc cô bọc trong một cái mạng bằng lụa đen. Vai cô ngang và chắc, hông nhỏ và thanh.
– Em không tìm ra cái mở nút chai, cô đóng ngăn kéo lại và nói. Bà chủ không bao giờ được uống rượu.
– Thế mà hình như bà chủ chỉ làm có vậy. Nhưng chúng ta cũng không cần đến cái mở nút chai.
Anh cầm chai rượu, gõ cho phần xi quanh nút rơi ra và đập mạnh cổ chai vào đùi. Nút chai bắn lên kêu bốp.
– Đành phải làm thế thôi[47], anh nói. Em có ly không hay chúng ta tu vậy.
– Ly ở phòng em, vào đây.
Gơrebê đi theo cô. Bây giờ anh lấy làm sung sướng là đã đến đây. Ít ra anh cũng không phải qua một tối cô đơn và trống rỗng khác.
Eli-da-bét lấy hai ly nhỏ ở ngăn trên tường, bên một giá sách. Gơrebê không nhận ra căn phòng. Đồ đạc có một cái giường, vài chiếc ghế bọc vải xanh lá cây một bàn viết kiểu bi-đéc mai-ơ[48], coi vẻ ấm cúng, yên tĩnh. Trong trí nhớ, anh chỉ ghi lại ở căn phòng này một cảm giác hỗn độn lạ thường. Anh nghĩ có lẽ là do tiếng rú của còi báo động. Tiếng động gây ra một sự tan hoang tưởng tượng ở khắp nơi. Nom Eli-da-bét cũng khác. Nhưng không phải là cái không khí ấm cúng, thư thái toát ra ở cô.
Cô quay lại.
– Chúng mình không gặp nhau được đúng bao lâu rồi nhỉ?
– Một trăm năm. Lúc đó chúng ta còn là trẻ nhỏ và chưa có chiến tranh.
– Thế bây giờ thì sao?
– Bây giờ chúng ta già rồi mà vẫn không có kinh nghiệm tuổi tác. Chúng ta già và trơ tráo. Chúng ta không tin gì hết và chúng ta buồn. Nhưng cũng chẳng đến nỗi buồn lắm đâu.
Cô nhìn anh.
– Thật vậy ư?
– Nhưng sự thật là thế nào? Em có biết không?
Eli-da-bét lắc đầu.
– Có cái gì mãi mãi là chân lý không anh? Cô hỏi.
– Không chắc có. Tại sao vậy?
– Em không biết. Nhưng nếu người ta không cố tình ép buộc người khác phải theo các chân lý của mình thì ít xảy ra chiến tranh hơn.
Gơrebê mỉm cười. Giọng nói của cô nghe là lạ.
– Sự rộng lượng, phải, đúng đó là cái thiếu nhất trên đời nay. Eli-da-bét gật đầu, anh cầm ly lên và rót rượu.
– Hãy nâng cốc chúc cho sự rộng lượng. Anh chàng đại uý tặng anh chai rượu này chắc không ngờ đến điều đó. Cho nên càng cần phải uống.
Cả hai uống cạn ly.
– Một ly nữa nhé? Anh hỏi.
Eli-da-bét lưỡng lự một chút rồi rùng mình.
– Thì một ly nữa, cô nói.
Anh rót đầy hai ly nữa rồi đặt chai xuống bàn. Thứ vốt-ca này mạnh, trong và nguyên chất. Eli-da-bét đặt ly xuống.
– Lại đây, cô nói, em sẽ đưa anh đi thăm Viện bảo tàng của sự rộng lượng. Mụ Lô-dê vội đi nên quên không khoá cửa phòng. Đây không phải là lợi dụng lòng tin đâu. Hễ em vắng nhà là mụ sang lục lọi phòng em ngay…
Một góc phòng có vẻ bình thường. Nhưng trên bức tường đối diện với cửa sổ là một tấm chân dung màu của Hítle, với những cành thông và lá xồi tết thành vòng xung quanh. Dưới tấm hình là cuốn “Cuộc chiến đấu của tôi”[49] loại sang nhất, gáy vàng, đặt trên một cái bàn có phủ một lá cờ thập ngoặc. Hai bên cuốn sách là hai cây đèn nến bằng bạc chung quanh có bày nhiều ảnh quốc trưởng: bức chụp ở Bécstét-gác-đen[50] với một con chó loài sói, bức đang nhận một bó hoa từ tay một em bé gái mặc đồ trắng. Toàn bộ trang trí còn có dao găm và huy hiệu của Đảng.
Gơrebê không ngạc nhiên mấy. Đây không phải là lần đầu tiên anh thấy một cảnh phô trương hình thức loại này. Việc sùng bái một nhà độc tài rất dễ biến thành hình thức tôn giáo.
– Mụ ngồi đây viết thư tố cáo à? Anh hỏi.
– Không, mụ ngồi ở bàn giấy của ba em ở đằng kia.
Gơrebê đi lại phía bàn giấy. Đó là một cái bàn cũ, nắp đã khoá.
– Khoá trái rồi, Eli-da-bét nói. Không biết mụ ta để những gì trong đó. Em đã thử mở nhiều lần rồi.
– Mụ tố cáo ba em phải không?
Em không chắc lắm. Từ ngày người ta bắt ba em đi, em không biết chút gì. Bấy giờ mụ đã ở đây với thằng con trai rồi. Mụ chỉ có một phòng. Ba em vừa bị bắt, mụ chiếm ngay hai căn phòng của ba em. Có lẽ vì thế đấy.
– Em có cho rằng mụ tố cáo ba em cho bị bắt để chiếm phòng ư?
– Sao lại không? Đôi khi người ta tố cáo nhau vì cái lợi nhỏ hơn thế nhiều.
– Có thể, nhưng cái loại bàn thờ kia hình như chứng tỏ rằng mụ ấy thuộc loại cuồng tin đã hoá điên trong đội quân phụ nữ chân chì đấy.
– Ernest, Elidabét chua chát nói, anh thật sự tin rằng sự rộng lượng không thể phù hợp với lợi ích cá nhân được à?
– Không, nhất định là không rồi. Nghĩ đến những điều ngu ngốc mà người ta được nghe một hai lần rồi không suy nghĩ gì thêm, cứ thế nhắc lại hoài, kể cũng lạ. Thế giới không phải chỉ có những điều đã được phân loại, đánh dấu và xếp hạng. Loài người lại càng không phải như thế. Có thể con rắn độc này thành thực yêu con, yêu chồng, yêu hoa, cũng xúc động trước sự cao thượng hay rộng rãi đấy. Không hiểu sao mụ ta có biết điều gì chính xác không hay nó đã bịa chuyện để tố cáo ba em?
– Ba em tốt nhưng thiếu thận trọng, chắc ông già bị nghi ngờ từ lâu rồi. Suốt ngày cứ nghe những bài diễn văn chính trị ở ngay trong nhà mình rồi phải nín lặng, thì khó mà ngậm miệng được.
– Em có biết ba em đã nói những gì không?
Elidabét nhún vai.
– Ba em không còn tin rằng nước Đức sẽ thắng trận. Thế thì có nhiều người như ông.
– Như anh phải không?
– Như anh chẳng hạn. Bây giờ chúng mình ra khỏi căn phòng này đi. Mụ nặc nô mà bắt gặp chúng mình ở đây, có Trời biết mụ sẽ làm gì!
Eli-da-bét khẽ mỉm cười.
– Mụ ấy sẽ không tóm được chúng mình đâu, em đã gài cửa lối vào hành lang rồi. Mụ ấy không thể vào được.
Cô đi ra cửa và mở then, Gơrebê nghĩ. Lạy chúa, nếu người ta có hành hạ cô, ít ra cô cũng không phải là một người tử nạn dại dột hay quá ư câu nệ!
– Ở đây có mùi nghĩa địa, anh nhận xét. Chắc là do những lá sồi đã héo này. Lại đây uống một ly nữa đi, em.
Anh rót rượu vào ly.
– Anh biết tại sao chúng mình cảm thấy già rồi, anh nói. Vì chúng ta đã trông thấy nhiều rác rưởi quá. Rác rưởi mà những người lớn tuổi hơn chúng ta đã khuấy lên, đáng lẽ họ phải tỏ ra biết điều hơn.
– Em có cảm thấy già đâu. Eli-da-bét cãi lại.
Anh nhìn cô. Quả vậy trông cô không có vẻ già chút nào.
– Càng hay, anh nói.
– Em cảm thấy như bị tù, cô nói. Thế còn tệ hơn là cảm thấy mình đã già.
Gơrebê buông người vào một chiếc ghế bi-déc-mai-ơ.
– Ai biết được là con mụ ấy có còn tố cáo em nữa không? Có lẽ mụ ấy muốn được ở cả nhà cũng nên.Tại sao lại cứ bị động ngồi chờ người ta đến bắt em đi? Chắc em cũng biết rõ là em không có cách gì để tự vệ đấy chứ?
– Phải, em biết, bỗng nhiên cô nói, với vẻ bướng bỉnh và bối rối. Nhưng làm thế nào được, anh. Nó cứ như điều mê tín. Em tin chắc rằng chừng nào em còn ở đây thì ba em có thể may mắn trở về. Nếu em đi, em có cảm giác như bỏ rơi ba em vậy. Anh không hiểu em ư?
– Không cần phải hiểu. Làm là làm, có thế thôi! Vô lý cũng làm.
– Anh cũng thấy thế đấy nhé.
Cô uống cạn ly. Bên ngoài có tiếng khoá lách cách trong ổ.
– Mụ ấy về rồi, Gơrebê nói. Đã đến lúc chúng ta ra khỏi phòng này thôi. Cuộc họp có vẻ không dài lắm.
Cả hai lắng nghe những tiếng bước chân đang vang lên ở phòng ngoài. Gơrebê cúi nhìn cái máy hát.
– Em chỉ có những bản quân hành thôi à? anh hỏi.
– Không, nhưng đó là những thứ ầm ĩ nhất mà em có. Và có lần khi cảnh im lặng trở nên quá nặng nề, em phải làm ồn lên để át tiếng nói của mình.
Gơrebê nhìn cô.
– Chúng ta ăn nói kỳ dị thật! Thế mà ở trường học người ta thường nói với chúng mình rằng tuổi thanh niên là thời kỳ lãng mạn nhất trong đời đấy.
Elidabét cười. Ngoài hành lang có tiếng vật gì rơi xuống đất. Mụ Lidơ cất tiếng rủa. Có tiếng cửa đập rầm rầm.
– Em lại để đèn sáng rồi, Elidabét lẩm bẩm. Ta đi thôi. Nhiều lúc em thấy không chịu nổi. Bây giờ nói chuyện khác đi.
Ra đến ngoài, Gơrebê hỏi;
– Đi đâu bây giờ?
– Em không biết nữa, Đi đâu cũng được.
– Gần đây, có tiệm cà phê, quán rượu hay chỗ nào khác không?
– Em không muốn chui ngay vào những chỗ ấy đâu. Hãy đi dạo chơi một chút, anh bằng lòng không?
– Bằng lòng.
Phố xá vắng ngắt, còn thành phố thì tối đen và lặng lẽ.
Cả hai đi ngược phố Mari, ngang quảng trường Các rồi đi qua cầu vào khu phố cổ. Chẳng bao lâu, cảnh vật trở nên hư hư thực thực, hình như cuộc sống đã ngưng lại, như chỉ còn họ là hai sinh vật duy nhất trên đời. Họ đi dọc những phố xá còn nguyên vẹn nhưng khi ghé mắt qua cửa sổ để nhìn vào những căn phòng với ghế bàn và dấu vết quen thuộc của cuộc sống hàng ngày thì họ chỉ thấy ánh trăng phản chiếu trên những miếng kính đã được rèm cửa hay giấy dầu che kín phía sau. Hình như cả thành phố đang trong cảnh tang tóc giống một nhà xác dài vô tận, phó mặc cho màu đen và bóng tối với những căn nhà đóng kín mít như những chiếc quan tài.
– Tối hôm nay không biết có cái gì vậy? Gơrebê hỏi. Mọi người đi đâu cả? Có cái vẻ chết chóc hơn mọi ngày.
– Có lẽ họ ẩn náu trong nhà. Đã mấy hôm nay thành phố không bị ném bom nên họ không dám ra ngoài. Họ đợi đợt ném bom sau. Bao giờ cũng vậy. Người ta chỉ đi ra ngoài ngay sau trận ném bom.
– Hình như trên lĩnh vực này cũng đã có những thói quen rồi nhỉ?
– Nhất định có chứ. Ở mặt trận không như vậy à?
– Cũng vậy thôi.
Họ đi vào một phố, nhà cửa đã bị phá trụi. Những đám mây xơ xác ra từng mảnh nhỏ lững thững trôi trên trời kéo theo những bóng lờ mờ dưới mặt đất. Chim đêm kéo đến đầy các căn nhà hoang, chúng bay cuống cuồng để tránh ánh trăng vằng vặc. Sau cùng, họ nghe tiếng tách, chén đụng vào nhau lanh canh.
– A! Dù sao cũng có người đang ăn uống! Vẫn còn chút ít cuộc sống quanh đây!
– Chắc là họ uống cà phê. Hôm nay có phát cà phê. Cà phê chính cống. Cà phê bom.
– Cà phê-bom à?
– Phải, cà phê-bom, cà phê nhà đổ mà! Người ta gọi thế vì đây là những thứ được phân phát đặc biệt sau mỗi vụ ném bom quan trọng. Thường còn có cả đường, sôcôla hay một gói thuốc lá nữa.
– Ở mặt trận cũng vậy. Trước khi tấn công, người ta phân phát rượu cô-nhắc hay thuốc lá. Nghĩ cũng kỳ quặc; một giờ nguy hiểm chết người đáng giá hai trăm gam cà phê.
– Một trăm gam chứ, Elidabét cãi.
Họ tiếp tục đi. Vài phút sau, Gơrebê đứng lại.
– Elidabét này, đi như thế này còn buồn hơn ở nhà! Lẽ ra chúng mình mang rượu vốt-ka theo thì phải, chúng mình đang cần có rượu để trợ lực. Quanh đây có quán cà phê nào không?
– Em không muốn vào quán cà phê, vào đấy cứ như bị nhốt trong hầm vậy. Cửa sổ đều bịt kín, cửa ra vào thì đóng chặt.
– Thế thì đến trại lính vậy. Anh có để một chai rượu ở đấy. Anh sẽ lên lấy và chúng ta ra ngoài này uống.
Trong cảnh yên lặng, họ nghe tiếng một chiếc xe lăn tới rồi họ thấy một con ngựa phóng nước đại. Hoảng hốt vì bóng tối rung rinh con vật nhẩy hỗn độn, mắt mở chừng chừng, mũi hếch lên. Bất thình lình, người lái xe giật mạnh cương. Con ngựa nhẩy lồng lên như một con quái vật trong ánh sáng huyền ảo. Từng đám bịt mép nhỏ ròng ròng từ miệng nó xuống. Hai người phải trèo qua một đống gạch vụn để tránh. Elidabét như không muốn tránh. Lúc con ngựa khẽ chạm vào người cô, Gơrebê tưởng cô sẽ leo lên lưng ngựa và để mặc cho nó lồng lộn muốn phóng đi đâu thì phóng. Nhưng cô đã đứng lại một mình trước bầu trời vắng lặng và xáo trộn.
– Tưởng em muốn đi với nó? Gơrebê nói.
– Nếu có thể được thì cũng đi rồi! Nhưng biết đi đâu? Chỗ nào cũng có chiến tranh.
– Phải ở đâu cũng thế. Ngay cả những nước có hoà bình vĩnh cửu ở các vùng biển miền Nam, và Ấn Độ cũng vậy. Không thể nào trốn chạy được.
Họ đã đến doanh trại.
– Đợi anh nhé, Elidabét, anh đi lấy chai rượu, không lâu đâu.
Anh đi qua sân, leo lên các bậc thang dẫn đến phòng số 48, bước chân vang vang. Tiếng ngáy của một số người đã ngủ làm không khí trong phòng rung lên. Trên bàn có cây đèn đêm. Những người đánh bài vẫn thức. Roitơ ngồi bên họ, tay cầm cuốn sách.
– Bốtse đâu? Gơrebê hỏi.
Roitơ gấp sách lại:
– Nó nhờ tôi nói với cậu là không tìm thấy gì cả. Nó đâm xe vào tường, xe gẫy nát. Thật hoạ vô đơn chí. Ngày mai lại đành cuốc bộ. Nó đi uống cà phê để giải phiền. Còn cậu thế nào? Trông có vè phởn phơ lắm.
– Tôi cũng chẳng có gì. Tôi lại đi ngay đây. Tôi trở về lấy cái này thôi.
Gơrebê lục trong sắc. Anh đem từ ở Nga về một chai rượu mùi và một chai vốt-ka. Ngoài ra anh còn chai ác-ma-nhắc của Binđinh.
– Lấy chai rượu mùi hay ác-ma-nhắc đi, Roitơ nói, chai vốt-ka không còn đâu.
– Sao vậy?
– Tụi tớ uống rồi. Lẽ ra cậu nên tự động mời chúng tớ thì phải. Ở Nga về, không nên có đầu óc tư bản, phải nghĩ đến bạn bè đôi chút. Rượu vốt-ka của cậu ngon lắm.
Gơrebê lấy hai chai còn lại. Anh bỏ chai ác-ma-nhắc vào túi, còn chai rượu mùi, đưa cho Roitơ.
– Cậu nói đúng. Đây cầm lấy cái này mà chữa bệnh tê thấp của cậu. Mà cũng đừng có đầu óc tư bản. Hãy nghĩ đến các bạn.
– Cảm ơn.
Roitơ lê đi lấy cái mở nút chai ở trong sắc của hắn.
– Tớ nghĩ là cậu đã chọn được phương pháp mê hoặc cổ xưa nhất, hắn nói. Cái phương pháp chuốc rượu nặng ấy. Chỉ phải cái là người ta thường xuyên quên không mở nút chai và khi mà cổ chai bị đập vỡ thì người ta thường say sưa uống nên rách toạc cả mồm. Thôi, cậu hãy tỏ ra là người lắm mưu mẹo đi.
– Chỉ nói bậy! Chai mở rồi đấy.
Roitơ ngửi chai rượu mùi.
– Cậu làm thế nào mà kiếm được rượu mùi Hà Lan ở bên Nga thế?
– Tôi mua. Cậu còn muốn hỏi gì không?
Roitơ cười gằn.
– Thôi, mang chai ác-ma-nhắc mà đi cho rồi, đồ sở khanh ăn lông ở lỗ[51]! Mà đừng quá giữ ý nhé. Cậu ở trong hoàn cảnh đặc biệt. Phải làm cho nhanh. Ngày nghỉ phép ngắn mà chiến tranh còn dài.
Phenmen ngồi nhỏm dậy trên giường.
– Gơrebê, cậu có cần túi phong lưu không[52]? Tớ có ở trong ví đây. Tớ không cần. Chưa ai ngủ ở nhà mà bị giang mai cả.
– Không nhất định, Roitơ nói. Chắc đấy phải là một thứ Đức Mẹ Đồng trinh. Mà Gơrebê là một tay khoẻ lắm cơ. Một thằng Aryăng-bản vị, với mười hai đời cụ tổ là giòng dõi chính cống. Trường hợp nó mà dùng túi phong lưu là có tội với Tổ quốc.
Gơrebê mở chai ác-ma-nhắc, uống một ngụm rồi lại cho vào túi.
– Các cậu lãng mạn hết, anh nói. Tốt hơn cả là đừng dùng vào chuyện người khác.
Roitơ giơ tay chào tạm biệt.
– Cứ yên tâm mà đi, con ạ! Hãy quên luật nhà binh. Chết dễ hơn là sống, nhất là đối với chúng mày, hạt giống anh hùng và tinh hoa của đất nước.
Gơrebê còn mang theo một bao thuốc là và một cái ly. Đi ra cửa, anh liếc nhìn đám bạc, Rummen vẫn được. Hắn có một đống tiền đồng và một xếp giấy bạc trước mặt. Mặt hắn vẫn lì lợm nhưng nhễ nhại mồ hôi.
Cầu thang gác doanh trại vắng ngắt. Toán quân tuần tra cuối cùng đã đi qua rồi. Hành lang dội lại tiếng chân của Gơrebê. Elidabét không còn đứng trước cổng nữa. Anh tự nhủ, có lẽ cô ta đi rồi, anh đoán trước là sẽ như vậy. Cô chờ anh để làm gì?
– Nàng của anh đứng đợi ở kia kìa. Người lính gác nói với anh. Làm sao một thằng binh nhì xơ xác như anh lại vớ được gái hay thế nhỉ! Món ấy là của sĩ quan.
Gơrebê đã trong thấy Elidabét. Cô đứng tựa vào tường phía bên kia đường. Anh đấm vào vai tên lính gác.
– Luật mới mà, chú bé! Bây giờ, món ấy thay cho mề đay sau bốn năm ở ngoài mặt trận đấy. Toàn con gái các tướng cả nhé! Cậu không nhanh chân là mất phần đấy, đồ đần. Mà cậu không biết là luật cấm nói chuyện khi đang gác à!
Anh đi qua đường về phía Elidabét.
– Anh cũng là đồ đần! sau lưng anh, tên lính gác nói nhưng không tin ở lời mình.
* * *
Họ kiếm được một cái ghế dài trên một mỏm đồi sau doanh trại. Họ ngồi dưới gốc cây hạt dẻ và có thể trông thấy cả thành phố dưới chân họ. Không một tia sáng. Chỉ có dòng sông lấp lánh giữa những căn nhà. Gơrebê mở chai rót ra nửa ly. Ly rượu ánh lên một màu hổ phách lỏng và rung rung trong tay anh. Anh đưa ly cho Elidabét. “Em uống đi” anh nói.
Cô uống một ngụm rồi trả lại anh.
– Em uống cạn đi, anh nói với cô. Lúc này nên uống. Uống để chúc mừng những điều ước muốn, chúc cuộc đời khốn khổ của chúng ta, chúc vận may của chúng ta là còn được sống, nhưng mà hãy uống, uống đi. Trước cái thành phố chết này, chúng ta cần làm thế lắm.
– Được, em sẽ uống để chúc tất cả những cái đó cùng một lúc.
Anh lại rót ly khác và uống cạn một hơi. Người anh nóng ran, dễ chịu nhưng anh vẫn cảm thấy trống rỗng hơn bất cứ lúc nào. Trong cảnh sáng suốt, bình tĩnh và vô vọng, anh hiểu cái tâm trạng trống rỗng ấy mà không lấy làm đau khổ.
Anh đặt ly xuống giữa Elidabét và anh. Cô đã ngồi sổm trên ghế, cằm tựa vào đầu gối. Dưới ánh trăng, lá non của cây hạt dẻ, có vẻ như hơi trắng và người ta tưởng một đàn bướm bay đêm đã lạc vào đám cây.
– Sao tối thế, cô chỉ vào thành phố và nói, trông nó giống như một mỏ than bị cháy!
– Em nhìn phía xấu rồi, em hãy quay mặt lại nào!
Sau lưng họ, quả đồi dốc thoai thoải xuống cánh đồng, những con đường ánh bạc dưới trăng, những hàng liễu, một cái làng ở giữa có ngôi nhà thờ. Rồi đến rừng và núi xanh xanh ở chân trời.
– Tất cả hoà bình của thế giới là ở đó, Gơrebê nói. Sao mà đơn giản thế, phải không em?
– Phải, đơn giản lắm, miễn là có thể quay mặt lại và quên phía dốc bên kia.
– Cái đó có thể tập cho quen được đấy.
– Anh biết cách không?
– Nhất định có chứ. Gơrebê nói. Nếu không biết thì anh đã không còn ở trên đời này từ lâu rồi.
– Em cũng muốn biết lắm.
Anh cười.
– Nhưng em cũng đã biết rồi. Lúc nào cần và ở chỗ nào cần, chúng ta đều biết tìm ra sức mạnh. Bây giờ chúng ta đã biết giữ không để phí sức trong những lúc nguy hiểm, khi mà tình cảm không còn thích hợp nữa.
Anh đưa ly cho cô.
– Điều đó cũng cần phải có kỹ thuật à? Anh hỏi.
– Tối nay thì hẳn là cần rồi.
Cô uống. Anh nhìn cô.
– Tối nay chúng ta không nói đến chiến tranh nữa nhé, anh đề nghị. Elidabét buông ngả người về sau.
– Chúng ta không nói đến gì cả.
– Tuỳ em.
Họ nín lặng. Thành phố rộn dần lên bởi những tiếng động ban đêm. Cơn gió thoảng như hơi thở của những khu rừng, tiếng cú kêu, một tiếng rì rào dưới cỏ, những đám mây và ánh sáng luôn luôn thay đổi không hề khuấy động cảnh tĩnh mịch mà còn làm bầu không khí đó u tịch hơn. Cảnh lặng lẽ chiếm lĩnh tất cả, nó từ khắp mọi nơi bốc lên, bao phủ lấy hai người, thấm sâu vào họ, theo nhịp thở và cả hơi thở của họ cũng trở nên yên lặng, cái yên lặng tốt lành đang xoá nhoà dần từng ý nghĩ, gỡ bỏ tất cả những mối ràng buộc của lo âu, trở nên dịu dàng và cuối cùng kéo dài thành giấc ngủ.
* * *
Elidabét sẽ cựa mình. Gơrebê giật mình nhìn chung quanh.
– Em thấy thế nào? Anh chợp ngủ mất!
– Em cũng thế.
Cô mở mắt. Ánh trăng lờ mờ soi vào mắt cô làm chúng trông trong suốt.
– Đã lâu em không được ngủ như thế này. Bây giờ thì cứ có ánh sáng là thế nào người ta cũng ngủ, người ta sợ bóng tối đến thắt tim lại và hễ thức dậy là giật mình và lại thấy sợ ngay.
Gơrebê không nhúc nhích. Anh không muốn hỏi cô. Trí tò mò đã bị tê liệt dần trong các thời kỳ có nhiều biến cố dồn dập. Anh hơi ngạc nhiên khi thấy mình vẫn bình tĩnh, lâng lâng trong giấc ngủ thanh tịnh, giống như một tảng đã ở dưới nước, có những cây rong rung động bao quanh. Từ ngày ở Nga trở về, đây là lần đầu tiên, anh cảm thấy bình tĩnh và khoan khoái. Mối yên tĩnh tràn ngập trong anh, êm dịu như nước tù đang từ từ dâng cao trong khoảnh khắc một đêm để nối liền những khoảng trống khô cằn của đời anh thành một tấm gương trong sáng.
Họ lại đi vào thành phố. Phố xá lại chiếm lấy họ, hơi các đám cháy đã tàn lại quấn lấy họ và những cửa sổ tối mù lại theo họ trong cảnh tang tóc bi thảm. Elidabét rùng mình.
– Trước kia, phố xá và các nhà đều tràn đầy ánh sáng và đó là điều tự nhiên. Thói quen đã làm mất điều tuyệt diệu ấy. Bây giờ chúng ta mới biết đó là một phép màu.
Gơrebê ngước mắt lên. Bầu trời trong sáng không một đám mây. Đêm rất đẹp đối với máy bay. Anh cảm thấy khó chịu ngay.
– Khắp châu Âu, ở đâu cũng thế này, anh nói. Hình như chỉ có Thụy Sĩ là còn đèn sáng. Họ làm như vậy để báo cho phi công biết là họ đang bay trên một nước trung lập. Một người bạn thân của anh làm phi công đã kể lại với anh. Trông nó giống như một hòn đảo ánh sáng, ánh sáng và hoà bình bởi hai thứ đó luôn đi đôi với nhau. Một chiếc khăn tang xám bao phủ lên tất cả những nước đang có chiến tranh, Pháp, Đức, Ý, các nước vùng Ban-căng, Áo…
– Chúng ta có được ánh sáng để sống cho ra người nhưng chúng ta đã giết chết ánh sáng để sống như người ăn lông ở lỗ vậy.
Gơrebê nghĩ, để chúng ta sống cho ra người. Anh thấy nói vắn tắt thế có vẻ hơi quá, nhưng tối nay Elidabét như thích cường điệu. Mà có lẽ cô nói đúng. Giống vật không biết làm ra ánh sáng. Cả ánh sáng lẫn lửa. Và cả bom nữa.
Họ đã đến phố Mari, Gơrebê chợt nhận ra là Eli-da-bét khóc.
– Đừng nhìn em, cô nói. Đáng lẽ em không nên uống say như vậy. Không, em không buồn đâu. Nhưng em bỗng có cảm tưởng tất cả đã rã rời trong em.
– Em đừng chống lại cảm giác đó, như thế lại hay đấy. Em có biết là anh cũng thấy thế không? Điều đó chỉ chứng tỏ là chúng ta đã thành công.
– Thành công à? Thành công về gì?
– Về cái điều chúng ta vừa nói đến lúc nãy: là quay mặt lại phía sườn đồi bên kia. Tối mai chúng ta không lang thang ngoài phố nữa. Chúng ta sẽ đến một nơi có ánh sáng trong thành phố này nơi có nhiều ánh sáng nhất. Anh sẽ đi hỏi.
– Tại sao vậy? Anh có thể kiếm được nơi vui thú hơn với em.
– Anh không thích đến những chốn vui chơi.
– Sao lại không?
– Không cần chốn vui chơi. Anh không chịu nổi cái đó. Không chịu nổi điều trái ngược nữa là gặp những kẻ có những bộ mặt thương hại mình, gợi lên lòng trắc ẩn. Anh đã phải chịu đựng suốt ngày cái lòng thương hại sót sa thật và giả. Chắc em cũng biết điều đó chứ, phải không?
Elidabét không khóc nữa.
– Biết, biết lắm chứ, cô nói.
– Giữa hai chúng ta, không cần phải nói dối nhau, thế cũng đã là nhiều rồi. Tối mai, chúng ta sẽ đến quán cà phê nào sáng nhất trong thành phố, chúng ta sẽ ăn, uống, và chúng ta sẽ cố quên trong vài tiếng đồng hồ cuộc sống đáng nguyền rủa này của chúng ta.
Cô nhìn anh.
– Vẫn là ở phía sườn đồi bên kia?
– Đúng thế. Ngày mai, em sẽ mặc chiếc áo đẹp nhất của em. Vâng, tám giờ anh sẽ đợi anh.
Anh bỗng cảm thấy tóc và đôi môi nàng phớt nhẹ qua mặt anh. Như một hơi thở không sao nắm được. Anh chưa kịp làm gì thì cô đã biến mất. Tự nhiên anh nắm chai rượu. Chỉ còn chai không. Anh đặt chai trước cửa một nhà gần đó. Anh tự nhủ, lại một ngày nữa trôi qua. May mà Roitơ và Phenman không thấy mình ở đây. Không thì mình sẽ tha hồ nghe chúng nó nói.
[44] Oberscharfubrer: tương đương với trung úy.
[45] Nguyên văn: anh tưởng Con rồng đang đứng gác cổng.
[46] Ám chỉ lính mới.
[47] Nguyên văn: ra trận thì phải làm như đi chiến đấu vậy.
[48] Một kiểu bàn ghế và trang phục cổ thịnh hành vào khoảng giữa thế kỉ 19 ở Đức. Người ta thường gọi, một bộ bàn ghế kiểu bi-đéc-mai-ơ hay một cái áo kiểu bi-đéc-mai-ơ.
[49] Tên Đức” Mein Kampf” tác phẩm chính trị được coi như Kinh thánh của Đảng Quốc xã, đường lối chính trị, chính sách và kế hoạch chinh phục thế giới của hắn.
[50] Nơi nghỉ hè nổi tiếng của Hítle, trên núi, ở vùng Ba-vi-e, miền Nam nước Đức hiện thuộc cộng hòa Liên bang Đức.
[51] Đồ cadanôva ở hang. Giăng-giắc Cadanôva đờ Xanhgan(Jean Jacques Casanova de Seiagal 1725-1798), người Ý ở thành phố Vơnidơ nổi tiếng về những chuyện trai gái của y. Y đã viết lại những truyện đó trong tập “Kỷ yếu” của y.
[52] Túi an toàn dùng trong quan hệ sinh lý giữa nam và nữ đề phòng bệnh phong tình hay giữ cho khỏi bị chữa.