← Quay lại trang sách

Chương 12

– Phải, đúng rồi. Tớ nhận đấy. Tớ đã nằm với con bé hầu bàn rồi. Bốtsê tuyên bố. Các cậu muốn tớ phải làm gì nào? Không thì đã chẳng cần nghỉ phép. Không lẽ cứ thế mà quay ra mặt trận.

Hắn ngồi ở đầu giường Phenman, tay cầm nắm ga-men đựng cà phê, chân ngâm trong chậu nước lạnh. Từ khi không có xe đạp, hắn đã bị phỏng chân.

– Còn cậu? hắn hỏi Gơrebê. Từ hôm đó đến nay, cậu đã làm gì rồi? Có thấy gì không?

– Không.

– Không à?

– Nó đã ngáy đến tận trưa. Phenman giải thích. Không sao đánh thức nó dậy được. Lần đầu tiên chúng tớ thấy nó biết điều đấy.

Bốtsê nhấc chân ra khỏi chậu và xem gan bàn chân đầy những vết phỏng to, trắng.

– Các cậu trông này. Tớ khỏe như trâu mà chân lại như chân trẻ con vậy. Xưa nay nó vẫn thế, không sao thành chai được. Tớ đã thử đủ mọi cách. Mà lại sắp phải lên đường đấy.

– Sao vậy? Bây giờ có con bé hầu bàn, cậu yên trí được rồi chứ? Phenman nói.

– Ồ, con bé hầu bàn? Kể làm gì chuyện đó. Vả lại tớ làm hỏng hết rồi.

– Lần đầu tiên, ở mặt trận về, làm không được khoái lắm phải không? Ai chẳng biết vậy.

– Không phải đâu, các cậu ơi. Việc ấy thì vẫn tốt. Không, chỉ vì con bé ấy thôi.

– Thôi đừng khó tính quá. Lâu dần sẽ quen thôi.

– Cậu không hiểu rồi. Con bé cừ lắm, nhưng bụng dạ tớ để ở đâu ấy, có thế thôi. Nghe tớ kể đây? Thoạt tiên, hai đứa nằm trên giường, bắt đầu khởi sự. Đúng đến lúc hăng nhất, bỗng tớ nghĩ đi đâu ấy. Tớ gọi “Anna”. Tên nó không phải là Anna mà là Luidơ. Anna là vợ tớ.

– Thế thì tớ hiểu rồi.

– Một tai hoạ khủng khiếp phải không?

– Đáng đời lắm! một người đánh bài bỗng thét vang lên. Hình phạt xứng đáng cho tội ngoại tình của mày đấy, đồ ngu như lợn. Tao muốn nó quẳng mày ra ngoài cho ra trò nữa cơ.

– Ngoại tình à? Bốtsê tức giận buông chân ra. Ai bảo mày thế là ngoại tình?

– Chính mày vừa nói thôi. Mười lăm phút qua, mày chỉ nói có thế. Mày ngốc quá nên không hiểu được chứ gì?

Người đánh bài bé nhỏ, có cái đầu dài. Y nhìn chăm chăm vào Bốtsê vẻ soi mói. Bốtsê tức uất lên. Hắn đứng dậy phân trần với mọi người trong phòng.

– Chúng mày đã nghe một câu chuyện ngu xuẩn như thế bao giờ chưa. Ở đây chỉ có một mình mày nói đến chuyện ngoại tình thôi. Sao ngốc thế! Đồ đần! Ngoại tình nghĩa làm nằm với một đứa khác khi có mặt vợ mình kia! Thế mà vợ tao lại không có ở đây, mẹ kiếp chứ! Đau khổ là chỗ ấy đấy. Ngoại tình? Vợ tao ở đây, mày tưởng dễ mà tao đi đuổi theo những đứa hầu bàn đấy hẳn?

– Thôi đừng nghe nó nữa, Phenman nói. Nó ghen đấy, chỉ có vậy thôi. Thế sau khi mày gọi nó là Luidơ thì nó nói gì?

– Luidơ à? Không phải, Luidơ chính là tên nó. Tao gọi nó là Anna mà.

– Thôi được, Anna. Rồi sao nữa?

– Sao à? chắc chúng mày không tin tao đâu. Đáng lẽ phải cười hay chửi tao thì chúng mày có biết nó làm gì không nào? Nó oà lên khóc! Như con nít vậy. Thật chẳng ra sao. Chúng mày ơi! Đàn bà béo là không bao giờ được khóc cả.

Roitơ húng hắng ho, gấp sách lại và ngước mắt chăm chú nhìn Bốtsê.

– Tại sao đàn bà béo lại không được khóc?

– Vì không hợp với họ. Không hợp với cái tạng béo. Đàn bà béo phải cười.

– Nếu mày gọi vợ mày là Luidơ thì vợ mày có cười không? Người đánh bài có cái đầu dài hỏi, vẻ nham hiểm.

– Nếu tao gọi Anna là Luidơ thì trước tiên tao sẽ nhận được một cái chai ở gần đấy vào mặt. Bốtsê suy nghĩ một lát rồi bình thản nói. Sau đó là tất cả những thứ gì không dính chặt vào tường hay sàn nhà. Cuối cùng nó sẽ băm tao ra từng mảnh trước khi tao hoàn hồn. Sự việc sẽ diễn ra như thế đấy, đồ ngốc.

Người có cái đầu dài nín lặng một lát. Việc gợi lên cơn thịnh nộ ghê gớm đó làm y xúc động ra mặt.

– Thế mà mày lại đi lừa dối người đàn bà ấy à? Y hỏi với giọng khàn khàn.

– Trời ơi, tao có lừa dối nó đâu! Vợ tao mà ở đây, tao không thèm nhìn đến con hầu bàn! Đây không phải là ngoại tình mà là trường hợp bất khả kháng.

Roitơ quay hỏi Gơrebê.

– Còn cậu? Tối qua chai rượu được việc chứ?

– Không có gì cả.

– Không có gì à? Phenman hỏi. Vì thế mà cậu ngủ như chết đến trưa phải không?

– Phải. Không biết làm sao tự dưng tớ mệt thế. Bây giờ nằm xuống lại ngủ ngay được. Tớ có cảm tưởng như cả tuần nay chưa được nhắm mắt.

– Thế thì cứ tự nhiên. Nằm xuống mà ngủ đi.

– Thật là một lời khuyên bảo khôn ngoan. Roitơ nói. Lời khuyên bảo của Phenman, bậc thầy về môn ngủ đấy.

– Thằng Phenman ngu như bò. Người có cái đầu dài đặt bài xuống và tuyên bố. Nó làm phí cả kỳ nghỉ phép của nó. Cuối cùng thì nó sắp trở ra mặt trận mà chẳng gỡ gạc được gì. Vì ở mặt trận nó cũng có thể ngủ và nằm mê thấy được về phép cơ mà.

– Thật ra thì ngược lại. Phenman vội nói. Tớ nằm ngủ ở đây, lại chỉ mê thấy toàn chuyện mặt trận.

– Thật ra cậu ở đâu nào? Roitơ nói.

– Ở đâu à? Ở đây chứ còn đâu nữa.

– Có chắc không?

Người đầu dài cười gằn.

– Tớ cũng tự hỏi thế. Suốt ngày chỉ ngủ thì ở đâu chẳng được. Cha này không biết thế cho.

– Khi thức dậy, tớ biết chứ, chỉ có lúc ấy là đáng kể. Phenman bực mình kết luận rồi lại nằm xuống.

Roitơ lại quay sang phía Gơrebê.

– Còn cậu? Cậu định hôm nay làm gì để cho linh hồn được thanh thoát?

– Chỉ dùm cho tớ ở đâu ăn ngon?

– Đi một mình à?

– Không.

– Thế thì đến khách sạn Giéc-ma-nia mà ăn. Chỉ ở đấy là hơn. Nhưng có thể chúng nó không cho cậu vào. Ăn mặc thế này thì không vào được đâu. Đó là khách sạn dành cho sĩ quan. Mặc dầu tên quản lý ở đấy có thể nể phục lô mề-đay của cậu.

Gơrebê nhìn lại bộ quân phục tiều tuỵ và đã vá của anh.

– Cậu cho tớ mượn áo va-rơ của cậu được không? anh hỏi.

– Sẵn lòng nhưng vì cậu nhẹ hơn tớ đến mười lăm ký cho nên khi cậu mặc, thoáng trông là thấy ngay. Tớ sẽ đi xoay cho cậu một bộ binh phục hạ sĩ quan vừa vặn, có cả quần. Ở trại cậu chỉ cần khoác áo ca-pốt ra ngoài là không ai để ý. Mà sao cậu cứ là binh nhì mãi thế? Đáng lẽ phải là thiếu uý từ lâu rồi chứ

– Trước kia tớ đã là sĩ quan rồi. Nhưng vì tội đập vỡ mặt một tên trung uý nên bị giáng cấp. Không bị đưa đi đại đội cải hối là may còn hòng gì lên cấp.

– Được, thế thì về phương diện tinh thần, cậu có quyền mặc binh phục hạ sĩ quan đấy. Khi đưa nàng đến hiệu Giéc-ma-ni-a, hãy gọi một chai Phốc-xtơ Giê-duytengácten 1934 ở hầm rượu Buécklin Vonphơ nhé? Rượu này làm người chết rồi cũng phải tỉnh dậy.

– Tốt lắm, đúng thứ tớ đang cần.

* * *

Trời sương mù mịt, Gơrebê đợi trên cầu vắt ngang sông. Dòng nước đen chảy soáy dưới chân anh, cuốn theo những cột nhà cháy thui lẫn rác rưởi. Bóng nhà trường đen ngòm nổi sừng sững trên những đám khói trắng. Gơrebê đi qua sông. Anh đi qua ngõ hẻm vào sân trường. Cánh cửa sắt ướt đẫm sương mở rộng. Anh bước vào sân trường vắng ngắt, không một bóng người. Trời đã quá muộn. Anh đi qua sân đến bờ sông. Những cây hạt dẻ in bóng lên nền trời sáng. Dưới góc những cây này, còn vài chiếc ghế dài sũng nước mà Gơrebê nhớ là trước kia anh đã từng ngồi lâu ở đó. Không một ước mơ nào của anh thời đó thực hiện được. Chiến tranh đã chiếm đoạt anh ngay khi anh vừa rời khỏi trường.

Anh quan sát dòng nước chảy một lát. Một cái giường thủng bị xô dạt vào bờ. Những chiếc gối căng phồng nước lăn lóc trên giường như những bọt biển khổng lồ. Anh rùng mình. Anh lại quay vào sân trường và thử mở một cái cửa. Cửa không đóng chặt. Anh ngập ngừng bước vào rồi đứng lại ở gian phòng rộng, và nhìn chung quanh. Anh thấy lại cảnh ngại ngùng của những giờ học. Một cầu thang tối mò dẫn đến các lớp và nhà ngủ của học sinh nội trú. Anh không thấy có một cảm giác gì. Ngay cả một chút mỉa mai hay khinh bỉ cũng không. Anh nghĩ đến Venman. Y đã nói là không nên quay về. Y nói đúng. Gơrebê chỉ tìm thấy sự trống rỗng trong bản thân mình. Tất cả kinh nghiệm mà anh gom góp được từ khi ra khỏi trường đã mâu thuẫn với những điều anh học được ở đây. Không có gì còn lại. Rút cục những năm thơ ấu của anh đã hoàn toàn bị phá sản.

Anh quay gót đi ra. Hai tấm biển bằng đá hoa gắn ở hai bên cổng ra vào ghi tên các cựu học sinh đã hy sinh vì tổ quốc. Anh biết tấm biển bên phải là dành cho những người đã chết trong cuộc thế chiến thứ nhất. Cứ mỗi ngày hội chính trị là người ta lại lấy những cành thông và lá sồi để trang trí. Simmen, hiệu trưởng nhà trường, đọc những bài diễn văn nẩy lửa về nước Đại Đức, việc báo oán và phục thù sắp tới. Gơrebê lại nhìn thấy cái bụng to và mềm của hắn và những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt hắn. Tấm biển bên trái, dành cho những người chết trong thế chiến thứ hai, hãy còn mới, Gơrebê đọc lướt qua các tên, tên thì nhiều nhưng vẫn không thiếu chỗ cho các anh hùng tương lai sẽ hy sinh trên chiến trường.

Anh gặp viên thư ký ở ngoài sân.

– Ông tìm gì thế? ông già hỏi anh.

– Không, tôi không tìm gì cả.

Anh định đi ra cổng bỗng nhớ ra một điều.

– Bác có biết ông Pônman trước dạy ở đây, bây giờ ở đâu không? Anh hỏi.

– Ông Pônman không dạy học nữa.

– Tôi biết rồi. Ông ấy ở đâu?

Viên thư ký cẩn thận nhìn quanh một lượt. Không ai nghe chúng ta đâu. Gơrebê nói. Ông ấy ở đâu?

– Trước kia, ông ta ở quảng trường Gian, số 6. Ông là học trò cũ ở đây à?

– Phải, Simmen bây giờ vẫn là hiệu trưởng trường này, phải không?

– Vẫn ông ấy, viên thư ký ngạc nhiên đáp. Nhất định là ông ấy vẫn còn ở đây. Tại sao ông ấy lại đi nơi khác?

– Ừ nhỉ, Gơrebê nói. Tại sao ông ấy lại đi nơi khác nhỉ?

Anh lại đi. Mười lăm phút sau, anh không nhận thấy là mình ở đâu nữa. Sương mù dầy đặc và anh không tìm thấy một vật chuẩn nào giữa đống gạch vụn này. Căn nhà đổ nào cũng giống nhau, không phân biệt được phố nào nữa. Anh có cảm giác kỳ lạ là anh đã bị lạc trong chính bản thân mình.

Phải một lúc lâu, anh mới tìm ra được phố Haken. Rồi gió lại nổi lên, sương mù bốc cao thành từng đợt sóng, không sao nắm được như trong một cái biển huyền ảo.

Anh trở về chỗ ở của bố mẹ. Không thấy một lá thư nào mới, anh vừa quay lại thì bỗng nghe một tiếng động lạ lùng, trong suốt, nghe như tiếng hácpơ[53]. Anh đưa mắt nhìn quanh xem tiếng đàn kỳ lạ này từ đâu ra. Phố xá vắng ngắt. Tiếng đàn cất cao hơn, ai oán rồi nhỏ dần. Như tiếng còi cấp cứu của một cái phao phát ra tiếng động[54] giữa một biển sương.

Những nốt nhạc nối tiếp nhau, thấp rồi lại cao, theo những khoảng cách không nhất định nhưng vẫn đều nhau, như có ai chơi hácpơ trên các mái nhà.

Gơrebê lắng tai nghe và tìm nguồn gốc của tiếng đàn độc tấu huyền bí đó. Nhưng hình như tiếng đàn ấy từ khắp nơi vọng lại, bây giờ thì mạnh hơn, như một bản nhạc dồn dập và chấm dứt trong tiếng hoà âm buồn man mác.

Anh nghĩ, lại tay trưởng khối điên ấy thôi. Chỉ có thể là hắn. Anh đến gần căn nhà chỉ còn mặt tiền đứng vững rồi đột ngột mở cửa. Một bóng người ngồi trên chiếc ghế đặt ở bậc thềm đứng phắt dậy. Gơrebê nhận ra chiếc ghế bành nhung mà ngay hôm đầu anh đã thấy ở nhà mình.

Cái gì thế? Viên trưởng khối hỏi, vẻ vừa sợ vừa tức.

Gơrebê nhận thấy hắn không có nhạc cụ gì, vả lại tiếng đàn vẫn vang lên.

– Cái gì thế? Anh hỏi. Tiếng đàn ở đâu ra thế?

Viên trưởng khối ghé sát bộ mặt nhếch nhác của y tới gần mặt Gơrebê.

– À, anh lính bảo vệ tổ quốc đấy hả! Cái gì à? Anh không nghe thấy ư? Bản kinh cầu hồn[55] cho những người bị chôn sống đấy. Cào những xác ấy lên! Hãy chấm dứt cuộc chém giết đi!

– Vô lý thật!

Gơrebê ngước mắt nhìn sương mù đang bốc lên cao. Anh trông thấy một sợi dây cáp to đang đung đưa trước gió. Mỗi khi sợi dây trở lui, tiếng đàn lại nổi lên. Gơrebê chợt nhớ đến cây đàn dương cầm đã thủng mà vài ngày trước đây anh đã thấy mắc kẹt giữa các cây xà ở tầng thứ ba. Mỗi lần sợi giây cáp đung đưa là nó chạm phải các giây đàn.

– Đàn dương cầm đấy, anh nói.

– Đàn dương cầm đấy! Đàn dương cầm đấy! Viên trưởng khối nhăn mặt nhại lại anh. Anh làm sao mà biết được. Anh chỉ là đồ giết người khốn nạn! Đó là gió đánh chuông đưa hồn những người chết đi đấy. Trời khóc cho lòng nhân từ đã lìa bỏ trái đất này rồi! Anh có biết cái chết là gì không, đồ giết người thuê! Anh làm sao biết được cái đó? Những kẻ đi giết người làm sao biết được nó là gì?

Hắn ghé tai Gơrebê nói thì thầm “Đâu cũng có những người chết. Họ nằm dưới các nhà đổ, tay giang ngang, mặt nát nhừ những họ sắp đứng dậy đuổi các anh đi đấy”

Gơrebê bỏ ra ngoài.

– Họ sẽ đuổi các anh đi đấy, viên trưởng khối nhắc lại sau lưng anh. Họ sẽ truy tố các anh và Tòa án của những người chết sẽ xử các anh, từng người một.

Gơrebê đi nhanh mà không quay lại. Nhưng anh còn nghe thấy cái giọng khàn khàn vẫn lảm nhảm trong sương mù “Bởi vì Chúa Trời đã phán, điều mà anh làm cho người anh em yếu đuối của tôi, chính là anh đã làm cho tôi vậy”. Gơrebê lẩm bẩm. “Cút và biến ngay dưới đống gạch vụn mà mày vẫn ẩn nấp như một con chim mang điềm gở đi cho rồi”. Anh rảo bước. Anh chua chát tự nhủ, những người chết, vẫn là những người chết. Không phải vì những người chết mà mình trở lại đây! Mình trở lại chỉ để xem trong bãi sa mạc này có còn sót lại một dấu vết gì của cuộc sống không.

* * *

Anh bấm chuông. Cửa mở ngay như có người rình sẵn ở phía sau.

– À, anh đấy à, mụ Lidơ ngạc nhiên kêu lên.

– Phải tôi đây. Tưởng gặp Elidabét, Gơrebê đáp.

Cô gái ra ngay. Lần này mụ trở về phòng không nói gì.

– Vào đi, Elidabét nói, em xong ngay đây. Anh theo cô vào phòng.

– Áo dạ hội của em đấy à? Trông thấy chiếc áo nịt cổ cao và cái váy đen hôm trước, anh hỏi – Em quên là chúng ta cùng đi chơi hôm nay ư?

– Anh nói thật đấy à?

– Thật chứ. Cứ trông anh thì biết. Đây là bộ lễ phục của một cậu bạn hạ sĩ. Đó là một kế để có thể vào được khách sạn Giécmania với em. Nhưng chưa chắc người ta để cho hạ sĩ quan vào đấy đâu. Cái đó có lẽ còn tùy ở em. Em không có áo khoác à?

– Có, nhưng…

Gơrebê thấy chai vốtka của Binđinh để trên bàn.

– Anh biết em nghĩ gì rồi, nhưng em phải quên cái đó đi, anh nói. Quên cả mụ Lidơ và những người láng giềng đi. Em không làm hại ai, đó là điều duy nhất đáng kể. Nhất định em phải đi chơi, nếu không em hóa điên mất. Thôi, em hãy uống một ly vốtka đi.

Anh rót rượu vào ly và đưa cho cô. Cô uống một hơi cạn.

– Tốt, cô nói. Cũng không lâu đâu. Em đã gần xong rồi, nhưng em cứ băn khoăn mãi không biết anh có quên không. Nhưng có lẽ lúc em thay quần áo, anh ra khỏi phòng đi thì hơn. Em không muốn mụ Lidơ vu cho là em đi làm điếm.

– Lần này, thì mụ đổ tội sai rồi. Đối với binh sĩ thì đó là một hành động yêu nước. Nhưng anh cũng cứ ra ngoài chờ em. Ra ngoài phố chứ không chờ ở phòng ngoài đâu.

Anh ra ngoài. Sương mù đã bớt dầy đặc, nhưng đường phố vẫn đầy khói như ở phòng giặt. Bỗng nhiên cửa sổ mở. Elidabét hiện ra, vai hở trần, giữa một khoảng ánh sáng chữ nhật. Mỗi tay cô cầm một chiếc áo dài. Một chiếc màu nâu và vàng, chiếc kia, sẫm với một màu không rõ rệt. Hai chiếc áo phấp phơ trước gió như những lá cờ.

– Mặc áo nào? Cô hỏi.

Anh chỉ cái áo thứ nhất. Cô gật đầu rồi biến vào trong. Anh nhìn xung quanh. Không ai để ý đến việc vi phạm luật phòng không để ánh sáng lọt ra ngoài đường này. Trong lúc chờ đợi, anh đi bách bộ. Đêm tối bỗng trở nên dày đặc hơn. Trạng thái bần thần ban ngày, không khí lạ lùng buổi tối và quyết định của anh không nghĩ gì đến dĩ vãng làm anh sung sướng trong lúc chờ đợi, niềm sung sướng bỗng lại biến thành sự sốt ruột.

Elidabét hiện ra trên khung cửa và bước ra. Cô bước nhanh, dáng uyển chuyển và trong bộ áo dài, chật, màu hoàng yến này, trông cô có vẻ mảnh dẻ hơn trước. Khuôn mặt cô cũng thay đổi, trông gầy hơn và đầu như nhỏ lại. Một lát sau, anh mới nhận ra nguyên nhân sự thay đổi là ở chiếc áo hở vai làm lộ cái cổ của cô.

– Mụ Lidơ có trông thấy em không? Anh hỏi.

– Có và vì thế mụ tắc họng lại đấy. Mụ muốn em phải luôn luôn khổ hạnh, mặc quần áo tang và rắc tro lên đầu[56] như những kẻ sám hối. Đã có lúc em thấy lương tâm day dứt.

– Chỉ những kẻ xấu mới bị lương tâm day dứt.

– Không phải chỉ thấy lương tâm day dứt. Em còn thấy sợ. Anh thử nghĩ xem…

– Không, Gơrebê ngắt lời cô. Anh không nghĩ gì hết. Tối nay anh không muốn nghĩ gì hết. Chúng ta nghĩ đã nhiều rồi và chúng ta khó chịu cũng đã nhiều rồi. Bây giờ, chúng ta chỉ cần làm sao cho cùng vui vẻ.

Khách sạn Giécmania còn đứng nguyên vẹn giữa hai căn nhà đổ ở hai bên, trông như một người giầu đứng giữa hai người bà con đã sa sút. Vôi, gạch đổ đã được đánh đống ở hai bên làm cho hai căn nhà kia không còn mang vẻ tang tóc, bi thảm của những nơi mà cái chết đã đi qua. Cảnh khổ cực của chúng trông có vẻ gọn gàng và tề chỉnh.

Người gác cửa ngắm bộ quân phục của Gơrebê với vẻ khinh bỉ ra mặt.

– Quầy rượu ở đâu? Gơrebê hỏi ngay với vẻ tự tin không để cho y kịp nói câu nào.

– Quá một chút, ở phòng lớn bên trên. Xin ông cứ hỏi ông quản lý Phrít.

Họ đi qua phòng lớn. Một đại tá và hai trung tá đi ngược lại. Gơrebê chào.

– Hình như ở đây lúc nào cũng đầy tướng tá, Gơrebê giải thích. Nhiều ban quân sự đặt văn phòng ở lầu một.

Elidabét dừng lại.

– Chúng ta làm thế này có liều lĩnh quá không? Nhỡ người ta biết anh không phải hạ sĩ quan thì sao?

– Tại sao em lại lo người ta để ý? Làm ra vẻ hạ sĩ quan có khó lắm đâu. Ngày trước anh đã là hạ sĩ quan rồi.

Một sĩ quan kỵ binh, bốt đi ngựa kêu lích kích xuất hiện cùng với một người đàn bà gầy nhom. Hắn đi qua mà không nhìn Gơrebê.

– Nếu họ biết thì anh làm sao? Elidabét hỏi.

– Không sao đâu.

– Anh có thể bị xử bắn không?

Gơrebê cười.

– Anh chắc họ không dám làm thế, Elidabét. Họ rất cần đến bọn anh ngoài mặt trận.

– Thế họ phạt ra sao?

– Chắc họ sẽ giam trong vài tuần. Trong chiến tranh mà bị giam ngày nào là lợi ngày đó, gần như nghỉ phép vậy. Đối với một người bắt buộc phải ra tiền tuyến trong một thời gian ngắn, thì họ không làm được gì đâu.

Người quản lý Phrít bỗng xuất hiện từ cửa bên phải. Gơrebê dúi vào tay hắn món tiền puốc-boa. Hắn cầm ngay rồi đi trước hai người vẻ trịnh trọng.

– Hai suất ạ, thưa vâng, xin mời ông bà theo tôi.

Hắn xếp cho hai người ngồi ở một bàn nhỏ, lấp sau cột rồi bước đều đều, đi ra.

Gơrebê nhìn xung quanh.

– Đúng như anh vẫn mong ước. Phải đợi một lát nữa mới quen được. Còn em? Anh nhìn Elidabét vẻ ngạc nhiên rồi nói, chắc em không thế, em có vẻ như người mỗi ngày đến đây hai lần.

Một người có tuổi, bé nhỏ trông giống như con ma-rabu[57] đưa thực đơn cho họ. Gơrebê cầm tờ thực đơn đặt một tờ giấy bạc vào đó rồi đưa trả.

– Cho tôi cái gì không ghi trong thực đơn. Bác đề nghị những món gì?

Người hầu bàn nhìn anh vẻ lạnh nhạt.

– Chúng tôi chỉ có những món ghi trên giấy này thôi, y nói.

– Được, trong lúc chờ đợi, hãy cho tôi một chai Phốc-xtơ-Giê-duy-ten-gác-ten năm 1934, hầm Buéc-klin Von-phơ. Đừng lấy thứ còn chát quá.

– Lớp vô thùng cuối cùng nhé?

– Không. Thứ ấy còn mùi nho và ngọt quá nếu dùng trong khi ăn.

Người hầu bàn sáng mắt lên. Y bỗng nhiên rất lễ phép.

– Thưa ông, phải lắm. Rồi y ghé vào tai Gơrebê. Hôm nay chúng tôi có loại cá bơn Oxtăngđơ[58]. Còn tươi nguyên. Ông có thể dùng với xa lát Bỉ và khoai chiên kiểu Anh.

– Tốt lắm, thế món ăn đầu bữa có gì? Dĩ nhiên không nên ăn ca-vi-a với rượu chứ?

Anh hầu bàn càng thêm nhanh nhẩu.

– Vâng, nhất định là không rồi. Nhưng chúng tôi vẫn có ba-tê gan ngỗng béo nhồi nấm Xtra-xbua[59]

Gơrebê gật đầu.

– Cuối cùng tôi xin giới thiệu với ông các món pho mát. Pho mát Hà Lan đặc biệt làm nổi vị của rượu.

– Tốt lắm.

Người bồi đi vào với vẻ khoái trá. Thoạt tiên chắc y cho Gơrebê là một quân nhân vô tình lạc vào tiệm này. Bây giờ thì y coi anh như một khách quen phải tạm thời mang binh phục lính.

Elidabét ngạc nhiên ngồi nghe.

– Ernest, sao anh biết nhiều vậy? cô nói.

– Sáng nay anh học được ở Roitơ đấy. Hắn thạo quá đến nỗi bị liệt giường vì tê thấp. Vì vậy hắn thoát không phải ra mặt trận. Tội lỗi bao giờ cũng mang theo phần thưởng.

– Thế còn cái lối puốc-bua và cách gọi món ăn?

– Cũng vẫn là của Roitơ. Hắn biết hết. Hắn còn bảo anh làm ra vẻ ngang tàng và lịch lãm đối với bọn người làm.

Elidabét phá lên cười, một tiếng cười ấm áp và thẳng thắn đầy sức sống tưng bừng.

– Có Trời chứng cho em là em không biết anh dưới phong cách ấy, cô nói.

– Anh cũng vậy, anh có biết em như bây giờ đâu.

Anh nhìn cô như lần đầu tiên được gặp cô. Cô đã biến đổi hẳn vì cái cười. Cô như căn nhà tối tăm bỗng được mở toang các cửa sổ.

– Áo của em đẹp lắm, anh nói hơi lúng túng.

– Áo của mẹ em đấy, cô nói, hôm qua em phải sửa lại cho vừa, cô lại cười. Anh đã thấy là em không đến nỗi lôi thôi như anh tưởng lúc anh mới đến.

– Em cũng biết may à? Trông em hình như không phải thế.

– Trước kia, không bao giờ em cầm kim nhưng rồi cũng phải học. Bây giờ em may áo ca-pốt nhà binh suốt tám tiếng một ngày.

– Thật ư? Em bị bắt buộc đi làm à?

– Vâng, bắt buộc phải đi. Vả lại em cũng không mong gì hơn. Đi làm có thể giúp đỡ được ba em hơn.

Gơrebê lắc đầu nhìn cô.

– Không, điều đó không hợp với em. Cả tên em cũng không hợp với em. Tại sao em lại có cái tên đó.

– Mẹ em đặt cho em. Mẹ em là người miền Nam nước Áo, trông giống người Ý. Mẹ em mong em có bộ tóc vàng mắt xanh. Bà thất vọng và mặc dù vậy hay chính vì vậy mà bà đặt tên em là Elidabét.

Người bồi bàn đến. Y mang chai rượu Giê-duy-ten-gác-ten như mang một chiếc bình quý.

– Tôi chọn cho ông bà những cốc pha lê mỏng thường. Màu rượu sáng trông rõ hơn. Nhưng nếu ông bà muốn, tôi cũng có thể đổi lấy bộ cốc pha lê bắc-ca-ra[60] được.

Gơrebê từ chối cốc bắc-ca-ra. Người bồi khuỳnh tay rót rượu. Rồi y mở nắp một cái khay bằng bạc có những khoanh gan nhồi nấm bầy thành hình hoa thị giữa một vòng nước sốt rung rinh.

– Món gan này được đưa thẳng từ vùng An-dát[61] tới đây. Y hãnh diện khoe.

Elidabét cười.

– Sang trọng quá.

– Đúng rồi! Sang chứ. Gơrebê nâng cốc. Sang chứ! Anh nhắc lại. Em nói đúng và chúng ta sẽ uống mừng cái sang đó.

– Elidabét ạ. Đã hai năm nay, anh ăn trong một chiếc ga-men bẹp và không bao giờ chắc là được ăn xong bữa cả. Điều chúng ta được hưởng ở đây không phải đơn thuần là xa xỉ mà còn hơn thế nữa cơ. Đó là sự an toàn, niềm vui, tất cả những cái không có ở ngoài ấy.

Anh uống và cảm thấy trong người dần dần nóng ấm dễ chịu, rồi anh nhìn Elidabét. Cô cũng có phần trong niềm hạnh phúc đầm ấm đang tràn ngập trong anh. Đó là phần bất ngờ trong cuộc sống, một cái gì bỗng nhiên vượt qua giới hạn của sự cần thiết, một thứ dư thừa và tươi trẻ, cái phần đóng góp của sự rủi ro và ước mơ. Sau những năm thường xuyên va chạm với cái chết, rượu không phải chỉ là rượu, thìa dĩa bằng bạc không chỉ là thìa dĩa bạc bình thường, tiếng nhạc nghe nho nhỏ không phải chỉ là âm nhạc bình thường và Elidabét bây giờ đây cũng không phải là Elidabét thường ngày. Mỗi vật, mỗi con người đều có một giá trị tượng trưng, tượng trưng cho một cuộc sống khác không có giết chóc, không có phá hoại, một cuộc sống để mà sống, và đã trở thành gần như một chuyện thần thoại, một ước mơ vô vọng.

– Thỉnh thoảng có lúc mình quên hẳn là mình sống, anh nói. Hôm nay bỗng nhiên anh mới khám phá ra điều ấy.

Elidabét lại cười.

– Với em thì ý nghĩ ấy không bao giờ rời khỏi em, nhưng nó cũng chưa giúp em được việc gì.

Người bồi bàn lại gần họ.

– Ông thấy rượu ra sao ạ? Y hỏi.

– Ngon tuyệt, vì tôi nghĩ đến những điều từ bao lâu nay tôi đã quên rồi.

– Thưa ông, đó là mặt trời đấy. Mặt trời mùa thu làm nó chín kỹ và bây giờ mới bốc lên. Tại xứ Rê-nan người ta gọi thứ rượu như rượu này là rượu thánh.

– Rượu thánh à?

– Vâng. Nó sánh như vàng và sáng chói như mặt trời vậy.

– Đúng thế.

– Uống một cốc là đủ biết. Thật y như đem ủ mặt trời.

– Anh định nói là uống ngụm thứ nhất là thấy chứ gì. Nó không trôi xuống dạ dày mà bốc lên mắt, nó làm ta thấy đời khác hẳn.

– Ông sành rượu lắm, thưa ông. Y ghé sát Gơrebê vẻ thân mật. Ở bàn bên phải, tôi cũng dọn thứ rượu này, cho hai vị trung tá[62] họ nốc như uống nước lã vậy. Có lẽ họ nên uống rượu nhẹ Lib-phro-en-mich[63] thì hơn.

Y đi vào, mắt nhìn khinh bỉ về phía bàn bên phải.

– Hôm nay có vẻ là ngày tốt cho những kẻ đi ăn vụng, Gơrebê nói. Sao, em uống rượu thấy thế nào? Đối với em nó có là rượu thánh không?

Cô ngả người về sau và ngước mắt lên.

– Em có cảm tưởng như mới trốn khỏi nhà tù và đang nơm nớp lo phải trở lại ngay đó vì tội ăn cắp hạnh phúc.

Anh cười.

– Chúng ta đều như vậy cả. Chúng ta sợ tình cảm của chúng ta. Có được chút ít hạnh phúc là chúng ta thấy có tội.

Người bồi mang món cá bơn và rau xa-lát ra. Gơrebê nhìn y cắt cá. Anh thấy thoải mái những vẫn có tâm trạng một người đi liều trên lớp băng mỏng, và ngạc nhiên thấy nó chịu đựng được sức nặng của mình. Anh biết rằng lớp băng đó mỏng manh và có thể vỡ tan lúc nào không biết. Nhưng thời nó còn vững và đó là điều cốt yếu.

–Khi người ta phải sống hàng tháng trong bùn lầy, có điều lợi là chuyện không ra gì, như uống một cốc rượu hay khi ăn có khăn giải bàn, cũng có thể làm người ta thấy là tuyệt diệu.

Người bồi lại rót rượu. Y ân cần săn sóc khách của y như mẹ lo cho con vậy.

– Thông thường khi ăn cá, người ta uống rượu Mô-den[64]. Y giảng giải. Nhưng cá bơn là một loại cá đặc biệt. Thịt nó gần như thịt gà tơ. Dùng nó với rượu Phan-dê[65] thì như khám phá ra một điều mới lạ. Ông có thấy thế không?

– Đúng như vậy.

Người bồi gật đầu tán thưởng rồi đi vào.

– Ernest này, Elidabét hỏi, liệu có phải trả tiền những cái đó không? Chắc đắt lắm nhỉ.

Em đừng lo. Anh có tiền của hai năm chiến tranh đây và cứ giữ nó mãi cũng vô ích, anh cười. Thời gian sống một cuộc đời cũng ngắn ngủi. Hai tuần lễ thôi, thế cũng đủ rồi, em có thấy không?

Họ đứng trước cửa khách sạn Giécmania, gió đã lặng nhưng trời lại âm u.

– Bao giờ anh lại đi? Elidabét nói. Hai tuần lễ nữa à?

– Đại khái chừng ấy!

– Sao nhanh thế nhỉ?

– Nhanh mà cũng là lâu. Điều đó còn tùy lúc, thời gian bây giờ không giống như thời bình. Chắc em cũng biết như thế. Sống ở đây chẳng khác ngoài mặt trận mấy.

– Không, đâu có gì giống nhau.

– Có chứ. Ngày hôm nay mới là ngày nghỉ phép đầu tiên của anh. Cầu Chúa ban phúc lành cho người hầu bàn, cho Roitơ, cho chiếc áo hoàng yến của em và cho chai rượu ngon này.

– Cho cả hai ta nữa, Elidabét nói tiếp. Chúng ta cũng cần đấy.

Cô đứng rất thẳng trước mặt anh. Ánh chiều tà làm ánh mắt cô, chiếc áo của cô óng ánh, và khuôn mặt cô giống như một trái cây lóng lánh sương mai. Bỗng nhiên quên đi những phút giây này, dứt bỏ những đường tơ tình cảm, lãng quên, im lặng và xúc động đang bám quanh họ để trở về với những người cùng phòng thô kệch, với những câu bông đùa tục tĩu và buồn rầu chờ đợi một tương lai tăm tối, sao mà khó thế!

Một giọng nói gay gắt phá tan phút thần tiên ấy.

– Này anh hạ sĩ, anh có mắt không thế?

Một viên đại úy mập lùn, vừa hiện ra trước mặt anh. Chắc hắn rón rén đi tới. Gơrebê nhận ra ngay đó là một sĩ quan trù bị, loại “sĩ quan tủ kính”. Anh có ý nghĩ muốn làm cho hắn xoay tròn trên bụng như con quay. Nhưng cũng không nên thử thách làm gì. Anh xử sự như bất cứ người lính dầy kinh nghiệm nào khác: anh đứng nghiêm chào mà không nói gì.

Lão ta rọi đèn vào mặt anh.

– Lại mặc lễ phục đi chơi nữa! Hẳn anh phải trốn tránh nhiệm vụ mới đi chơi như vậy được! Đồ quân nhân hạnh bét mà cũng mặc lễ phục. Đến nước ấy là cùng! Tại sao anh không ra mặt trận?

Gơrebê không trả lời. Anh đã quên không đính huân chương chiến đấu của anh vào bộ quân phục đi mượn.

– Ăn chơi cho đã! Anh chỉ biết có thế thôi phải không? Lão ta tiếp tục nói.

Elidabét quay ngoắt lại. Ánh đèn chiếu vào giữa mặt cô. Cô tiến lên một bước gần viên sĩ quan để ra khỏi vòng sáng đó. Hắn thúng thắng ho, cau mặt nhìn cô rồi từ từ bỏ đi.

– Em bắt đầu thấy chán lắm rồi, cô nói.

Gơrebê nhún vai.

– Bọn ròi bọ ấy là như thế cả. Đời chúng chỉ là đi ngoài phố để được chào, có thế thôi. Tạo hóa đã mò mẫm hàng triệu năm mới nặn tạo ra được loài này.

Elidabét cười.

– Tại sao anh không ở mặt trận?

Lỗi là ở bộ binh phục thổ tả này đây. Mai, anh sẽ mặc thường phục. Anh biết kiếm ở đâu ra một bộ com-lê rồi. Anh chán ngấy chào rồi. Như vậy là chúng ta có thể yên tâm trở lại tiệm Giéc-ma-ni-a được.

– Anh định trở lại à?

– Phải, Elidabét ạ. Sau này, ra ngoài ấy là nhớ đến cái đó chứ không ai nhớ đến cảnh nhà đổ và bọn sĩ quan “tủ kính” đâu. Nếu em đồng ý, thì tám giờ mai anh sẽ lại đón em. Còn bây giờ anh phải đi ngay đây kẻo thằng cha sỏ lá ấy có thể trở lại hỏi sổ quân nhân của anh.

Anh kéo cô sát người anh và cảm thấy cô ngả người vào tay anh. Một mối lo bất ngờ sợ mất cô bỗng chẹn lấy anh. Anh ôm và hôn cô nồng nàn. Anh điên cuồng không muốn rời cô. Anh đã để cô đi.

Anh trở lại đường Ha-ken một lần nữa. Anh đứng trước nhà bố mẹ. Trăng lại hiện ra giữa đám mây. Anh cúi xuống nhặt lá thư của anh lên. Có một mảnh giấy nhỏ đính bên lề. Anh soi đèn bấm, đọc những chữ lớn viết bằng bút chì: “Mời đến bưu điện chính, cửa số 15”.

Tự nhiên anh xem đồng hồ. Rõ rang là đã quá muộn. Bưu điện đóng cửa ban đêm, anh sẽ không biết được gì trước tám giờ mai. Anh gấp mảnh giấy, cho vào túi. Anh đi qua thành phố ảm đạm và đen ngòm để trở về doanh trại. Anh có cảm tưởng lâng lâng như đi trên không trung, người không còn trọng lượng.

[53] Một thứ đàn hình tam giác, gảy bằng tay.

[54] Một thứ phao được gắn còi hay chuông để khi bị chìm dưới nước nó phát ra tiếng động, gọi mọi người đến cứu.

[55] Nguyên văn: bản REQUIEM (kinh cầu hồn)

[56] Chỉ thái độ ăn năn sám hối của những người có tội hoặc những người có tang phải ăn mặc quần áo vải thô, xấu.

[57] Một loài chim cổ dài như cò, sếu, hay vạc, sống ở Ấn Độ và châu Phi có dáng đi nghiêm chỉnh một cách tức cười.

[58] Tên một thành phố ở Bỉ, bên bờ Bắc Hải, nổi tiếng về món cá và sò huyết.

[59] Tên một thành phố Pháp, trên sống Ranh, ở biên giới Tây Đức.

[60] Bắc-ca-ra, tên một thị trấn nhỏ ở Pháp chuyên sản xuất đồ thủy tinh và đồ thêu. Ở đây chỉ một loại cốc đặc biệt để uống các loại rượu quý.

[61] Tên một quận của Pháp, giáp giới Đức, thủ phủ là Stra-Xbua

[62] Nguyên văn Sturm-bahn-fuhrer: một chức vụ tương đương với trung tá trong quân đội quốc xã Đức.

[63] Tên rượu nhẹ, Liebfrauenmilch, dịch nguyên văn có nghĩa: sữa của người vợ yêu.

[64] Tên một thứ rượu sản xuất ở vùng Mô-den, một quận thuộc Pháp ở vùng biên giới Pháp – Đức.

[65] Pfalzer, tên rượu.