Chương 13
Một góc bưu điện còn nguyên vẹn, phía còn lại đã sập đổ sau khi cháy. Từng dãy người nỗi đuôi nhau kéo dài trước các cửa ghi-sê. Đến ghi-sê số 15, Gơrebê xuất trình mảnh giấy có hàng chữ ghi bằng bút chì.
Người nhân viên trả lại anh mảnh giấy.
– Anh có giấy tờ gì không?
Gơrebê đưa sổ quân nhân và giấy nghỉ phép của anh qua dưới tấm lưới sắt. Người nhân viên xem rất lâu.
– Có gì thế ông? Thư à? Gơrebê hỏi.
Ông ta không trả lời, đứng dậy và đi vào phòng trong, Gơrebê nhìn mãi giấy tờ của mình vẫn để mở trên giá mà không hiểu.
Người nhân viên quay ra với một gói nhỏ đã bị bẹp. Ông ta so lại địa chỉ trong giấy nghỉ phép của Gơrebê. Rồi ông ta đẩy gói đồ về phía Gơrebê.
– Anh ký vào đây.
Gơrebê nhận ra chữ của mẹ anh trên gói đồ. Đó là gói đồ mẹ anh gửi ra cho anh ngoài mặt trận, và được gửi trả lại. Địa chỉ người gửi vẫn là ở phố Ha-ken. Anh cầm gói đồ và ký vào giấy nhận.
– Tất cả chỉ có thế này thôi ư? Anh hỏi.
Người nhân viên ngước mắt nhìn lên.
– Anh cho là chúng tôi giữ lại thứ gì à?
– Không, tôi nghĩ rằng có lẽ ông biết địa chỉ của bố mẹ tôi.
– Đó không phải là việc của chúng tôi. Anh hỏi ở lầu một, bộ phận chịu trách nhiệm về việc thay đổi địa chỉ.
Gơrebê lên gác. Chỉ một phần tầng gác thứ nhất là có mái. Qua phần còn lại, người ta trông thấy bầu trời với mấy đám mây và một tia nắng.
– Chúng tôi không có địa chỉ mới của gia đình anh, người nữ thư kí làm việc ở đó nói với anh. Nếu không chúng tôi đã chẳng gửi gói hàng về phố Ha-ken. Nhưng anh cũng có thể hỏi người đưa thư ở khu phố anh xem.
– Ông ấy ở đâu?
Người nữ thư ký xem đồng hồ.
– Bây giờ ông ấy đang đi dưa thư. Khoảng bốn giờ chiều, anh trở lại, ông ấy sẽ có ở đây. Đó là giờ soạn thư.
– Liệu ông ta có thể biết địa chỉ của bố mẹ tôi không? Bố mẹ tôi không quen ai ở đây.
– Chắc là không, vì tất cả các địa chỉ ông ta biết được là do ở chỗ chúng tôi cung cấp. Nhưng có người vẫn cứ muốn hỏi ông ta. Làm thế họ yên tâm hơn? Họ thích vậy thì biết làm sao.
Gơrebê kẹp gói đồ dưới cánh tay và đi xuống thang. Anh coi ngày gửi. Đã được ba tuần. Nó đã mất khá nhiều thời gian mới ra tới mặt trận. Trái lại nó trở về khá nhanh. Anh ngồi vào một góc, gỡ giấy bọc màu ra xem. Trong có bánh ngọt xấy khô, một đôi bít tất, một gói thuốc lá và một lá thư của mẹ anh. Anh đọc thư, không thấy nói đến chuyện tản cư, lẫn chuyện máy bay ném bom. Anh nhét lá thư vào túi và chờ cho hết xúc động rồi anh đi xuống phố. Anh tự nhủ rằng thế nào cũng phải có một bức thư thứ hai với địa chỉ mới sẽ tới nhưng anh vẫn cảm thấy đau khổ hơn lúc nào hết.
Anh quyết định đến nhà Binđinh. Có thể hắn biết được điều gì mới chăng.
– Vào đi, cứ vào đi, Anphôn kêu to. Bọn tớ mới cạn một chai rượu thượng hảo hạng. Cậu đến đây giúp chúng tớ một tay.
Không phải chỉ có mình Binđinh. Một tên SS gần như nằm dài trên ghế đi-văng dưới bức tranh của Rayben, nom như y bị trượt ngã ở cái tư thế lạ lùng này và y không gượng dậy được. Mặt y xám như chì và lông tóc y vàng đến nỗi trông y như không có lông mày và lông mi.
– Xin giới thiệu Henni với cậu, Anphôn nói vẻ lễ phép, người thổi kèn dụ rắn đấy! Còn đây là anh bạn thân Ernest, ở mặt trận Nga về nghỉ phép.
Henni đã khá say. Hắn có cặp mắt xanh nhợt và cái mồm rất nhỏ.
– Nước Nga à! Y lẩm bẩm nói. Tao cũng đã ở Nga rồi. Thời gian đó đang làm ăn tốt. Ở đấy khá hơn đây.
Gơrebê quay nhìn Binđinh vẻ dò hỏi.
– Henni hơi quá chén, hắn giải thích. Vả lại anh ta có chuyện buồn về gia đình. Nhà bố mẹ anh bị ném bom. Không ai việc gì, tất cả đều ở dưới hầm, nhưng nhà thì không còn nữa.
– Bốn phòng, Henni gầm lên, toàn đồ đạc mới. Lại cây đần dương cầm nữa chứ! Một cây đàn kỳ diệu! Tiếng hay lắm! Trời! Bọn đểu cáng thật!
– Henni chắc sẽ tìm ra cách trả thù cho cây đàn dương cầm của anh ta, Anphôn nói. Lại đây, Ernest, cậu uống gì nào? Henni dùng cô-nhắc. Có cả vốt-ka với kum-men, cậu muốn gì cũng có.
– Không, không, mình chỉ tạt qua đây thôi. Mình muốn hỏi xem cậu có biết được gì mới không?
– Vẫn chưa có gì, Ernest ạ. Bố mẹ cậu không còn ở vùng này nữa. Không chính thức thì như vậy. Ở các làng gần đây cũng không có tin gì. Hoặc ông bà cụ cậu đã tự động đi và chưa gửi địa chỉ mới về, hoặc ông bà cụ cậu đã theo một đoàn lánh nạn nào rồi. Cậu cũng biết tình hình rồi. Bọn chó đểu ấy ném bom xuống khắp nước Đức, phải một thời gian mới có thể khôi phục lại được các hệ thống bưu điện. Kìa, uống gì đi. Ít ra cũng uống thử một ly nhỏ chứ.
– Thì uống một ly vốt-ka vậy.
– Vốt-ka à, Henni lầm bầm. Ở bên ấy, chúng tao uống hàng lít. Sau chúng tao đổ vào miệng mấy thằng Ivan[66] mà đốt. Nom như súng phun lửa bằng xương bằng thịt. Chà! Chúng mày coi! Chúng nó nhảy cẫng lên mà chết cười được. Thời gian ở Nga thú vị thật.
– Thế nào? Gơrebê hỏi.
Henni không trả lời. Con mắt màu lục của nó đăm đăm nhìn vào khoảng không.
– Những cái súng phun lửa, nó nhắc lại, nghĩ ra trò này cũng hay.
–Anh ấy nói gì vậy? Gơrebê hỏi Binđinh.
Anphôn nhún vai.
– Henni đã được chứng kiến nhiều việc lắm. Anh ta ở đội SD mà.
– Trong đội SD ở Nga à?
– Phải, uống một ly nữa đi Ernest.
Gơrebê cầm chai rượu vốt-ka ở chiếc bàn thấp và ngắm nước rung rinh đang lấp lánh sau chất thủy tinh trắng.
– Rượu này bao nhiêu độ?
Anphôn cười.
– Khá mạnh đấy. Ít ra cũng sáu mươi độ. Bọn Ivan thích những thứ nặng cháy ruột.
Gơrebê tự nhủ, sáu mươi độ. Kể ra cũng khá mạnh đến mức chỉ cần một que diêm cũng có thể cháy trong cổ họng. Anh nhìn Henni. Anh đã biết tiếng tăm của sở mật thám SS và hiểu rằng những lời nói bóng gió của Henni không phải chỉ là bịa đặt hay khoác lác. Lấy lý do tạo ra những khoảnh đất sinh tồn cho dân tộc Đức, bọn SD tiến hành những vụ thanh toán hàng loạt ở sau mặt trận. Chúng thanh toán tất cả những ai chúng không ưa và để cho những vụ giết người hàng loạt ấy đỡ nhàm chán, bọn SS thay đổi tìm các cách giết người khác nhau cho thú vị. Gơrebê đã biết một vài cách, Staibrennơ kể cho anh nghe vài cách khác. Nhưng đối với anh, những cây súng phun lửa sống thật là mới.
– Có gì mà cậu cứ nhìn mãi chai rượu thế? Anphôn hỏi anh. Nó không sắp cắn cậu đấy chứ. Rót một ly nữa đi.
Gơrebê đặt chai rượu xuống. Anh muốn đứng dậy và bỏ đi nhưng anh vẫn cứ ngồi. Anh đã chán cảnh quay mặt đi và không muốn biết chút gì. Anh và hàng trăm người khác giống như anh tưởng làm như vậy sẽ gạt bỏ được những thắc mắc trong lương tâm họ một cách nhẹ nhàng. Anh đã quá ngán rồi. Anh sẽ không nhắm mắt bỏ qua nữa. Ít ra lần đi phép này sẽ giúp anh làm được như thế.
– Cậu không uống nữa à? Anphôn hỏi.
Gơrebê nhìn Henni đang ngủ gà.
– Anh ta vẫn ở đội SD à?
– Không, bây giờ thì không. Anh ta đang ở đây.
– Ở đâu?
– Trung úy ở trại tập trung.
– Ở trại tập trung à?
– Ừ, uống đi chứ, Ernest. Chúng ta không dễ gặp nhau phải không? Mà cậu đừng có chuồn đấy.
– Không, Gơrebê nhìn chằm chằm Henni và hứa. Mình sẽ không chuồn nữa đâu.
– Nói nghe được đấy. Cậu uống gì nào, vốt-ka nhé?
– Không, cho tớ kum-men hay cô-nhắc. Không uống vốt-ka đâu.
Henni cựa mình nói, lè nhè.
– Phải rồi, không uống vốt-ka đâu. Vốt-ka là để cho bọn ta. Chúng nó thì cho uống xăng. Thứ ấy dễ cháy hơn nhiều.
Henni nôn mửa trong phòng tắm. Anphôn cùng Gơrebê đợi trước cửa nhà. Bầu trời dầy đặc những cụm mây trắng. Trong đám cây bạch dương, một con sáo vừa nhẩy vừa hót vang. Trong con chim nhỏ, đen, tròn, với cái mỏ vàng, có cả một mùa xuân.
– Cái cậu Henni này, đặc biệt thật đấy, phải không? Anphôn nói. Hắn giống như một đứa trẻ nói về một tên tướng da đỏ độc ác và uy nghi. Trong giọng nói của hắn, có cả kinh sợ lẫn thán phục.
– Phải, nhất là anh ta lại đối xử như vậy với những người không thể tự vệ được, Gơrebê nói.
– Anh ta bị liệt một tay, Ernest ạ. Vì thế anh ta không phải ra lính. Anh ấy bị như vậy trong một trận ẩu đả với bọn cộng sản năm 1932. Có lẽ vì vậy, anh ta mới tàn nhẫn thế. Cậu đã được nghe anh ta kể về những đống củi người chưa?
Anphôn rít một điếu xì gà đã tắt từ khi Henni gợi lại những kỉ niệm Nga của nó. Hắn cảm động đến nỗi quên châm lại thuốc.
– Một lớp củi, một lớp người, và cứ thế cao lên mãi. Mà bọn chúng phải tự mang củi đến rồi nằm lên trên trước khi nhận một phát đạn vào gáy nhé. Ghê không! Binđinh nhắc lại.
– Ghê thật đấy! Gơrebê thừa nhận.
– Lại còn bọn đàn bà nữa! Không biết làm sao chúng chịu được.
– Ừ, cậu có muốn ở địa vị ấy không?
– Để xem bọn đàn bà ư?
– Không xem những cái kia cơ, những đống củi người, những cây Noen nặng trĩu người bị treo cổ, những cuộc xử tử hàng loạt bằng súng liên thanh.
Binđinh suy nghĩ một lát. Rồi hắn lắc đầu.
– Tớ không tin là chịu được. Xem một lần cho biết còn tạm. Những thứ ấy không hợp với tớ. Tớ đa cảm lắm.
Henni hiện ra ở khung cửa, mặt tái mét.
– Trời đất ơi! Đến giờ rồi! Tao bị chậm mất! Phải chạy mới kịp! Bọn khốn nạn sẽ biết tay tao.
Nó lảo đảo qua vườn rồi đi xa dần. Đến cổng, nó sửa lại mũ, ưỡn thẳng người và bước đi, giáng điệu như cò.
– Tớ thật không muốn là tên phạm nhân sắp rơi vào tay hắn chút nào. Binđinh nói.
Gơrebê ngước mắt lên. Anh cũng nghĩ như vậy.
– Anphôn này, cậu thấy thế có đúng không?
Binđinh nhún vai.
– Đó là bọn phản quốc, Ernest ạ. Không phải vô cớ chúng phải vào trại tập trung.
– Thế Buyếcmaistơ thì sao? Cũng là phản quốc đấy à?
Anphôn cười.
– Đấy là việc riêng. Vả lại lão ta cũng thoát, mà nhẹ thôi.
– Thế nếu ông ta không thoát thì sao?
– Thì tại số đen. Hiện nay có rất nhiều người gặp vận đen đấy. Những người gặp tai nạn chẳng hạn. Rồi những người chết. Riêng thành phố này đã có tới năm ngàn người. Họ khá hơn bọn tù ở các trại nhiều. Mà chuyện này có quan hệ gì tới bọn mình. Không phải lỗi tại tớ cũng không phải tại cậu.
Một đàn chim sẻ hót ríu rít sà xuống một cái bể nhỏ bằng tôn dành cho chúng trên bãi cỏ. Một con lao xuống nước, những con khác làm theo ngay. Anphôn chăm chú ngắm nhìn chúng. Hình như hắn đã quên Henni. Gơrebê ngắm bộ mặt thỏa mãn và ngây thơ của hắn. Trên khuôn mặt đó, anh thấy rõ là hắn dứt khoát lên án mọi nỗi lòng trắc ẩn và mọi ý thức trách nhiệm. Ích kỉ, thờ ơ, sợ hãi như một bức tường đã chặn đứng những ý niệm đó. Anh hiểu rằng anh cũng không thoát khỏi quy luật đó, nó cứ bám lấy anh và những người khác một cách mập mờ, xa xôi nhưng không kém phần dữ tợn. Anh cảm thấy mình phải liên đới chịu trách nhiệm cùng Binđinh tuy anh khinh ghét hắn vô cùng.
Vấn đề trách nhiệm không đơn giản thế đâu, Anphôn ạ, Gơrebê nhẹ nhàng nói.
– Cậu nói chơi đấy chứ Ernest? Người ta chỉ chịu trách nhiệm về mọi hành động của chính mình, mà còn với điều kiện là không làm đúng như mệnh lệnh đã nhận được.
– Khi chúng ta xử bắn các con tin, chúng ta lại nói khác. Chúng ta nói rằng họ phải chịu trách nhiệm về những điều người khác làm.
– Cậu đã bắn con tin rồi à? Binđinh bỗng tỏ vẻ chú ý quay lại phía anh và hỏi.
Gơrebê không trả lời.
– Con tin là vấn đề khác, Binđinh nói tiếp. Đó là trường hợp đặc biệt, trường hợp bất khả kháng.
Thế thì chỉ còn trường hợp bắt buộc, trường hợp bất khả kháng thôi, Gơrebê nói. Tất nhiên khi chúng ta hành động thì thế. Khi chúng ta ném bom một thành phố thì đó là một yêu cầu cần thiết về chiến lược. Khi địch ném bom các thành phố của chúng ta thì đó lại là việc giết người hèn nhát.
– Cậu nói đúng. Hay thật – Anphôn ngó nhìn Gơrebê với vẻ ý nhị. Đó là lời cuối cùng của đường lối chính trị hiện đại đấy. Ông bộ trưởng bộ tư pháp nước ta chẳng đã nói, chính nghĩa là cái gì phục vụ cho quyền lợi của nước Đức. Tớ nghĩ rằng ở địa vị ông ta mới biết rõ được điều ấy. Chúng ta làm nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta không chịu trách nhiệm – Hắn cúi về phía trước – Này! Trông kìa, con sáo vừa tắm xong. Lần đầu tiên, tớ trông thấy nó đấy. A! Làm sao đàn sẻ lại bay hết thế này!
Bỗng Gơrebê thấy Henni đi trước anh. Phố vắng ngắt. Một thứ ánh sáng màu vàng lười biếng chập chờn giữa hàng rào các vườn.
Một con bướm vàng bay loạng choạng ở sát lớp cát mỏng rải rác bên hè đường. Henni mất hút ở một góc phố cách đó độ một trăm mét.
Cát làm không ai nghe được tiếng bước chân của Gơrebê. Anh nghĩ, muốn thanh toán tên Henni thì không lúc nào tiện bằng lúc này. Không một bong người. Phố xá như thiu thiu ngủ. Cát êm thế này đi đến tận nơi cũng không nghe được tiếng chân. Henni sẽ không nghe thấy gì hết. Rất dễ đập chết, bóp cổ hay dùng dao găm đâm nó chết. Tiếng súng sẽ gây ồn ào khiến người ta đến ngay. Henni chắc không khỏe lắm. Bóp cổ nó chắc cũng dễ.
Gơrebê nhận thấy vô tình mình đã rảo bước. Anh nghĩ, Anphôn chắc cũng không nghi ngờ gì. Ai cũng sẽ cho đó là một chuyện trả thù. Không thiếu gì lí do. Cơ hội này có lẽ không bao giờ tới nữa. Cơ hội để diệt trừ một tên giết người chỉ lát nữa sẽ tra khảo đến chết những người đã khiếp đảm và không có gì để tự vệ.
Anh thấy tay anh ướt đẫm mồ hôi, ngực bỗng nghẹt thở. Đến lượt anh rẽ và anh nhận thấy khoảng cách giữa anh và Henni đã giảm đi chừng ba mươi mét. Vẫn không có ai. Nếu chạy trên những đám cát, anh sẽ đuổi kịp Henni và chỉ trong một phút, mọi việc sẽ xong xuôi.
Trống ngực anh đập loạn xạ. Henni nghe thấy tiếng động nhỏ và mạnh này, liệu có quay lại không? Anh nghĩ thầm, mình làm sao thế này? Mình sắp dây vào việc gì đây? Một ý nghĩ thoạt tiên chỉ là một việc ngẫu nhiên này đã biến thành một điều ép buộc khó hiểu và anh bỗng cảm thấy như tất cả đều phụ thuộc vào hành động này, rằng anh có thể chuộc lại dĩ vãng, những thời gian sa ngã, liên tục, những gì anh đã cố quên, những việc anh đã làm và đã để cho làm. Chữ báo thù hiện lên trong óc anh. Anh mới chỉ biết qua người này, riêng về cá nhân, thì anh không có gì để trách người đó cả. Anh tự nhủ, chưa có gì đâu nhưng biết đâu bố Elidabét sẽ chẳng là một nạn nhân của nó trong hôm nay hay ngày mai? Và còn vô số những con tin đã bị hy sinh, có thể trách gì được họ, đâu là lỗi của họ?
Mắt anh không rời khỏi lưng Henni. Anh thấy khô cổ. Một con chó sủa trong một cái vườn. Anh giật mình nhìn quanh. Anh nghĩ, mình uống nhiều rượu quá, mình phải dừng lại thôi, phải bình tĩnh lại, không thể đi sâu vào cơn ác mộng ấy được, đó là việc hoàn toàn điên rồ, nhưng anh vẫn đi nhanh hơn thúc đẩy bởi sức mạnh chính đáng không thể nào cưỡng lại, sức mạnh tạo ra vì ý nghĩ chuộc lại tội lỗi đã giết bao nhiêu người từ trước đến nay.
Anh chỉ cách Henni chừng hai chục thước. Anh chưa biết mình sẽ làm gì. Đúng lúc ấy, anh thấy một người đàn bà xuất hiện ở đầu phố. Người đó mặc một cái áo tạp dề màu da cam, tay cầm một cái làn không, đi về phía anh. Anh dừng lại. Anh thấy như có chiếc lò so nào vừa gẫy trong anh. Anh lại chậm chạp bước đi. Người đàn bà gặp Henni rồi đi tới anh, tay đung đưa cái làn, vẻ bình tĩnh. Mặt bà ta to, rám nắng, ngực nở, dáng đi thong thả. Nền trời nhàn nhạt mờ ảo thành một tấm phông đằng sau mớ tóc đen của bà ta được chải cẩn thận ra phía sau. Trong khoảnh khắc, Gơrebê chỉ thấy có bà ta là thật giữa cái khung cảnh hỗn độn này, bà ta là cuộc sống, bà ta mang cuộc sống trên đôi vai khỏe mạnh như mang một vật nặng và quý, còn quanh bà, chỉ là hoang tàn chết chóc.
Lúc đi qua, bà ta nhìn anh, mỉm cười, nói “Chào anh”, Gơrebê gật đầu. Anh không sao nói được. Anh nghe tiếng chân của bà ta ở đằng sau anh và anh lại thấy một mình đơn độc giữa bãi sa mạc chói lòa ánh sáng và bóng Henni đang xa dần về phía chân trời. Bà ta rẽ ở góc phố.
Anh ngơ ngác nhìn quanh. Người đàn bà vẫn đi và không để ý đến anh. Anh tự nhủ, đáng lẽ mình phải chạy mới được, hãy còn đủ thời gian. Nhưng anh biết là anh sẽ không làm gì. Anh nghĩ, bà này đã trông thấy mình, bà ta sẽ nhận ra mình ngay. Nhưng nếu bà ta không có ở đây, liệu anh có dám làm gì không? Hay anh sẽ tìm ra một lí do khác để tự bào chữa? Anh không biết nữa.
Anh đến ngã tư, chỗ Henni đã mất hút. Mãi đến chỗ quẹo sau, anh mới lại thấy nó. Nó dừng lại ở giữa đường nói chuyện với một tên SS khác. Rồi hai tên cùng đi. Một bưu tá từ trong vườn đi ra. Xa nữa là hai người đi xe đạp. Chậm quá rồi, Gơrebê có cảm tưởng như vừa tỉnh mộng. Anh lắc đầu. Anh nghĩ, có gì xảy ra vậy? Hình như chỉ một chút nữa là mình làm một việc bậy bạ rồi? Mình bị cái gì thế? Mình bị làm sao vậy? Anh lại tiếp tục đi. Anh nghĩ, mình phải tự kiểm soát lấy mình mới được. Mình tưởng mình tự chủ lắm. Thật ra không ổn chút nào. Mình bị day dứt nhiều mà không biết. Nếu không cẩn thận, đến phát điên lên mất!
Anh mua một tờ báo ở quán và dừng lại đọc bản thông cáo. Từ ngày về, anh không hề đọc tin tức. Anh muốn quên hết. Trên một mảnh bản đồ, anh tìm ra địa điểm đóng quân của đơn vị. Bản thông cáo chỉ nêu những đơn vị quân đoàn lớn. Anh chỉ có thể ước lượng đại khái vị trí của quân đoàn anh. Nhưng anh cũng thấy ngay là nó đã lùi khoảng một trăm cây số.
Anh đứng sững một lát. Từ ngày nghỉ phép, anh chưa lần nào nghĩ đến các bạn anh. Những kí ức đó đã lắng sâu trong anh như một hòn đá, bây giờ nó mới nổi lên mặt.
Anh cảm thấy như có một cảnh cô đơn u ám từ dưới đất bốc lên bao bọc lấy anh. Bản thông cáo đưa tin những cuộc chiến đấu diễn ra ở khu vực anh đang chú ý theo dõi, nhưng cảnh cô đơn lại không có diện mạo lẫn âm thanh và tiếng ầm ì của cuộc chiến đấu hình như đã chết trong cảnh cô đơn đó cùng với ánh lửa của những tiếng nổ. Những hình bóng trỗi dậy, bồng bềnh, lạnh lẽo, múa lộn và nhìn anh, cái nhìn của chúng xuyên qua anh. Rồi khi rơi xuống, chúng hòa lẫn với mặt đất xám xịt đã bị cầy lên, mặt đất mà chúng vừa từ đó hiện lên. Bầu trời mênh mông trong sáng ở trên đầu anh đã phai nhạt, vì đám khói của cái cảnh hấp hối không ngừng từ dưới đất bốc lên, che lấp cả mặt trời. Bỗng nhiên anh phát hiện ra một điều không sao tha thứ được, và anh nghĩ, phản bội. Người ta đang phản bội họ, bôi nhọ họ, bởi vì cuộc chiến đấu và hy sinh của họ đã bị đầu độc bởi bất công, dối trá và bạo tàn. Người ta đã lừa dối họ, người ta đã làm cả cuộc đời họ, cả cái chết khốn khổ của họ cũng bị biến chất.
Một người đàn bà mang một cái bao to đằng trước mặt, vấp phải anh.
– Anh không có mắt à? Bà ta nóng nẩy la lên.
– Có, có chứ! Gơrebê vẫn đứng yên nói.
– Anh đứng giữa đường làm gì vậy?
Gơrebê không trả lời. Bây giờ thì anh biết tại sao anh đi theo Henni. Vẫn là cái sức mạnh tối tăm đã từng đè nén anh nhiều lần ở mặt trận, vẫn là cái câu hỏi mà anh không bao giờ dám trả lời, vấn là nỗi tuyệt vọng vô bờ mà cho đến nay anh vẫn nén lại được. Cuối cùng, anh đã tự mình tìm ra được những bằng chứng đó, anh đã nhận ra được chúng và không có gì ở trên đời có thể bắt anh xua đuổi chúng đi một lần nữa. Anh muốn được tỉnh táo. Anh đã sẵn sàng rồi. Anh nghĩ, còn Pônman nữa. Phơrêdenbua đã bảo anh đến gặp ông ta. Mình đã quên mất. Mình sẽ nói với ông. Mình phải nói với một người mà mình tin.
– Đồ ngớ ngẩn! Trước khi đi, người đàn bà rủa.
* * *
Một phần quảng trường Gian đã bị phá hủy. Những nhà khác chỉ bị mất kính. Cuộc sống hằng ngày ở đó vẫn tiếp tục; ở tầng dưới cùng, người ta thấy những người đàn bà đang dọn dẹp và nấu nướng, còn những nhà đối diện thì chỉ chưng ra những mặt tiền đã bị tàn phá, những góc phòng lộn xộn, có những tấm rèm rách bươm lủng lẳng như những lá cờ đã tã nát sau khi bị bại trận.
Ngôi nhà Pônman ở trước thuộc về dãy phố bị phá hủy. Những tầng trên bị đổ đã chặn mất cửa ra vào. Trông bề ngoài như không có ai ở đây cả. Gơrebê định quay ra thì lại tìm thấy một lối đi hẹp giữa đống vôi gạch vụn. Anh bước vào, đi quanh nhà, đến một cái cửa kín, lối ra vào đã được dọn quang. Anh gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ nữa. Sau vài phút chờ đợi, anh nghe có tiếng động. Tiếng xích kêu lẻng xẻng, cửa hé mở.
– Tôi hỏi ông Pônman, anh nói.
Một ông già ló ra.
– Tôi đây, ông muốn gì?
– Tôi là Ernest Gơrebê, một học sinh cũ của thầy đây.
– Vâng, phải, thế ông cần gì?
– Tôi được nghỉ phép. Tôi lại thăm thầy.
– Tôi không còn làm việc nữa, Pônman nói rất nhanh.
– Tôi biết.
– Được. Thế ông cũng biết rằng tôi phải về hưu vì kỷ luật đấy chứ. Tôi không tiếp các học sinh và tôi cũng không có quyền tiếp các học sinh nữa.
– Tôi không còn là học sinh nữa! Tôi là lính và tôi từ ở Nga về nghỉ phép. Phơrêdenbua có nhờ tôi đến hỏi thăm thầy.
Ông già nhìn Gơrebê kỹ hơn.
– Phơrêdenbua à? Anh ấy còn sống ư?
– Mười ngày trước đây, anh ấy còn sống.
Ông già ngập ngừng một lát. Sau ông tránh sang bên và nói:
– Thôi được, ông vào đi.
Gơrebê đi theo ông. Hai người theo một hành lang nhỏ dẫn đến một nơi giống như bếp, từ đó lại có một hành lang khác tiếp theo. Bỗng Pônman rảo bước và cất cao giọng nói to.
– Vào đi, vào đi. Tôi tưởng ông ở Sở Cảnh sát.
Gơrebê ngạc nhiên nhìn ông. Rồi anh hiểu và nhìn chung quanh. Pônman nói những câu ấy chỉ để làm yên lòng một người nào đó.
Một cây đèn dầu nhỏ, chụp đèn xanh đang cháy trong gian phòng. Vôi gạch vụn chất đống ở bên ngoài đã che lấp cửa sổ. Pônman dừng lại ở giữa phòng.
– Bây giờ thì tôi nhận ra anh rồi, ông nói. Bên ngoài sáng quá. Tôi ít khi ra ngoài lắm… Tôi cũng quen như thế rồi. Còn ở đây thì anh đã thấy đấy, chỉ có đèn dầu để thắp, mà dầu hỏa thì hiếm nên cứ phải ngồi hàng giờ trong bóng tối. Tất nhiên là không còn điện nữa.
Gơrebê nhìn ông. Ông đã già đến nỗi anh không nhận ra ông. Nhìn chung quanh, anh có cảm giác như được đưa đến một thế giới khác. Sau cảnh ồn ào, nắng chói ở ngoài phố, không phải chỉ có sự im lặng và vòng sáng tròn của cây đèn làm gian phòng có không khí một gian nhà mồ; còn có cái khác nữa. Đó là những dãy sách mạ vàng hay nâu xếp đầy trên tường, đó là những bức họa in của xứ Vây ma[67] treo rải rác trên tường, sau cùng, đó là ông già tóc bạc trắng, da nhăn nheo, nước da nhợt nhạt làm người ta nghĩ ngay đến những năm cấm cố.
Pônman nhận thấy cái nhìn của Gơrebê.
– May mắn là tôi đã chạy được hết các sách của tôi, ông nói.
Gơrebê quay lại nhìn ông.
– Đã lâu tôi không trông thấy sách. Tôi không được đọc sách lại càng lâu hơn.
– Tôi hiểu, Pônman nói, sách nặng quá không thể mang theo trong sắc được.
– Cũng nặng quá không thể mang theo trong đầu được. Chúng không phù hợp với những việc đang xảy ra ở ngoài đó. Còn những sách cùng một luận điệu thì đừng đọc còn hơn.
Pônman nhìn chăm chăm vào vùng sáng tròn dịu và xanh của cây đèn.
– Tại sao anh lại đến thăm tôi, anh Gơrebê?
– Phrê-den-bua khuyên tôi nên đến thăm thầy.
– Anh có thân với anh ta không?
– Ngoài đó, tôi chỉ hoàn toàn tin cậy ở một mình anh ấy. Anh ta khuyên tôi nên đến gặp thầy để nói chuyện. Anh ta tin rằng thầy sẽ nói sự thật.
– Sự thật à? Sự thật về vấn đề gì?
Gơrebê nhìn ông già. Thời kỳ anh học ông già đã xa xôi lắm. Trong giây lát, anh có cảm giác anh lại trở lại thành học trò của ông già, một lần nữa, anh sẽ hỏi ông về ý nghĩa cuộc đời, và trong cái hầm bị chôn vùi dưới những đổ vỡ, trước mặt ông già sống giữa đống sách vở, tương lai anh sẽ theo một hướng mới. Chính những tồn tại của dĩ vãng, của lòng nhân từ, của sự rộng lượng và của trí thức đều ở cả đây, đằng sau những chiếc cửa sổ bị đui mù vì những căn nhà đổ.
– Tôi muốn biết tôi phải chịu trách nhiệm đến chừng mực nào về những tội ác đã xảy ra trong vòng mười năm gần đây? Anh nói, tôi còn muốn biết là nên làm gì?
Pônman ngắm anh một lúc lâu. Rồi ông đi đi lại lại trong phòng. Ông rút ở trên giá một cuốn sách, mở ra rồi không nhìn nó, ông lại đặt trả vào chỗ cũ. Sau cùng, ông quay lại phía anh.
– Anh có biết anh vừa hỏi tôi điều gì không?
– Thưa có.
– Hằng ngày có những người bị mất đầu vì những điều không bằng thế đấy.
– Hằng ngày, ngoài mặt trận có những người bị giết chết vì những điều vô nghĩa lý hơn thế nữa.
Pônman ngồi xuống.
– Có phải khi nói đến tội ác, anh muốn nói đến chiến tranh không?
– Tôi nói đến tất cả những gì đã dẫn đến cái đó, như gian dối, áp bức, bất công và tàn bạo. Cả chiến tranh nữa. Cuộc chiến tranh mà chúng ta đang tiến hành với những trại nô lệ, trại tập trung của nó và việc giết người hàng loạt những người dân thường.
Pôn-man nín lặng.
– Tôi đã trông thấy một số việc. Tôi đã nghe kể một số việc khác, Gơrebê nói tiếp. Tôi biết rằng chiến tranh đã thất bại. Và tôi biết rằng chúng ta còn tiếp tục chiến đấu là cốt để chính phủ, đảng và tất cả những người có trách nhiệm có thể nắm được quyền hành lâu hơn nữa, nhằm đeo đuổi công cuộc phá hoại của họ.
Pôn-man không rời mắt nhìn Gơrebê.
– Anh biết tất cả những cái đó à? Ông hỏi anh.
– Bây giờ thì tôi biết. Trước kia không phải tôi đã biết.
– Rồi anh lại trở ra mặt trận?
– Vâng.
– Thật là ghê rợn!
– Điều ghê rợn hơn nữa là trở ra mặt trận, tôi nghĩ rằng có lẽ tôi phải chịu trách nhiệm về tất cả những việc thê thảm này. Thầy có cho rằng tôi cũng phải chịu trách nhiệm không?
Pôn-man nín lặng một lát.
– Anh hiểu điều đó như thế nào? Một lát sau, ông lại hỏi anh, giọng nói nhỏ hẳn.
– Thầy cũng biết là tôi đã hiểu điều đó như thế nào đấy. Chính thầy đã giáo dục chúng tôi về tôn giáo học. Tôi phải chịu trách nhiệm đến chừng mực nào, khi tôi biết rằng không những chúng ta đã thua trận mà chúng ta còn cần phải thua trận để chấm dứt chế độ nô lệ tội ác, những trại tập trung, bọn SS và SD, việc giết dân chúng hàng loạt, và lòng vô nhân đạo, khi mà đã biết tất cả những điều đó, tôi lại trở về đơn vị trong vòng hai tuần lễ nữa và lại tiếp tục chiến đấu.
Anh thấy mặt Pôn-man bỗng nhiên xạm lại và nhợt nhạt. Chỉ trong đôi mắt của ông là còn chút dư âm của màu sắc, một màu xanh đặc biệt trong suốt. Gơrebê chợt nhớ đến những đôi mắt tương tự như thế mà anh đã trông thấy không biết trong dịp nào.
– Thế anh cần phải đi thật à? Pôn-man hỏi.
– Tôi có thể từ chối không tuân lệnh. Tôi sẽ bị treo cổ hay bị xử bắn.
Gơrebê chờ đợi một câu trả lời.
– Những tín đồ thiên chúa giáo đầu tiên đã từ chối không tuân lệnh đấy, sau cùng ông ngập ngừng nói.
– Chúng ta không phải là thánh. Nhưng trách nhiệm của chúng ta bắt đầu từ lúc nào? Gơrebê hỏi. Cái mà ta gọi là tính anh hùng trở thành tội ác từ lúc nào? Khi người ta không tin vào lí lẽ trước kia người ta vẫn cho là phải ư? Và lý tưởng mà ta vẫn theo đuổi? Ranh giới là ở đâu?
Pôn-man nhìn anh với vẻ một người đang bị tra khảo.
– Anh muốn tôi nói gì với anh bây giờ? Điều đó quan trọng quá. Tôi không thể quyết định thay anh điều gì được.
– Như vậy thì việc ai, người ấy quyết định lấy, phải không?
– Theo tôi thì phải như thế.
Gơrebê nín lặng. Tại sao anh lại đặt ra những câu hỏi đó? Đáng lẽ ở cương vị bị cáo, mình lại đóng vai quan tòa? Tại sao lại làm khổ ông già này, đi hỏi ông những điều ông đã dậy mình trước kia và những điều mà sau này, lúc không có ông, mình đã học được. Mình có cần được giải đáp không? Phải chăng, lúc nãy chính mình đã tự trả lời cho mình rồi?
Anh nhìn Pôn-man. Anh hình dung thấy ông bị đuổi khỏi chức vụ của mình, sống lẩn tránh những ngày dòng dã ở nơi ẩn náu này, dưới ánh đèn dầu hay trong bóng tối lo sợ từng giờ, từng phút bị người ta đến bắt đi, chỉ biết tìm chút an ủi trong sách vở, như một người theo đạo thiên chúa trốn trong hầm mộ[68].
– Thầy nói đúng, anh nói với ông. Hỏi người khác chỉ là lùi bước trước khi quyết định. Nói cho cùng, tôi cũng không mong thầy trả lời rõ ràng. Nhưng có những lúc người ta chỉ có thể tự hỏi mình bằng cách hỏi người khác.
Pôn-man lắc đầu.
– Anh có quyền hỏi tôi. Trách nhiệm ư? Ông bỗng sôi nổi nói to. Anh có biết nó là gì không? Anh còn trẻ và người ta đã đầu độc anh bằng những điều gian dối ngay từ trước khi anh đến tuổi hiểu biết. Nhưng còn chúng tôi, những người đã được chứng kiến tất cả những điều đó mà cứ để cho làm. Tại sao, tại sao vậy? Vì tình cảm lười nhác? Vì vô tình? Nghèo khổ? Ích kỉ? Thất vọng? Nhưng làm sao biết trước rằng những cái đó sẽ trở thành một tai họa như thế này? Anh tưởng trước kia tôi không tự đặt những câu hỏi đó ra cho tôi ư?
Gơrebê bỗng nhớ đến những con mắt mà khi nhìn vào mắt Pôn-man anh nghĩ tới. Đó là những con mắt của một người Nga mà anh đã bắn.
– Tôi phải đi đây,anh đứng dậy và nói. Cảm ơn thầy, đã cho phép tôi được vào nhà và bằng lòng nói chuyện với tôi.
Anh cầm mũ. Pôn-man như vừa tỉnh mộng.
– Anh đi à? Ông nói. Anh định làm gì bây giờ?
– Tôi không biết nữa. Tôi còn hai tuần để suy nghĩ.
– Khi đã quen sống được phút nào hay phút đó, thì thế là nhiều rồi.
– Anh hãy trở lại đây. Trước khi đi hãy lại đây gặp tôi. Anh hứa với tôi đi.
– Tôi xin hứa với thầy như vậy.
– Không có mấy người đến thăm tôi. Pôn-man lẩm bẩm.
Gơrebê thấy một tấm ảnh nhỏ ở gần chiếc cửa sổ bị bịt kín, giữa những chồng sách. Đó là ảnh một thanh niên trạc tuổi anh, mặc binh phục. Anh nhớ là Pôn-man cũng có một con trai. Nhưng anh hiểu rằng không nên hỏi về chuyện này thì hơn.
– Anh có viết thư cho Phrêdenbua, thì nói tôi có lời hỏi thăm anh ấy nhé! Pôn-man nói.
– Vâng, thầy đã nói về những vấn đề đó với anh ta rồi phải không?
– Phải.
– Tôi tiếc không được gặp thầy từ mấy năm trước.
– Anh tưởng Phrêdenbua biết vậy sẽ sống dễ dàng hơn ư?
– Không, trái lại.
Pôn-man gật đầu.
– Tôi không muốn nói gì với anh bởi vì tôi không muốn trả lời anh bằng vô số những câu trả lời không ra gì như quanh co lẩn tránh. Những câu trả lời như vậy không thiếu. Chúng đều rất đúng và không chối cãi được nhưng chúng chỉ thuyết phục được những kẻ hèn nhát thôi.
– Cả những câu trả lời của Giáo hội cũng vậy?
Pôn-man lưỡng lự một lúc sau mới nói.
– Cả những câu trả lời của Giáo hội cũng vậy. Nhưng Giáo hội gặp may hơn. Bên cạnh lời răn “hãy yêu kẻ khác như yêu mình” hay “không được giết người” còn có câu “Hãy trả lại Xê-da cái gì của Xê-da, trả lại cho Chúa cái gì của Chúa[69]”. Như vậy họ hoạt động có phần rộng rãi hơn.
Gơrebê cười. Anh thấy lại giọng nói chua chát của thầy Pôn-man ngày trước. Pôn-man cũng nhận ra thế.
– Anh cười à? Ông nói. Sao anh không kêu lên?
– Tôi đang kêu những không ai nghe tiếng tôi cả. Gơrebê đáp lại.
* * *
Anh đã trở lại quảng trường. Ánh sáng chói lọi làm anh lóa mắt. Vôi vữa trắng tinh lóng lánh. Anh đi thong thả qua quảng trường. Anh có cảm giác của người vừa nghe phổ biến quyết định của tòa án sau nhiều cuộc tranh luận dài mà không bận tâm đến việc mình được tha hay bị tội. Bây giờ thì đã quá muộn rồi; anh đã tìm thấy được cái mà anh đi tìm trong kì nghỉ phép này; bây giờ anh biết rằng đó là sự tuyệt vọng và anh không tìm cách chống lại nó.
Anh ngồi một lát trên chiếc ghế dài, bên một hố bom. Anh thấy thoải mái và trống rỗng, anh không sao nói được là anh có thật sự đau khổ về việc đó không. Anh đã suy nghĩ nhiều rồi. Anh không còn gì để suy nghĩ nữa. Anh ngả đầu về sau, nhắm mắt lại và cảm thấy ánh nắng làm rát mặt mình. Anh không cảm thấy gì khác hơn. Anh không cựa mình, thở thật sâu và tận hưởng nắng ấm tự nhiên và êm dịu không hề biết công bằng hay bất công.
Một lát sau, anh lại mở mắt… Quảng trường lại hiện ra, sáng sủa và rực rỡ. Một cây ti-ơn to đứng sững trước một căn nhà đổ. Cành cây doãng ra vươn lên trời như những ngón của một bàn tay khổng lồ. Vài đám mây trắng bồng bềnh trên trời xanh ngắt. Tất cả bóng lên, óng ả, mới mẻ như sau một trận mưa rào. Đó là cuộc sống mạnh mẽ tự tin ở mình, không có vấn đề thắc mắc, không buồn rầu, không tuyệt vọng.
Gơrebê đón nó vào trong anh, như một câu trả lời không phải nhòa được, sâu sắc hơn tất cả các câu hỏi và các lời nói. Câu trả lời anh đã được nghe nhiều lần rồi, khi cái chết đã lướt qua anh, khi hy vọng tràn ngập trong người anh, đã xua đuổi hết sợ sệt, chờ đợi và lãng quên, nhận chìm hết mọi lí lẽ, mọi ý nghĩ, dưới một lớp sóng mạnh vô cùng.
Anh đứng dậy, đi đến cây ti-ơn, giữa đống gạch đổ và những căn nhà. Anh cảm thấy anh đang chờ đợi. Trong người anh, tất cả đều chờ đợi. Anh đợi buổi chiều, như một sự hưu chiến.
[66] Danh từ chỉ người Nga cũng như danh từ I-ăng-ki chỉ người Mỹ, Bốtsơ chỉ người Đức.
[67] Những bức họa in của xứ Vâyma được in lại qua một bản vẽ bằng axit, sản phẩm đặc biệt của thành phố Vâyma, thủ phủ tỉnh Thurinhghen, hiện thuộc lãnh thổ Cộng hòa dân chủ Đức.
[68]Theo lịch sử giáo hội thiên chúa thì những người theo đạo thiên chúa ở Rôm vào đầu thế kỷ thứ nhất công nguyên phải sống lén lút trong hầm mả ở vùng lân cận thành Rôm để tránh sự khủng bố của các bạo chúa rô-manh và dân chúng hồi đó.
[69] Kinh Thánh