← Quay lại trang sách

Chương 16

Sáng chủ nhật, Gơrebê trở lại phố Haken. Anh thấy có cái gì khác trong căn nhà đổ. Cái bồn tắm đã biến mất, khoảng cầu thang còn lại cũng vậy. Một lối đi hẹp đã được mở dọc bức tường đổ để vào sân sau của căn nhà. Một toán người đi dọn dẹp chắc đã bắt đầu làm việc ở đây.

Gơrebê theo con đường nhỏ qua sân nhà, vào một căn phòng đầy vôi và gạch. Anh nhận ra trước đây là phòng giặt của nhà anh. Anh chú ý đến một lối nhỏ, tối om. Anh đánh một que diêm lên soi và đi vài bước vào trong.

–- Anh làm gì ở đây thế? Ra ngay đi. Chợt có tiếng người quát sau lưng anh.

Anh quay lại. Bóng tối làm anh không trông thấy gì. Anh đi trở ra. Một người đàn ông đã đứng chờ bên ngoài. Người đó chống đôi nạng dưới nách và khoác một chiếc áo ca-pốt nhà binh ngoài bộ thường phục của y.

– Nhà tôi ở đây, Gơrebê nói. Còn ông?

– Chỉ có tôi ở đây thôi, ngoài ra không còn ai cả. Anh đến đây làm gì? Ăn cắp hả?

– Anh đừng nóng thế, trông thấy đôi nạng và cái áo ca-pốt, Gơrebê bình tĩnh nói. Bố mẹ tôi ở đây từ trước khi có ném bom. Tôi cũng ở đây từ trước khi bị động viên. Thế đã đủ chưa?

– Nói thì dễ lắm.

Gơrebê nắm vai người tàn tật đó, khẽ gạt sang bên và đi ra. Bên ngoài, anh thấy một người đàn bà và một đứa bé đi tới. Một người đàn ông vai vác cuốc theo sau. Cả bọn vây quanh anh.

– Có chuyện gì thế, Ốttô? Người mang cuốc hỏi người cụt chân.

– Tôi tóm được ông tướng này lảng vảng ở đây. Anh ta nói trước bố mẹ anh ta ở nhà này.

Người mang cuốc cười gằn. – Rồi sao nữa?

– Có thế thôi. Gơrebê nói.

– Mày chỉ biết nói thế thôi, phải không? Hắn giơ cuốc lên. Cút đi ngay! Tao đếm đến hai. Sau tao phang cho đấy.Một này…

Hắn không có thì giờ đếm đến hai. Nắm đấm của Gơrebê đã trúng vào giữa mặt hắn. Hắn ngả ngửa ra sau. Gơrebê cầm lấy cuốc.

– Tao thích cái này hơn, anh nói. Bây giờ thì gọi cảnh sát lại đây, nếu mày muốn. Nhưng tao chắc là mày cũng chẳng thích đâu.

Người kia từ từ bò dậy, lấy tay áo chùi mặt đầy máu.

– Đừng làm thế nữa nghe, Gơrebê nói. Bọn Phổ đã luyện cho tao đánh nhau tay không… Bây giờ thì các anh nói cho tôi biết các anh làm gì ở đây?

Người đàn bà bước lên.

– Chúng tôi ở nhà này. Đấy là tội phạm chắc?

– Không. Còn tôi, tôi đến đây vì bố mẹ tôi ở đây. Đấy cũng là tội phạm hẳn?

– Chứng cớ đâu? Người cụt nói.

– Không cần chứng cớ. Đây không còn gì để ăn cắp.

– Đối với kẻ không còn gì thì thế nào cũng có.

– Đối với tôi thì không, tôi được về phép và vài ngày nữa, tôi lại phải ra mặt trận. Các anh có thấy thư tôi để ở trước cửa không? Chính tôi đi tìm bố mẹ đấy.

– Ra anh đấy à? Người tàn tật hỏi.

– Phải, tôi đấy.

– Nếu thế lại là chuyện khác. Anh bạn ạ, nếu chúng tôi có đa nghi thì anh cũng hiểu cho. Chúng tôi bị nạn và chúng tôi tạm trú ở đây. Thế nào cũng phải tìm chỗ trú chứ, phải không?

– Các anh dọn dẹp tất cả chỗ này đấy à?

– Một phần thôi. Có người giúp chúng tôi.

– Ai?

– Anh em bạn thân có dụng cụ.

– Các anh có thấy người chết nào dưới đống gạch không?

– Không.

– Chắc chắn là không chứ?

– Không, không đâu, chúng tôi thì không. Có thể là người ta đã mang đi trước khi chúng tôi đến, còn chúng tôi không thấy gì cả.

– Tôi chỉ muốn biết có thế thôi, Gơrebê nói.

– Đấy không phải là lý do để đánh vỡ mặt người ta ra thế, người đàn bà nói.

– Chồng chị đấy à?

– Không việc gì đến anh. Không phải chồng mà là anh ruột tôi. Bây giờ anh ấy đang bị chảy máu đấy.

– Chảy máu mũi thôi.

– Cả máu răng nữa.

Gơrebê đưa cuốc lên.

– Thế cái này? Anh ta định dùng làm gì vậy?

– Anh ấy đã đánh anh đâu?

– Thưa với chị, Gơrebê nói, tôi đã học được rằng không bao giờ nên đợi cho những lời đe dọa trở thành sự thật.

Anh vứt cái cuốc ra tận xa, trên đống gạch. Những người đó đưa mắt theo dõi anh. Đứa bé chạy xô ra để nhặt cuốc nhưng mẹ nó giữa lại. Gơrebê nhìn chung quanh. Anh thấy cái bồn tắm để ở gần túp lều. Chắc cầu thang gác đã được chẻ ra làm củi. Những vỏ đồ hộp, mắc áo, những chiếc soong bẹp méo mó, những mảnh vải và đồ đạc gẫy nát nằm ngổn ngang trên đống gạch vụn. Gia đình này đã đến đây, dựng lên túp lều, và rõ ràng là họ đã coi tất cả những cái gì còn dùng được trong căn nhà đổ này là của riêng của họ, dùng được trong căn nhà đổ nhà là của riêng của họ. Cái đó không sao. Cuộc sống cứ tiếp tục. Đứa bé có vẻ khỏe mạnh. Những căn nhà đổ lại có người ở. Đành vậy thôi.

– Các anh dọn dẹp mau nhỉ. Gơrebê nói.

– Bắt buộc phải làm mau chứ, người cụt nói. Khi không có nhà để ở thì…

Gơrebê sắp sửa đi, lại hỏi thêm.

– Các anh có thấy một con mèo không? Một con mèo đen khoang trắng.

– Con Rôda của mình à? Đứa bé nói.

– Không, chúng tôi không thấy con mèo nào cả, người đàn bà vội cướp lời.

Gơrebê bỏ đi. Chắc còn nhiều gia đình nữa trong túp lều này. Nếu không sao dọn dẹp được nhanh thế, trừ khi có một toán chuyên đi dọn dẹp đến giúp họ. Bây giờ người ta thường cho từng đoàn người bị giam trong các trại tập trung đi dọn dẹp trong thành phố.

Anh rảo bước. Không hiểu sao, anh bỗng cảm thấy mình nghèo đi.

Anh đến một dãy phố còn nguyên vẹn, cửa kính các tiệm buôn cũng không bị vỡ. Anh bước đi, đầu óc trống rỗng, chợt anh sửng sốt dừng lại. Có người đi ngược lại anh và anh nhận ra đó là hình ảnh của chính bản thân anh do một tấm gương của một hiệu may phản chiếu lại. Anh có cảm giác kỳ lạ là đang đứng trước chính bản thân mình, và nếu anh tránh sang bên làm hình ảnh đó mất đi thì đời sống anh cũng bị đe dọa.

Anh đứng lại và nhìn mình trong tấm gương đã mờ và có vết lốm đốm. Hố mắt anh như hai lỗ sâu trên khuôn mặt trông như không có mắt. Anh bỗng thấy một cảm giác lạnh lùng và xa lạ xâm chiếm lấy anh. Đây không phải là một sự hoảng hốt về thể chất, là tiếng kêu di truyền bảo tồn sự sống tập trung sinh lực lại để chạy trốn, chống cự lại hay cảnh giác chờ đợi, đó là một nỗi sợ hãi bình lặng cứ len lỏi vào anh hình như không phải của con người, một mối lo vô hình, không cần phải cố gắng cũng chế ngự được nó, mối lo còn gây trong anh sự trống rỗng cứ lấn dần làm tê liệt cả máu xương, da thịt lẫn cuộc sống. Hình ảnh vẫn không động đậy và anh chờ cho nó mất đi, cho những đường viền của nó nhòa dần, cho cái động cơ vô hình đang hoạt động trong nó kéo nó ra khỏi cái hình thù chật hẹp và ngắn ngủi được gọi là Ernest Gơrebê trong một thời gian ngắn, và sẽ nộp nó cho nơi mình phủ, một nơi không phải chỉ là cõi chết mà hơn thế nữa, còn là sự kết thúc của cái tôi, sự tan rã, sự ly khai trong cảnh quay cuồng thác loạn của những nguyên tử, nơi hư không.

Anh chần chừ. Anh nghĩ, cái gì sẽ còn lại? Sau khi anh mất đi thì cái gì sẽ còn lại? Không còn gì cả. Không còn gì ngoài một kỷ niệm mơ hồ trong trí nhớ của một vài người, của bố mẹ anh nếu bố mẹ anh còn sống, của hai hay ba người bạn, có lẽ của Elidabét nữa- và được bao nhiêu lâu? Mắt anh không rời khỏi tấm gương. Anh cảm thấy hình như anh đã trở nên nhẹ bỗng, như chỉ còn là một cái bóng bằng giấy mỏng manh, trong suốt đang bị một cơn gió thổi bay, một bì thư đã mất ruột. Cái gì sẽ còn lại? Tìm ở đâu ra một điểm tựa, bỏ neo ở đâu, làm một cái gì bền vững để có thể lưu lại một dấu vết của mình?

– Ernest, có người gọi sau lưng anh.

Anh giật mình quay lại. Một người què chỉ còn một chân, đứng chống nạng nhìn anh. Thoạt tiên Gơrebê nghĩ đến người cụt ở phố Haken, rồi anh nhận ra CácMútdích, một bạn học cũ.

– Các! Cậu đấy à? Anh nói. Mình không ngờ lại gặp cậu ở đấy.

– Tớ về đã lâu. Gần được sáu tháng rồi.

Hai người nhìn nhau.

– Cái này cũng không ngờ nhỉ, phải không? Mút-dich nói.

– Cái gì cơ?

Mútdích giơ đôi nạng lên rồi lại đặt xuống.

– Cái này.

– Ít ra cậu cũng thoát nạn. Mình bắt buộc phải trở ra đấy.

– Tất cả còn tùy ở chỗ đứng để xem xét. Nếu chiến tranh còn kéo dài vài năm, thì đúng là tớ gặp may. Nếu trong sáu tuần lễ nữa, tất cả đều xong xuôi thì tớ lại gặp vận đen.

– Tại sao cậu lại cho rằng tất cả mọi việc đều xong xuôi trong sáu tuần lễ nữa.

– Tớ không biết, đấy chỉ là một giả thuyết.

– Nếu thế thì cậu nói có lý.

– Sao cậu không lại chơi với bọn tớ? Bécman cũng ở với chúng tớ đấy. Nó bị cưa mất hai cánh tay.

– Các cậu ở đâu?

– Bệnh viện thành phố. Phòng những người bị cưa chân tay. Có dịp thì cố đến nhé.

– Được. Mình sẽ đến.

– Chắc không? Ai cũng nói là sẽ đến mà chẳng ai đến cả.

– Có, có, mình cam đoan với cậu mà.

– Thế thì bọn tớ sẽ mừng lắm. Rồi cậu thấy là bọn tớ không buồn. Dù sao thì bọn ở phòng tớ cũng không buồn đâu.

Họ nhìn nhau nhưng tất cả những điều gì có thể nói được thì đã nói ra rồi.

– Thôi, cố gắng nhé, Ernest.

– Cả cậu cũng thế, Các.

Họ nắm chặt tay nhau.

– Cậu có biết là Xibê đã chết rồi không? Mútdích hỏi.

– Không, mình không biết.

– Đã sáu tuần nay rồi. Còn Lainê nữa?

– Mình cũng không biết.

– Lainê và Lingien. Hai thằng cùng bị chết trong một buổi sáng. Bruninh thì hóa điên vì thế đấy. Cậu có nghe tin là Hônman đã bị ghi là mất tích không?

– Không.

– Chính Bécman đã kể với tớ như vậy. Thôi, tạm biệt Ernest và đừng quên đến chơi nhé.

Mútdích chống nạng đi xa dần. Gơrebê nghĩ, hình như nó có điều gì thích thú khi nói đến các bạn đã chết. Có lẽ điều đó an ủi được nó chăng? Anh nhìn theo y. Chân y bị cưa ở ngang đùi. Trước kia Mútdích là người chạy nước rút nhanh nhất lớp. Gơrebê không biết nên thương hại hay ao ước được như y. Mútdích nói đúng, tất cả là tùy thuộc ở tương lai.

* * *

Anh về đến nhà thì Elidabét đang ngồi trên giường, mình khoác một cái áo choàng trắng. Có cuốn một chiếc khăn mặt trên đầu,cô ngồi đợi, bình thản và trầm mặc như một con chim to, trắng muốt, lọt qua cửa sổ vào nhà để nghỉ ngơi chốc lát trước khi tiếp tục bay.

– Em đã dùng hết nước nóng cả tuần rồi, cô nói. Thật là lãng phí. Mụ Lidơ chắc sẽ nổi tam bành lên đấy.

– Mặc cho mụ ta kêu, mụ không dùng nước nóng cũng không sao. Những đảng viên quốc xã chính cống không tắm đâu. Sạch sẽ là tàn tích của bọn đại tư bản Do Thái đấy.

Anh đến gần cửa sổ đứng trông ra ngoài. Trời ảm đảm và đường phố lặng lẽ. Trước mắt anh, một người mặc quần có dải đeo, cánh tay đầy lông, đang ngồi hóng mát và ngáp. Từ một cửa sổ khác vọng ra tiếng đàn dương cầm hòa với tiếng đàn dương cầm hòa với tiếng đàn bài hát ngân nga, Gơrebê ngắm nhìn một lối vào hầm đã được dọn sạch. Anh nghĩ đến mối lo đã bóp thắt lòng anh lúc nãy ở trước tiệm may và anh lại rùng mình. Cái gì sẽ còn lại ở anh? Cần phải để lại một cái gì đây, một cái neo có thể giữ anh lại và giúp anh trở về? Nhưng cái neo nào? Elidabét chăng? Cô đã thuộc về anh chưa? Anh mới biết cô trong một thời gian quá ngắn. Mà anh lại sắp phải ra đi có lẽ đến hàng năm nữa. Cô có quên anh không? Làm thế nào để tự ràng buộc mình với cô ta được? Anh quay lại.

– Elidabét, chúng ta phải lấy nhau đi, anh nói.

– Lấy nhau à? Elidabét cười. Làm thế có lợi gì không, Ernest?

– Thì bởi vì đó là việc vô lý mà. Bởi vì chúng ta mới biết nhau được vài ngày và trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ lại xa nhau, bởi vì chúng ta không biết chúng ta có thể sống chung được với nhau không và trong một thời gian ngắn ngủi như thế, chúng ta không sao có thể biết được điều đó. Vì tất cả những nguyên nhân ấy đấy.

Cô nhìn anh.

– Anh muốn nói là bởi vì cả hai chúng ta đến cô đơn không còn chút hy vọng và không còn gì khác ư?

– Không.

Cô nín lặng.

– Không phải chỉ có thế, anh nói.

– Thế thì tại sao?

Anh nhìn cô. Anh thấy cô đang thở và bỗng nhiên cô trở nên xa lạ đối với anh. Ngực cô thổn thức, mắt cô khác hẳn mắt anh, bàn tay cô khác hẳn bàn tay anh, tư tưởng của cô, cả cuộc đời của cô đều khác… Không bao giờ cô hiểu được anh, nhưng tại sao lại cần phải cô hiểu anh nhỉ? Anh không biết rõ cái nhu cầu phải được người ta hiểu mình bỗng từ đâu mà đến.

– Lấy nhau rồi, em không sợ mụ Lidơ nữa, anh nói. Em là vợ lính, em sẽ được luật pháp che chở.

– Anh tin là thế à?

– Tin chứ - Cô nhìn chằm chằm vào anh làm anh ngượng – Dù sao em cũng hưởng được một món tiền phụ cấp đã.

– Đó không phải là một lý do. Đối với mụ Lidơ, một mình em cũng đủ đối phó được với mụ. Chúng mình lấy nhau? Nhưng làm thế còn phải bao nhiêu giấy tờ, giấy phép, giấy chứng nhận giòng dõi aryen, giấy xét nghiệm trước khi cưới, còn gì em cũng không biết nữa. Thời gian làm những việc đó chúng ta cũng không biết nữa. Thời gian làm những việc đó chúng ta cũng không có. Mất hàng tuần lễ!

Gơrebê nghĩ, mất hàng tuần, sao cô nói đến điều đó dễ dàng thế.

– Những đám cưới trong thời chiến tranh nhanh lắm. Chỉ cần vài ngày thôi. Ở trại người ta kháo vậy đấy.

– Ý nghĩ ấy cũng đến với anh ở trại à?

– Không, mãi sáng hôm nay, anh mới nghĩ thế. Nhưng ở trại, người ta bàn rất nhiều về việc đó. Rất nhiều binh lính lợi dụng kỳ nghỉ phép để lấy vợ. Sao chúng mình lại không làm thế? Khi một người lính ở mặt trận lấy vợ, thì hàng tháng người vợ được hưởng một món tiền phụ cấp, hình nhu hai trăm mác thì phải. Việc gì lại tặng cho Nhà nước món quà ấy? Khi người ta gặp đủ các thứ chuyện khó dễ, tại sao không lợi dụng cái mà ít ra ta cũng có quyền hưởng? Em cần tiền đó mà nhà nước lại xài thay em, đúng không?

– Nhìn ở khía cạnh ấy thì quả là đúng.

– Anh cũng hiểu như thế đấy, Gơrebê nói, nhẹ nhõm hẳn. Hình như còn có một món tiền cho những cặp vợ chồng trẻ vay nữa cơ. Khoảng một nghìn mác. Em không cần phải làm ở xưởng nữa.

– Có chứ, đấy lại là một việc khác. Em có một mình, biết làm gì cho hết ngày?

– Ừ nhỉ.

Gơrebê cảm thấy nỗi tuyệt vọng tràn ngập lòng anh. Anh tự nghĩ, người ta đã làm gì chúng tôi vậy? Chúng tôi hãy còn trẻ, đáng lẽ chúng tôi phải được sống sung sướng bên nhau? Chúng tôi thiết gì đến những cuộc chiến tranh của ông cha chúng tôi?

– Chúng ta lại phải sống cô đơn rồi, anh nói. Nhưng nếu chúng ta lấy nhau, chúng ta sẽ bớt cô đơn đi.

Elidabét lắc đầu.

– Em không bằng lòng à? Anh hỏi.

– Chúng ta sẽ không bớt cô đơn hơn đâu, cô nói, chúng ta sẽ càng cô đơn hơn.

Gơrebê lại nghe thấy tiếng hát của người ca sĩ. Chị ta thôi không ngân nga nữa và chuyển sang một bài tập khác. Chị ta thốt lên những tiếng kêu dài đột nhiên bị ngắt quãng chỉ có những tiếng vang vọng lại.

– Nếu em chỉ sợ có thế thì việc ta lấy nhau có thay đổi gì đâu, anh nói. Ta có thể ly dị khi nào ta muốn.

– Thế thì lấy nhau làm gì?

– Nhưng tặng quà cho nhà nước làm gì?

Elidabét đứng dậy.

– Hôm qua anh có như thế này đâu, cô nói.

– Anh đã khác ở chỗ nào?

Cô khẽ mỉm cười.

– Thôi đừng nói chuyện ấy nữa, anh bằng lòng không? Chúng ta ở bên nhau rồi, còn mong gì nữa?

– Thế là em không muốn à?

– Không.

Anh nhìn cô. Ở cô có một vẻ quả quyết và ngang ngạnh.

– À ra thế, anh nói. Anh bảo đảm với em là những ý định của anh là tốt nhất trên đời đấy.

Elidabét lại mỉm cười nữa.

– Đúng thế, có những trường hợp không nên có những ý định quá tốt. Còn gì uống không anh?

– Còn chai Xlivôvích đây.

– Thứ này của Ba Lan phải không?

– Phải.

– Chúng mình chỉ còn rượu chiến lợi phẩm để uống thôi à?

– Còn một chai kummen nữa. Sản phẩm Đức.

– Thế thì cho em một ly.

Gơrebê đi vào bếp tìm chai rượu. Anh giận dữ với chính mình. Anh ngần ngừ một lát trong bóng tối lờ mờ thoang thoảng mùi thực phẩm trước các đĩa thức ăn và các tặng phẩm của Binđinh. Anh cảm thấy mệt mỏi, trống rỗng và không biết phải làm gì. Anh trở lại phòng.

Elidabét tựa tay vào cửa sổ.

– Sao trời u ám thế, cô nói. Lại sắp mưa, thật đáng tiếc.

– Tại sao?

– Vì đây là ngày chủ nhật đầu tiên của chúng ta. Đáng lẽ chúng mình có thể ra ngoài chơi được. Quanh thành phố, cánh đồng đang nở hoa.

– Em muốn đi à?

– Không, đối với em, chỉ cần mụ Lidơ không có ở đây, là được. Còn anh, phải ngồi suốt ngày ở đây, lại là chuyện khác.

– Không đâu, em ạ. Anh sống ngoài thiên nhiên đã đủ rồi, anh có thể bỏ qua vài ngày cũng không sao. Nói tới thiên nhiên thì anh chỉ ao ước có một căn phòng nhỏ ấm cúng với tất cả đồ đạc còn đứng vững được. Như căn phòng này chẳng hạn. Đó là một sự việc đặc biệt nhất có thể xảy ra với anh đấy. Nhưng nếu em muốn ra ngoài thì chúng mình có thể đi xem chiếu bóng.

Elidabét lắc đầu.

– Nếu thế thì chúng ta không cần phải đi đâu cả, cứ ở đây thôi. Chúng ta mà ra ngoài, ngày sẽ tan nát mất và qua đi rất nhanh. Ở đây, giờ phút sẽ kéo dài hơn.

Gơrebê đến ôm cô trong tay. Anh thấy mắt cô đẫm lệ.

– Vừa rồi, anh làm em buồn à?

– Không, Ernest ạ.

– Chắc anh không được khéo lắm vì em đã phải khóc.

Anh trông qua vai cô xuống phố. Người đàn ông mặc áo sơ mi đã biến đâu mất. Vài đứa bé chơi đánh tràn trong đường hào dẫn vào hầm căn nhà đổ.

– Thôi, chúng ta đừng buồn nữa, anh nói.

Người ca sĩ lại tiếp tục tập. Chị ta bắt vào một bản ca khúc của Gorigơ[74]. Em yêu anh, em yêu anh dù cho thời gian không ngừng trôi và cuộc đời có đen bạc, em vẫn cứ yêu anh, Chị ta gào lên với giọng cao the thé.

– Phải, chúng ta đừng buồn nữa. Elidabét nói.

Buổi chiều, mưa bắt đầu rơi. Trời tối rất sớm và những đám mây đen phủ kín bầu trời. Họ nằm trên giường, không một ánh đèn, cửa sổ mở trước rèm nước rung rinh.

Gơrebê lắng nghe tiếng nước rào rào đều đặn. Anh nghĩ đến thời kỳ mà tất cả mọi vật biến dần dưới một tấm vải liệm bằng bùn đã bắt đầu ở Nga. Vài ngày nữa anh sẽ đến vùi thân ở đó.

– Có lẽ anh đi đi thì hơn? Anh hỏi. Chắc mụ Lidơ cũng sắp về.

– Mặc cho mụ ấy về, Elizabeth uể oải thì thầm. Đã muộn rồi ư?

– Anh không biết, nhưng có thể trời mưa làm mụ về sớm hơn.

– Hoặc muộn hơn, Elizabeth úp mặt vào vai anh và nói.

– Thế nhỡ mụ bị xe chẹt chết thì sao? Được thế thì hay quá.

– Anh không nhân từ chút nào.

Gơrebê đăm đăm nhìn khuôn cửa sổ màu xám.

– Nếu chúng ta lấy nhau, anh sẽ được yên tâm hơn, anh nói.

Elizabeth không nhúc nhích.

– Sao anh muốn lấy em? Cô hỏi. Dù sao anh cũng mới biết em.

– Anh biết em đã khá lâu rồi.

– Bao nhiêu lâu? Mới được vài ngày.

– Không phải vài ngày. Đã hơn một năm rồi. Anh cho thế cũng đủ.

– Sao lại hơn một năm? Không nên tính thời kỳ chúng ta còn bé. Lúc đó xa quá rồi.

– Anh có tính thế đâu. Anh được nghỉ phép hai tuần lễ vì đã ở mặt trận khoảng hai năm. Anh về đây đã gần hai tuần tương đương với mười lăm tháng ở mặt trận. Thế là anh đã biết em hơn một năm gần bằng hai tuần nghỉ phép.

Elizabeth mờ mắt.

– Em không nghĩ đến điều ấy đấy.

– Đó là một ý nghĩ anh mới có. Trời tối và mưa, người ta nghĩ lạ hơn.

– Cần phải tối và mưa à?

– Không, nhưng nó giúp mình suy nghĩ.

– Thế bây giờ anh nghĩ đến điều gì?

– Anh nghĩ rằng nếu có thể dùng bàn tay và cánh tay vào việc khác ngoài việc bắn súng và ném lựu đạn thì thật là tuyệt.

Cô nhìn anh.

– Sao anh không nói với em điều đó, chiều nay.

– Ban chiều, người ta thường có những ý nghĩ thực tế hơn.

– Những ý nghĩ về phụ cấp và tiền cho những cặp vợ chồng trẻ vay.

Gơrebê ngẩng đầu lên.

– Thì cũng đều là một vấn đề, Elizabeth ạ, chỉ có lời nói là khác nhau thôi.

Cô lẩm bẩm nói câu gì, anh không hiểu.

– Đôi khi lời nói rất quan trọng, sau đó cô nói. Ít ra đối với những loại việc này.

– Anh không giữ được thói quen ấy, nhưng rồi em thấy là anh sẽ học được. Hãy để cho anh một ít thời gian nữa.

– Thời gian ư? Cô thở dài – chúng ta có ít quá.

– Phải. Hôm qua chúng ta hãy còn nhiều thì giờ và ngày mai chúng ta sẽ luyến tiếc tất cả thời gian còn lại của chúng ta hôm nay.

Anh nín lặng. Elizabeth gối đầu trên tay anh. Tóc cô tạo thành một vệt sẫm trên gối và bóng nước mưa loang loáng trên mặt cô.

– Anh muốn lấy em nhưng anh có biết đích xác là anh yêu em hay không?

– Làm sao mà biết được điều đó? Có phải vì thế mà không thể sống rất lâu với nhau được đâu?

– Có lẽ, nhưng nếu thế thì tại sao anh lại muốn lấy em.

– Bởi vì anh không thể quan niệm được cuộc sống mà không có em.

Elizabeth lặng thinh một lát.

– Anh có thể thấy rõ ràng việc xảy ra giữa anh với em cũng rất có thể xảy ra giữa anh với một người đàn bà khác không? Cô lại hỏi anh.

Gơrebê nhìn nước mưa giăng một tấm màn xám xịt bên ngoài.

– Có thể việc đó xảy ra với người khác, anh nói. Ai mà biết trước? Nhưng bây giờ sự việc đã xảy ra giữa anh và em thì anh không thể tưởng tượng đến một người nào khác thay em được.

Elizabeth cọ đầu vào cánh tay anh.

– Anh đã biết được cái gì khác rồi đấy. Anh nói không như lúc ban chiều. Vì bây giờ trời đã tối. Anh có nghĩ rằng cả đời em, em cứ phải đợi đến tối mới nói được với anh không?

– Không, anh sẽ học nói cả ban ngày nữa.Và anh sẽ tránh không đả động gì đến món phụ cấp gia đình.

– Nhưng chúng ta cũng không chê nó chứ?

– Chê gì?

– Phụ cấp gia đình.

Gơrebê nín thở một lát.

– Em bằng lòng lấy anh chứ?

– Phải bằng lòng, vì chúng ta quen nhau đã hơn một năm. Vả lại sau này mình vẫn có thể ly dị được phải không?

– Phải.

Cô ôm chặt lấy anh và ngủ thiếp. Anh thức một hồi lâu. Anh nghe tiếng mưa rơi tí tách và bây giờ anh đã biết phải nói những lời gì với người yêu.

[74] Edouard Grieg (1843-1907) nhạc sĩ sáng tác người Na uy, tác giả tác phẩm nổi tiếng, Peer Gynt, những bản trữ tình và những bản nhạc nhảy dân tộc của Na uy.