← Quay lại trang sách

Chương 19

Giấy tờ của anh đâu? Hãy đợi một lát.

Người nhân viên lên mục kỉnh và nhìn Elidbét. Rồi ông ta từ từ đứng dậy và đi ra sau tấm vách gỗ ngăn ghisê với các phòng làm việc.

Gơrebê nhìn theo ông ta rồi quay lại. Lối ra cửa có vẻ bị nghẽn.

– Em ra cửa đi, anh nói khẽ. Chờ ở ngoài ấy. Nếu thấy anh bỏ mũ calô ra, thì đến nhà thầy Pônman ngay lập tức. Đừng lo cho anh, đi nhanh đi, anh sẽ đến tìm em sau.

Elidbét ngập ngừng.

– Đi nhanh lên, anh nóng nẩy nhắc. Có lẽ thằng già này đi kiếm ai đây. Chúng ta không có gì phải lo. Ra ngoài đợi đi.

– Có lẽ hắn chỉ đi tìm giấy tờ thôi.

– Để rồi xem. Anh sẽ nói với hắn là em thấy khó chịu và ra ngoài cho thoáng. Đi nhanh lên!

Đứng trước ghisê, anh nhìn theo cô. Cô quay lại, mỉm cười với anh rồi biến vào đám đông.

– Cô Crudơ đâu rồi?

Gơrebê giật mình. Người nhân viên đã trở ra.

– Cô ấy sắp quay trở lại đây. Tất cả đều hợp lệ chứ?

Người nhân viên gật đầu.

– Bao giờ anh chị định làm lễ cưới?

– Càng sớm càng tốt, tôi không còn nhiều thì giờ. Phép của tôi gần hết rồi.

– Anh chị muốn lấy nhau ngay lập tức cũng có thể được, giấy tờ xong xuôi rồi. Đối với các binh sĩ thì rất nhanh.

Gơrebê thấy giấy tờ ở trong tay người nhân viên. Ông ta mỉm cười. Gơrebê chợt thấy mệt nhoài. Mồ hôi toát khắp người anh.

– Thế là xong cả rồi à? Anh nhắc lại và bỏ mũ ra để lau mồ hôi trán.

– Xong cả rồi, người nhân viên xác nhận. Cô Crudơ đâu?

Gơrebê đặt chiếc calô của anh xuống giá tì tay ở ghisê. Anh tìm Elidbét trong đám đông. Lúc đó anh mới để ý đến chiếc calô trước mặt anh. Anh quên bẵng dấu hiệu hai người đã qui định với nhau.

– Ông chờ một chút để tôi chạy ra tìm, anh nói rất nhanh.

Anh len qua đám đông. Có thể anh sẽ đuổi kịp cô ở ngoài đường. Nhưng trước khi đến cổng, anh đã thấy cô đứng sau một cái cột. Cô bình thản đợi.

– May quá, em còn đây, anh reo lên. Xong cả rồi, Elidabét.

Họ cùng quay lại. Người nhân viên đưa giấy cho cô.

– Chị là con gái bác sĩ Crudơ? Ông ta hỏi.

Gơrebê nín thở.

– Tôi có quen ông nhà, người nhân viên nói.

Êlidabét nhìn ông ta.

– Ông có tin gì về ba tôi không? Một lát sau, cô hỏi.

– Có lẽ cũng như chị thôi. Chị có biết gì không?

– Không?

Người nhân viên bỏ kính ra. Ông ta có đôi mắt xanh nhạt và cận thị.

– Mong rằng mọi việc sẽ kết thúc êm đẹp, ông ta đưa tay bắt tay Êlidabét và nói. Chính tôi đã tự tay đi lo những việc này đấy. Chị có thể cưới ngay hôm nay. Ngay lập tức cũng được, nếu chị muốn.

– Được, ngay lập tức, Gơrebê nói.

– Chiều nay nhé, Êlidabét nói. Hai giờ, có được không ạ?

– Tôi sẽ lo cho, người nhân viên nói. Phải đến phòng thể dục, bây giờ sở hộ tịch ở đây.

– Cảm ơn ông.

Họ dừng lại trước cửa.

– Sao không cưới ngay lập tức? Gơrebê hỏi. Khi nào xong xuôi cả, anh mới yên tâm.

Elidabét mỉm cười.

– Em phải có thì giờ để chuẩn bị chứ, Ernest. Anh không hiểu à?

– Hiểu một nửa thôi.

– Một nửa là đủ rồi. Hai giờ kém mười lăm lại đón em nhé.

Gơrebê ngập ngừng.

– Cuối cùng thì sao mà đơn giản thế! Sau anh nói. Thế mà anh cứ đi lo chuyện xấu nhất! Bây giờ anh mới tự hỏi xem tại sao vậy! Chắc em thấy anh tức cười lắm nhỉ?

– Không.

– Có, thế nào cũng có một chút chứ.

Elidabét lắc đầu.

– Người nào hễ cứ khuyên ba em phải đề phòng là ba em đã thấy tức cười rồi. Chúng ta gặp may, có thế thôi, Ernest.

Đi được vài phố, anh thấy có một tiệm thợ may. Một người đàn ông, giống như một con kăngguru[79]

ngồi trong đó, trên đùi y có một bộ quần áo lính.

– Tôi có thể để quần ở đây để ông tẩy dùm, được không?

Người đó ngước mắt lên.

– Tôi không phải là thợ nhuộm, tôi là thợ may, y nói.

– Tôi biết rồi, nhưng tôi còn muốn ủi quần áo.

– Quần áo ông đang mặc à?

– Phải.

Người thợ may vừa đứng dậy vừa lẩm bẩm. Y cúi xuống xem vết ố ở quần.

– Không phải máu đâu, dầu ôliu đấy. Gơrebê giải thích. Dùng bendin là nó đi ngay thôi.

– Nếu ông biết rõ thế thì ông tự làm đi! Bendin không ăn thua đâu.

– Có thể, chắc ông phải biết hơn tôi. Trong lúc chờ đợi ông có gì cho tôi mặc tạm được không?

Người thợ may biến ra sau tấm rèm và trở ra với một cái quần kẻ ô vuông và một áo ngoài trắng.

– Phải chờ bao nhiêu lâu? Gơrebê hỏi. Tôi cần bộ quân phục này để cưới vợ đấy.

– Một giờ.

Gơrebê thay quần áo.

– Một giờ nữa nhé!

Người thợ may nhìn anh vẻ hoài nghi. Rõ ràng là y tưởng người khách này sẽ đợi ở trong tiệm của y.

– Tôi sẽ để lại bộ quân phục của tôi để làm bằng đấy. Gơrebê nói, ông không sợ tôi đi mất đâu.

Không ngờ, người thợ may nở một nụ cười.

– Anh bạn ơi, bộ quân phục của anh thuộc về nhà nước. Nhưng anh cứ đi đi. Anh cũng nên cắt tóc. Nếu cưới vợ thì thế không phải là xa xỉ đâu.

– Ừ, phải.

Gơrebê vào một tiệm cắt tóc. Một người đàn bà gầy trơ xương đang bận tíu tít bên các khách hàng.

– Chồng tôi ở ngoài mặt trận, bà ta nói. Trong lúc chờ đợi, tôi thay nhà tôi. Ông cạo râu phải không?

– Tôi cắt tóc. Bà biết cắt tóc chứ?

– Trời đất ơi! Tôi có biết cắt tóc không! Bây giờ tôi không còn biết gì ngoài việc đó! Tôi cũng có thể gội đầu cho ông. Tôi còn thuốc gội tốt lắm.

– Được, thì gội đầu.

Bà thợ cạo lấy hết sức ra làm việc. Bà ta cắt tóc cho khách trong nháy mắt và gãi mạnh đầu anh dưới một lớp bọt dầy.

– Ông có dùng dầu chải tóc không? Hàng Pari đấy.

Trông vào gương, Gơrebê giật mình. Tai anh như bị tách rời ra khỏi thái dương đã cạo trắng.

– Chải đầu chứ? Người đàn bà hỏi lại với vẻ quyết định.

– Mùi nó ra sao? Gơrebê sực nhớ đến thứ muối của Anphôn, hỏi.

– Nó ngửi như mùi dầu chải tóc ấy, ông còn muốn gì nào?

Gơrebê đưa cái bình vào mũi. Dầu chải tóc chỉ có một mùi mỡ hôi. Thời đại chiến thắng rồi rào đã qua rồi. Anh đưa tay lên đầu. Một túm tóc ngoan cố dựng đứng trên đỉnh đầu.

– Được, nhưng đừng cho nhiều quá, anh nói.

Anh trả tiền rồi đi ra.

– Anh đến sớm quá, thấy anh vào, người thợ may cau có.

Gơrebê không phản đối. Anh ngồi xuống và trông người thợ may đang ủi quần áo của anh. Không khí nóng bức làm anh buồn ngủ. Chiến tranh bỗng trở nên xa xôi. Những con ruồi bay vù vù, tiếng bàn ủi lướt trên vải ẩm kêu rin rít, và trong gian hàng nhỏ bé này bỗng toát ra một cảnh làm ăn thật thanh bình, ít thấy.

– Tôi chỉ làm được đến thế này thôi.

Người thợ may đưa cho Gơrebê cái quần đã ủi cứng và nóng. Vết bẩn gần như hoàn toàn mất hẳn. Gơrebê nói “Tốt lắm”. Cái quần tỏa ra mùi thuốc tẩy nồng nồng. Gơrebê vội thay quần áo mà không nói gì.

– Ai cắt tóc cho anh? Người thợ may hỏi anh.

– Một người đàn bà, chồng bị động viên.

– Trông như anh cắt tóc lấy vậy. Đứng yên nhé.

Người thợ may lấy cái kéo to cắt rơi một mớ tóc ngoan cố.

– Như thế này còn khá hơn một chút.

– Tôi phải trả ông bao nhiêu?

– Không phải trả gì cả hay một ngàn mác. Thôi, không trả gì nhé, được chứ? Quà tặng đám cưới đấy.

– Cám ơn ông lắm. Ông có biết ai bán hoa trong khu này không?

– Anh hãy đến phố Spitchéc, anh sẽ thấy có người bán hoa ở đó.

Cửa hàng Spitchéc đã mở. Hai người đàn bà đang tranh cãi với người bán hàng về giá tiền một vòng hoa tang.

– Hễ có những quả thông thật là thế nào cũng phải đắt hơn một chút, chị bán hàng giải thích.

Một trong hai người đàn bà nhìn người bán hàng với vẻ tức giận. Cặp má phính của bà ta rung lên.

– Thật là cắt cổ người ta! Bà ta lẩm bẩm. Thôi đi, Minna, đi tìm ở hàng khác khôi.

– Bà cứ để đấy, bây giờ không thiếu khách mua đâu! Chị bán hàng nói với vẻ bực dọc.

– Với giá này?

– Thư với hai bà, phải ạ! Tối nào tôi dọn hàng về là chẳng còn vòng hoa nào cả!

– Chị là người đầu cơ chiến tranh!

Hai người đàn bà bỏ đi vênh váo. Chị bán hàng hít hơi như định đối đáp lại một lần nữa, nhưng thấy Gơrebê, chị ta quay ngay lại.

– Thưa ông, ông cần gì? Một vòng hoa hay hoa rời để viếng? Thưa ông, hàng chúng tôi không to nhưng chúng tôi có cành thông xếp khéo lắm.

– Không phải cho đám tang, Gơrebê nói.

– À, ra thế? Chị bán hàng sững sờ nói nhỏ.

– Tôi cần hoa.

– Hoa à? Chúng tôi có hoa huệ đẹp lắm.

– Hoa huệ thì không được, dùng cho đám cưới mà.

– Hoa huệ hợp với đám cưới lắm chứ, thưa ông! Hoa đó tượng trưng cho sự ngây thơ và trinh tiết.

– Có thể, nhưng chị có hoa hồng không?

– Hoa hồng vào mùa này ư? Kiếm đâu ra được của ấy? Bây giờ, ở tất cả các nhà kính, người ta đều trồng rau!

Gơrebê đi quanh quầy hàng và cuối cùng anh tìm ra một bó hoa thủy tiên khuất sau một vòng hoa hình thập ngoặc.

– Đây, cho tôi lấy bó hoa này.

Chị bán hàng cầm bó hoa vung lên cho hết nước.

– Thưa ông rất tiếc là chúng tôi phải bọc hoa của ông bằng giấy báo, tôi chỉ có thế.

– Không sao.

Gơrebê trả tiền rồi đi ra. Cầm bó hoa trong tay, anh cảm thấy khó chịu ngay. Những người đi đường nhìn anh như ngạc nhiên và trách móc. Anh hướng bó hoa xuống đất. Một lát sau anh tìm cách dấu bó hoa dưới cánh tay. Lúc ấy anh mới để ý đến tờ báo bọc bó hoa. Những bông hoa nhún nhẩy nhịp nhàng theo bước chân đi, ở trên là tấm ảnh một người đang hò hét. Đó là viên chánh án một tòa án. Bài viết đăng việc xử tử hình bốn công dân Đức pham tội nghi ngờ chiến thắng của Tổ quốc. Máy chém đã bị bỏ đi, không dùng đến vì nhân đạo quá đáng, người ta dùng búa để chặt đầu họ. Gơrebê vò tờ báo ném xuống rãnh.

Người nhân viên ở tòa thị chính đã không lầm; bây giờ sổ hộ tịch ở phòng tập thể dục của trường học thành phố. Viên hộ lại ngồi dưới một hàng dây thừng trơn và thừng có nút được móc lên tường. Tất cả trang trí của gian phòng rộng này chỉ có một bức ảnh Hitle và một cây thập ngoặc với con phượng hoàng Đức [80].

Còn phải đợi. Một người lính đã đứng tuổi được vào trước họ. Một bà to béo trên áo có cài một cái trâm hình chiếc thuyền buồm cùng đi theo người đó. Bác lính có vẻ rất cảm động; người đàn bà luôn mỉm cười.

– Những người làm chứng của ông bà đâu? Viên hộ lại nói.

Bác lính ấp úng: bác không đưa những người làm chứng đến.

– Tôi tưởng đám cưới trong chiến tranh có thể không cần người làm chứng. Mãi sau bác mới nói.

– Lại thế nữa cơ! Dù sao cũng phải có một số hình thức tối thiểu chứ! Viên hộ lại thốt lên.

Bác lính quay lại phía Gơrebê.

– Anh có thể làm chứng cho tôi được chứ, cả anh và chị? Bác hỏi. Chỉ cần ký thôi.

– Được rồi, và sau đó anh cũng giúp chúng tôi việc ấy nhé. Tôi cũng không đưa người làm chứng đến.

– Cứ làm như người ta còn đầu óc nghĩ đến việc đó!

– Người dân nào cũng phải nghĩ đến bổn phận công dân của mình, viên hộ lại đọc luật vanh vách như y cảm thấy bị xúc phạm vì phải làm hôn thú trong thời chiến tranh. Thế các anh có bao giờ ra mặt trận mà không mang theo súng không?

Bác lính già ngây người nhìn hắn.

– Dù sao thì người làm chứng cũng không phải khẩu súng, bác cãi.

– Tôi không bao giờ nói như vậy. Đây là để so sánh. Thế những người làm chứng của anh chị đâu? Viên hộ lại giải thích với vẻ bề trên.

– Anh và chị này.

Viên hộ lại nhìn chằm chằm Gơrebê ra vẻ quở trách. Rõ ràng giải pháp đơn giản thế làm y chưng hửng.

– Giấy căn cước của anh đâu? Y hỏi.

– Đây, Gơrebê nói. Chúng tôi cũng đến làm hôn thú đây.

Viên hộ lại cầm giấy tờ, mồm lẩm bẩm điều gì. Y ghi tên họ Gơrebê và Elidabét vào sổ.

– Ký vào đây.

Cả bốn người cùng ký.

– Tôi nhân danh Quốc trưởng, xin chúc mừng anh chị. Viên hộ lại nói với cặp vợ chồng mới. Sau y hỏi Gơrebê – Những người làm chứng của anh đâu?

– Ông bà này đây, Gơrebê chỉ bác lính già và vợ bác rồi nói.

Viên hộ lại lắc đầu và tuyên bố.

– Tôi chỉ cho phép một người làm chứng thôi.

– Sao vậy? Chúng tôi đã làm chứng cho ông bà này được cơ mà?

– Phải, nhưng lúc đó, anh chị còn độc thân. Hai người bây giờ đã là vợ chồng, mà luật pháp bắt buộc những người làm chứng không được phụ thuộc vào nhau.

Gơrebê không hiểu viên hộ lại trêu tức anh hay y tuân theo pháp luật.

– Ở đây có ai có thể là người làm chứng thứ hai cho tôi được không? Anh hỏi. Một nhân viên nào đó chẳng hạn.

– Đó không phải là việc của tôi, viên hộ lại nói. Nếu anh không có người làm chứng, anh không lấy vợ được.

Gơrebê nhìn quanh. Anh thấy có một người đàn ông tóc hoa râm, có vẻ đã nghe rõ chuyện, đi tới.

– Nếu anh cần người làm chứng, tôi xin sẵn sàng, người đó nói.

– Giấy tờ của ông đâu? Sau đó y ra lệnh.

Người mới đến bình tĩnh rút trong túi ra một tờ giấy thông hành và đặt xuống bàn. Viên hộ lại cầm lên với vẻ chán chừng và mở ra. Y bỗng giật nẩy người và hô the thé. “Hitle muôn năm! Thưa ngài đại tá”[81]

– Hitle muôn năm! Viên đại tá đáp lại. Và bây giờ thì anh đừng giở cái trò hạch xách ấy ra nhé! Anh đối xử với các binh sĩ như thế mà không biết xấu hổ à?

– Thưa ngài đại tá, rõ! Mời ngài ký giúp vào đây.

Gơrebê bấy giờ mới biết người làm chứng thứ hai của anh là đại tá SS Hinđơbrăng. Người làm chứng thứ nhất là bác binh nhì Klốt. Hinđơbrăng bắt tay Gơrebê và Elidabét rồi đến bắt tay Klốt và vợ bác ta. Viên hộ lại biến vào phòng thay quần áo và trở ra với hai cuốn “Cuộc chiến đấu của tôi.” Y đưa cho mỗi cặp vợ chồng một cuốn và giải thích vẻ quan trọng.

– Nhân danh Đức Quốc trưởng, xin tặng các ông bà.

Rồi trông theo Hinđơbrăng đi xa dần, y đổi giọng và nói. “Bây giờ họ lại còn cải trang làm dân nữa!”

Cả bốn người mới cưới đi quanh con ngựa gỗ và đôi xà đơn để ra cửa.

– Bao giờ anh lại đi? Gơrebê hỏi Klốt.

– Mai. Bác lính nháy mắt. Chúng tôi định lấy nhau lâu rồi. Tội gì tặng quà cho nhà nước. Vạn nhất tôi có mệnh hệ nào thì ít ra Mari cũng không bị đói rách phải không?

– Phải rồi.

Klốt mở túi dết ra.

– Anh đã giúp chúng tôi một việc khá lắm. Đây là một miếng dồi ngon, anh ăn thử rồi sẽ biết mùi. Đừng nói gì cả, cứ cầm lấy. Tôi định đem đến cho thằng cho hộ lại. Nhưng cái thằng khốn ấy thì anh cũng thấy đấy!

– Nhất định không cho hắn được! – Gơrebê cầm lấy khúc dồi. – Đây, anh bạn, anh hãy cầm lại, cuốn sách này. Tôi chẳng có gì để mừng cho anh.

– Nhưng, hắn cũng cho mình một cuốn rồi!

– Không hề gì, như vậy là anh có hai cuốn. Một cuốn cho anh, một cuốn cho chị.

Klốt so sánh hai cuốn kinh thánh của đảng nadi ở trên tay.

– Giấy không phải là tồi, bác ta nhận xét. Cậu không muốn giữ lại thật?

– Tôi cần gì. Ở nhà, chúng tôi đã có một cuốn bìa da gáy vàng rồi.

– Thế thì, tôi nhận vậy! Thôi chào cậu nhé!

– Chào anh!

Gơrebê đuổi theo Elidabét.

– Anh không nói gì với Anphôn vì anh không muốn hắn làm chứng cho chúng mình, anh nói với cô. Anh không muốn có tên một thằng đại úy SA trong sổ gia đình của chúng mình. Thế mà lại có tên một thằng đại tá SS thay vào đó! Những ý định tốt đưa mình đến cảnh ấy đấy!

Elidabét cười.

– Phải, nhưng anh đã đổi cuốn kinh thánh của chế độ lấy một khúc dồi. Cái nọ đã bù lại cái kia.

Họ đi qua quảng trường trước chợ. Người ta đã đặt trả lên bệ, bức tượng Bitsmắc nhưng cũng chỉ còn có đôi chân. Một đàn chim bồ câu bay quanh nhà thờ thánh Mari. Gơrebê nhìn Elidabét. Anh nghĩ, bình thường ra đáng lẽ mình phải là người sung sướng nhất mới phải. Nhưng anh cảm thấy ngạc nhiên hơn là sung sướng.

Họ nằm sát bên nhau tại một khoảng trống trong khu rừng ở ven thành phố. Tiết xuân phảng phất trong không gian. Hoa ngọc trâm và hoa viôlet vươn qua đám rêu. Một làn gió nhẹ bốc lên. Elidabét bỗng đứng dậy.

– Em trông thấy gì ở đàng trước thế kia nhỉ? Hình như có một động tiên vậy, cây cối đầy những tóc tiên! Có phải em mê không?

– Không, em không mê đâu, Gơrebê nói.

– Thế là cái gì vậy?

– Thiếc hay là nhôm cắt thành những sợi nhỏ. Gần giống như giấy bọc người ta dùng để bọc sôcôla ấy.

– Phải, cây nào cũng đầy cả từ ngọn đến gốc. Ở đâu ra những thứ ấy thế?

– Máy bay đổ xuống đấy. Hình như thứ đó làm hỗn loạn các làn sóng điện. Làm thế để địch không sao dò ra được vị trí máy bay, hay đại loại là thế. Những sợi thiếc, khi từ từ rơi trong không trung gây ra những nhiễu loạn về điện tử. Em cũng thấy đấy, anh có biết gì đâu.

– Đáng tiếc nhỉ, Elidabét nói. Trông như những cây Nôen. Mà vẫn đang còn chiến tranh! Thế mà chúng ta tưởng như xa nó lắm rồi.

Họ không thể rời khỏi cảnh đẹp lạ lùng và thần tiên này. Những cây mọc ven khoảng rừng trống nhẹ rung, theo làn gió thoảng, những mớ tóc dài ánh bạc mà tia sáng mặt trời biến thành những bụi cây sáng lóng lánh. Đêm rùng rợn, rền vang những tiếng kêu thét đau thương, đêm chết chóc và đổ vỡ đã phủ lên những cây này cảnh trang trí lặng lẽ và mỏng manh, tự nó lại gợi lên hàng loạt những kỷ niệm cổ xưa, những câu truyện thần tiên, những đêm thao thức và hiền hòa quanh nội.

Elidabét ghì chặt Gơrebê.

– Chúng ta hãy quên chiến tranh đi, cô nói, hãy tưởng tượng là những cành cây này được trang trí cho chúng ta…

Gơrebê rút ở túi áo capốt của anh ra cuốn sách mà Pônman đã cho anh.

– Chúng ta không thể đi chơi trăng mật được, Elidabét ạ, nhưng Pônman có cho anh cuốn sách này, một cuốn sách ảnh về Thụy Sĩ. Sẽ có một ngày chúng ta sang Thụy Sĩ và lúc đó chúng ta sẽ tìm thấy ở đấy tất cả những gì mà hiện nay, chúng ta không có.

– Thụy Sĩ? Có phải anh đã nói với em ràng đó là đất nước của ánh sáng không?

Gơrebê mở cuốn sách.

– Bây giờ thì không còn như thế nữa thì phải. Ở trại anh nghe nói là chúng ta đã ra lệnh cho Thụy Sĩ phải che kín đèn của họ. Họ đã phải nhượng bộ.

– Tại sao lại có cái tối hậu thư ấy?

– Khi chỉ có mình chúng ta bay qua nước đó, thì chúng ta không phản đối việc Thụy Sĩ thắp đèn sáng. Nhưng bây giờ các máy bay ném bom địch cũng bay qua Thụy Sĩ. Họ lấy các thành phố sáng chưng của Thụy Sĩ làm điểm chuẩn.

– Thế là đảo ánh sáng cũng tắt hết đèn rồi ư?

– Phải, nhưng ít ra chúng ta còn có thể tin chắc rằng nếu sau chiến tranh chúng ta có sang Thụy Sĩ, thì đất nước ấy vẫn còn nguyên vẹn. Đất nước ấy sẽ nguyên vẹn như các bức hình trong cuốn sách này. Nếu là một cuốn sách nói về nước Pháp hay Anh thì lại khác hẳn.

– Cả nước Đức cũng vậy.

– Phải, cả nước Đức cũng vậy.

Họ dở từng tờ một.

– Núi này, Elidabét nói. Ở Thụy Sĩ không có gì khác ngoài núi ư? Không có nắng ấm, không có những vùng đầy ánh mặt trời và hoa ư?

– Có chứ, em trông Thụy Sĩ vùng gần nước Ý đây này.

– Lôcácnô[82]… có phải đã có một cuộc hội nghị hòa bình lớn họp ở đây, trong đó người ta quyết định là sẽ không bao giờ gây ra chiến tranh nữa, phải không?

– Hình như có.

– Việc ấy không được bền lắm nhỉ.

– Phải. Này, em trông Lôcácnô, những cây cọ, những ngôi nhà thờ cổ kính ở đó và đây là Hồ Lớn, những đảo đầy hoa đỗ quyên, hoa trinh nữ, đầy ánh sáng và hòa bình.

– Thành phố nhỏ này tên là gì?

– Poóctô Rôncô.

– Được ta cứ nhớ lấy tên thành phố này để sau sẽ tới đó, Elidabét nói rồi đặt sách xuống và nằm xuống cỏ. Bây giờ em đi du lịch như thế cũng thấy đủ lắm rồi.

Gơrebê gấp sách lại. Anh ngắm khu rừng bạc trắng một lát nữa rồi đưa tay xuống dưới vai Elidabét. Anh cảm thấy da thịt cô ấm áp và gần hơn nữa là sức nóng ấm của mặt đất, có những cành thông nhọn như những chiếc kim lẫn trong cỏ non. Một bông hồng nở ngay trên má anh, bông hồng lớn dần, lớn mãi, che kín cả chân trời và mắt anh nhắm lại.

Gió ngừng thồi. Bóng tối ập tới rất nhanh. Một tiếng ầm ì vang dội ở đàng xa. Gơrebê nửa mê nửa tỉnh nghĩ, pháo bắn chuẩn bị chắc. Mình ở đâu thế này? Mặt trận đâu rồi? Và khi thấy Elidabét ở bên cạnh, thì anh sực tỉnh cơn mê, anh nghĩ: ở đâu mà có đại bác thế nhỉ? Có lẽ họ tập bắn chăng.

Elidabét nhỏm dậy.

– Chúng nó đâu rồi? Cô nói thì thầm. Chúng ném bom hay đã đi rồi.

– Không phải máy bay đâu.

Tiếng ầm ì lại nổi lên. Gơrebê lắng tai nghe.

– Không có bom, không có đại bác, cũng không có máy bay. Elidabét ạ, anh nói. Cơn giông đấy.

– Cơn giông đến thế có sớm quá không?

– Giông bão không tuân theo qui tắc nào cả.

Lúc này thì người ta đã trông thấy những ánh chớp đầu tiên. So với ánh chớp của người tạo ra thì chúng có vẻ rụt rè và yếu ớt. Sau những trận bắn bổ nhào của máy bay khu trục thì hình như sấm không có hại gì.

Những giọt nước mưa đầu tiên rơi bồm bộp xuống đất. Họ chạy qua bãi trống đến trú dưới những lùm cây. Chẳng bao lâu tiếng nước mưa rì rầm rơi xuống cành lá và bao bọc họ như tiếng một đám đông vô hình. Trong bóng tối mờ mờ ở rừng, Gơrebê thấy có những sợi thiếc rứt ở cành cây ra lẫn trong tóc Elidabét. Chúng kết lại thành lưới trên đầu cô và ánh chớp làm sáng lên một cách kỳ lạ. Họ chạy ra khỏi rừng và đến trú dưới mái một trạm xe điện cũng đã có nhiều người chen chúc ở đó rồi. Vài tên SS cũng đứng đấy. Chúng còn trẻ và chăm chăm nhìn Elidabét rất lâu.

Phải chờ đến nửa tiếng đồng hồ nữa mưa mới tạnh.

– Anh không biết là chúng ta đang ở đâu? Gơrebê nói. Đi theo hướng nào nhỉ?

– Bên phải.

Họ qua đường và đi vào lối nhỏ có bóng râm. Một đoàn dài người đang làm việc trong bóng tối lờ mờ. Họ mặc đồng phục có kẻ sọc. Gơrebê thấy họ đang đặt ống dẫn nước.

Bỗng Elidabét rời anh ra và đi tới những người đó. Cô đi từ người này đến người khác như tìm ai. Gơrebê thấy đồng phục của họ có số. Chắc hẳn đó là những tù nhân ở trại tập trung. Họ cắm đầu yên lặng làm việc. Đầu họ giống như đầu những người đã chết và đồng phục rộng thùng thình của họ phất phới quanh những cẳng chân và tay khẳng khiu.

– Này, kìa, làm gì thế? Một tên lính SS quát. Cấm không được lại gần đấy!

Elidabét như không nghe thấy gì. Cô chỉ đi rảo bước và ghé cúi xuống từng khuôn mặt hốc hác.

– Chị kia, lại ngay đây! Lạ chưa, chị điếc à?

Tên SS vừa rủa vừa chạy tới.

– Có gì thế? Gơrebê hỏi.

– Cái gì à? Anh không điên đấy chứ?

Gơrebê lại thấy một tên SS thứ hai chạy tới. Đó là một tên trung úy[83]. Anh không dám gọi Elidabét, anh biết là cô không bao giờ quay lại.

– Chúng tôi tìm một cái này. Anh nói với tên SS.

– Cái gì? Anh thử nói nghe xem nào!

– Chúng tôi đánh mất cái này, một cái trâm: hình cái thuyền có nạm kim cương. Tối hôm qua, chúng tôi đi qua đây. Nó chỉ rơi trên đường này thôi. Có thể là các ông nhặt được chăng?

– Cái gì?

Gơrebê nhắc lại lời nói dối. Anh thấy Elidabét đã đi hết nửa hàng tù rồi.

– Chúng tôi không nhặt được gì cả, viên trung úy nói.

– Anh ta nói láo, tên lính SS nói. Giấy tờ của anh đâu?

Gơrebê thản nhiên nhìn hắn. Anh sẵn sàng cho hắn một quả đấm. Tên SS chắc không ngoài hai mươi tuổi. Anh nghĩ, Staibơrennơ, Henni đây, đúng là cùng một loại người.

– Không những tôi có giấy tờ, mà còn những giấy tờ tốt nữa cơ. Sau đó, anh nói. Nếu các anh biết, thì ông đại tá Hinđơbơrăng còn là bạn thân của tôi, anh thấy thế nào?

Tên SS phá lên cười.

– Còn gì nữa? Cả đức quốc trưởng chứ?

– Không, quốc trưởng thì không phải.

Elidabét đã đi gần hết hàng người. Gơrebê từ từ rút ở trong túi ra quyển sổ gia đình.

– Đây, lại gần đèn nào. Anh có thấy cái này không? Đây là chữ ký của người làm chứng của tôi. Còn ngay đây? Đúng hôm nay đấy. Thế đã đủ chưa.

Tên SS cúi xuống quyển sổ. Tên trung úy cũng đọc qua vai đồng đội của hắn.

– Đúng là chữ ký Hinđơbơrăng, tôi nhận ra rồi, hắn nói. Nhưng không được đứng ở đây đâu, cấm đấy. Tôi rất tiếc cho cái trâm của anh.

Elidabét từ từ quay lại.

– Tôi cũng thế, Gơrebê nói. Tất nhiên là nếu cấm thì chúng tôi thôi không tiếp tục tìm nữa, có lệnh thì phải theo chứ.

Anh muốn rời chúng để đi đến trước Elidabét nhưng tên trung úy cứ đi theo anh.

– Nhưng có thể chúng tôi sẽ tìm ra cái trâm đó. Nếu thấy thì gửi đến đâu?

– Anh cứ gửi đến cho Hinđơbơrăng, thế là đơn giản nhất.

– Được, tên trung úy lễ phép nói. Chị có tìm thấy gì không? Hắn hỏi Elidabét.

Cô ngơ ngác nhìn hắn như vừa tỉnh mộng.

– Anh có nói với ông trung úy về cái trâm mà chúng mình đánh rớt ở đây hôm qua. Gơrebê nói với chị. Nếu người của ông ấy tìm ra, ông ta sẽ cho gởi đến Hinđơbơrăng.

– Xin cảm ơn ông, Elidabét nói, vẻ sững sờ.

Tên trung úy nhìn chòng chọc vào Elidabét với vẻ soi mói.

– Anh có thể tin ở chúng tôi, chúng tôi có những qui tắc của đội SS.

Elidabét nhìn những người tù một lần nữa. Tên trung úy nhận ra thế.

– Nếu một tên nào trong bọn đê tiện này mà bỏ túi, chúng tôi sẽ làm cho chúng phải nhả ra ngay và nhanh lắm! Hắn vội vã hứa.

Elidabét giật mình.

– Tôi không chắc đánh mất ở trên đường này, cô nói, có lẽ nó còn ở trên nữa trong rừng cơ. Tôi nhớ hình như chúng tôi đánh mất ở đấy thì phải hơn.

Tên trung úy cười khẩy.

– Biết thế nào được, hắn nói.

Gơrebê thấy anh đứng ngay cạnh cái đầu trọc của một người tù đang cúi gập người xuống đất. Anh khẽ cho tay vào túi, rút ra một bao thuốc là và bỏ rơi ở ngay dưới chân người đó.

– Rất cảm ơn anh nhé, anh quay lại nói với tên trung úy. Ngày mai, chúng tôi sẽ lại vào rừng. Chắc nó còn ở đó thôi.

– Có gì đâu. Hítle muôn năm! Chúng tôi mừng anh chị về đám cưới nhé.

– Cám ơn.

Họ lặng lẽ đi cho đến lúc không trông thấy đoàn tù đang làm việc nữa trên bầu trời quang dần, có những đám mây dài màu xà cừ trông giống như đàn hạc màu hồng đang bay.

– Em không nên như vậy thì phải, Elidabét nói. Bây giờ em cũng biết thế là liều đấy chứ.

– Cũng không sao, chúng mình rồi cũng đến phải làm thế. Người ta cứ thoát khỏi một tai nạn này thì lại tự nguyện đương đầu với một cái khác ngay.

Elidabét gật đầu.

– Anh đã làm chúng ta thoát nạn với chuyện cái trâm và với Hinđơbơrăng nữa. Anh nói dối giỏi thật!

– Phải, Gơrebê nói, đó cũng là điều duy nhất mà dân tộc chúng ta đã thực sự học được trong mấy năm gần đây. Bây giờ thì ta về nhà nhà thôi. Anh đã chính thức được phép có chữ ký và dấu hẳn hoi để sống cùng với em: Anh đã từ bỏ cái giường ở trại, anh đã vĩnh biệt Anphôn rồi, bây giờ thì anh đi về nhà mình đây! Anh sẽ tự cho phép ngủ thật muộn sáng mai trong lúc em đảm dậy đi kiếm miếng ăn cho gia đình.

– Mai em không đến xưởng, em được phép nghỉ hai ngày để cưới.

– Sao bây giờ em mới nói với anh?

– Em còn định để sáng mai làm anh ngạc nhiên nữa.

Gơrebê lắc đầu.

– Anh van em, đừng có những chuyện ngạc nhiên ấy làm gì! Chúng ta không đủ thì giờ. Chúng ta cần từng phút của chúng ta để được sung sướng với nhau. Mà, chúng ta cũng bắt đầu từ ngay bây giờ đi. Trong trạn còn gì không, hay anh lại phải đi tạt qua nhà Anphôn trước khi về?

– Còn đủ ăn bữa chiều nay và sáng mai.

– Được, thế thì sáng mai chúng ta sẽ cho phép chúng ta được ăn sáng một cách ầm ĩ. Nếu em muốn, chúng ta sẽ vặn tất cả các bản quân hành lên, bài nọ tiếp bài kia. Và nếu mụ Lidơ có tức run lên một cách có đạo đức, thì chúng ta sẽ đưa ra trước mũi mụ, trước cái mũi giả dối bẩn thỉu của mụ, quyển sổ gia đình mới toanh có chữ ký của Hinđơbơrăng.

Elidabét mỉm cười.

– Có lẽ mụ không nói gì đâu. Hôm kia, khi đưa gói đường anh để lại cho em, bỗng nhiên mụ nói với em rằng anh là người thanh niên rất đứng đắn. Có mà Trời biết, bỗng nhiên tại sao mụ lại thay đổi thái độ như thế!

– Anh cũng không hiểu, có lẽ đó là do một chút của hối lộ đấy thôi. Đó cũng là điều thứ hai mà người ta đã dạy chúng ta rất kỹ trong vòng mười năm gần đây.

[79] Một loại động vật chân sau dài, chân trước ngắn, trước ngực có túi để đeo con, di chuyển bằng cách nhảy những bước rất dài-chỉ có ở châu Úc.

Ở đây, có lẽ tác giả muốn nói người thợ may ngồi nhiều tay lại ngắn quá khổ, trông giống con kăngguru

[80] Quốc huy của Phát xít Đức có vẽ con phượng hoàng.

[81] Obersturmbanu fuhrer: chức vụ trong quân đội phát xít tương đương với đại tá sư đoàn trưởng hay lữ đoàn trưởng.

[82] Một thành phố hẹp, dưới chân núi Anpơ bên bờ Hồ Lớn, là nơi họp Hội nghị kí Hiệp ước hòa bình gọi là Hiệp ước Lô-cácnô, sau bị phát xít Đức vi phạm

[83] Oberscharfuhrer.