← Quay lại trang sách

Chương 21

Anh tỉnh giấc. Những bước chân đi rón rén làm vôi gạch kêu lạo sạo. Anh khẽ tung chăn ra. Elidabét cựa mình rồi ngủ. Có thể là Pônman trở về; cũng có thể là kẻ trộm hay bọn Ghextapô- đó là giờ thường lệ của chúng. Nếu là bọn Ghextapô, thì phải cố tìm cách báo trước cho Pônman biết để ông khỏi rơi vào tay chúng.

Anh thấy bóng hai người. Anh hết sức lặng lẽ đi theo họ. Anh không đi giầy; nhưng chỉ được vài mét, anh va phải một viên gạch chung chiêng làm nó rơi ầm ầm. Một cái bóng quay lại. Gơrebê vội cúi xuống.

– Ai đấy? cái bóng hỏi.

Đó là Pônman. Gơrebê đứng thẳng dậy.

– Tôi, Ernest Gơrebê đây, ông Pônman ạ.

– Gơrebê à? Có việc gì thế?

– Không có gì hết. Chúng tôi gặp tai nạn, và vì chúng tôi không biết đi đâu, tôi nghĩ thầy có thể cho chúng tôi ở nhờ độ hai hay ba ngày.

– Ai mà là chúng tôi?

– Vợ tôi và tôi. Tôi mới cưới được vài hôm nay.

– Được, được lắm. – Pônman ghé lại gần. Bộ mặt tái của ông thành một điểm trắng trong bóng tối. – Anh trông thấy tôi về à?

Gơrebê ngập ngừng một lát. Nhưng đối với Elidabét và người lạ mặt, chắc lúc này đang ẩn sau vạt tường, thì đề phòng làm gì cho vô ích.

– Vâng, anh nói, nhưng thầy có thể tin tôi được.

Pônman đưa tay lên trán.

– Tất nhiên là tôi tin anh. – Ông có vẻ lưỡng lự – Anh đã thấy là tôi không phải chỉ có một mình đấy chứ?

– Vâng.

Pônman như đã quyết định xong một điều gì.

– Được, thế thì lại đây. Anh bảo chỉ ở lại hai hay ba ngày thôi à? Không được rộng rãi lắm nhưng chúng ta không nên đứng ở đây.

Họ đi qua phía bên kia vạt tường.

– Không có gì đâu, Pônman nói trong bóng tối.

Một người đàn ông ló ra. Pônman mở cửa hầm của ông và tránh cho Gơrebê và người lạ vào. Rồi ông đóng cửa lại sau họ.

– Vợ anh đâu? ông nói.

– Nhà tôi ngủ ở ngoài kia. Chúng tôi có mang theo nệm và dựng lên một túp lều.

Pônman đứng lại trong bóng tối.

– Gơrebê, tôi phải nói với anh một điều. Người ta mà thấy anh ở đây thì không phải là không nguy hiểm đâu nhé.

– Tôi biết.

Pônman đằng hắng.

– Đó là tại tôi, anh hiểu chứ. Tôi bị tình nghi. Anh cũng đã nghĩ đến vợ anh chứ.

– Vâng, một lát sau, Gơrebê mới nói.

Cho đến lúc ấy, người lạ đứng sau Gơrebê vẫn không nhúc nhích. Chỉ nghe thấy tiếng thở của người đó. Pônman vào phòng trước họ và sau khi kéo rèm cửa, ông thắp cây đèn dầu ở trên bàn.

– Không nên gọi tên nhau làm gì vô ích, ông nói. Càng không biết gì, càng có ít cơ hội để nói. Anh là Ernest, ông này là Giôdép. Thế là đủ.

Giôdép là người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, có bộ mặt mảnh mai của người Do Thái. Ông ta có vẻ rất bình tĩnh và mỉm cười với Gơrebê. Rồi ông phủi quần áo cho hết những vết vôi.

– Chỗ này không chắc lắm, Pônman ngồi xuống và nói. Nhưng Giôdép cần phải ở đây suốt ngày. Từ hôm qua, nhà anh ấy vẫn ở không còn nữa. Đến trưa nay, phải tính lại xem sao. Chỉ vì chỗ trú này không chắc nữa rồi, Giôdép ạ.

– Tôi biết, Giôdép nói với một giọng nghiêm trang.

– Còn anh, Ernest? Pônman nói tiếp. Tôi nhắc lại với anh là tôi bị tình nghi và anh cũng biết rằng nếu người ta thấy anh ở nhà một người bị tình nghi thì ra sao rồi chứ?

– Vâng.

– Chắc đêm nay không có gì xảy ra đâu. Cả thành phố còn đang rối lên vì trận bom vừa rồi. Nhưng cũng không biết thế nào. Anh có dám liều không?

Gơrebê không trả lời. Pônman và Giôdép nhìn nhau.

– Riêng tôi thì không có gì là nguy hiểm. Vài ngày nữa, tôi lại quay ra mặt trận. Đối với vợ tôi lại là việc khác. Cô ta còn ở đây. Tôi không nghĩ đến việc ấy.

– Tôi không nói thế để đuổi anh chị đi đâu.

– Tôi biết.

– Trường hợp bất đắc dĩ, anh có thể ngủ ở ngoài trời được không? Giôdép hỏi.

– Được, chúng tôi đã có đồ để trú mưa.

– Thế thì anh cứ ở ngoài ấy đi. Như vậy anh không dính dáng gì đến chúng tôi. Sáng mai, anh để đồ đạc của anh vào đây, tôi nghĩ chắc anh chỉ băn khoăn nhất về điều ấy chứ gì? Tuy vậy anh cũng có thể gửi đồ đạc ở nhà thờ Thánh Catơrin. Người bõ[86] coi đồ thờ đã quen việc ấy rồi và ông ta tính cũng thật thà. Chính nhà thờ cũng bị phá hủy nhưng hầm nhà thờ còn nguyên. Anh cứ để đồ đạc ở đấy, như vậy là cả ngày anh rảnh để có thể đi tìm chỗ trú.

– Tôi thấy anh ấy nói phải đấy, Ernest ạ. Pônman nói. Giôdép có nhiều kinh nghiệm hơn chúng ta.

Gơrebê thấy mến ông thầy học già, vừa gọi anh bằng tên tục như những năm trước…

– Tôi cũng nghĩ như vậy, anh nói. Tôi rất tiếc là đã làm thầy và ông phải sợ.

– Sáng mai, nếu cần gì, anh hãy lại tìm tôi. Anh cứ gõ hai tiếng thưa, hai tiếng mau. Đừng gõ mạnh, tôi sẽ nghe được.

– Vâng, xin cám ơn thầy.

Gơrebê trở về lều, Elidabét vẫn ngủ. Khi anh nằm vào bên cô, cô rên khe khẽ rồi lại ngủ ngay.

Cô thức dậy vào hồi sáu giờ. Một chiếc xe ngựa lọc cọc đi trong phố.

– Em ngủ ngon quá, cô nói. Chúng mình ở đâu thế này?

– Ở quảng trường Gian.

– Được, thế đêm sau chúng ta sẽ ngủ ở đâu?

– Để ban ngày xem sao đã.

Cô lại nằm xuống bên anh. Một tia sáng ban mai lọt vào giữa tấm vải bạt và chiếc áo capốt. Chim hót líu lo. Cô đưa một cánh tay lên và giật chiếc áo ra. Trời vàng ối không một bóng mây.

– Thật đúng là một cuộc đời bôhêmiêng[87], cô nói. Đầy những chuyện ly kỳ.

– Thế mới đúng là không bi quan với cuộc đời. Gơrebê nói. Đêm qua anh vừa gặp Pônman. Chúng ta cần gì, cứ hỏi ông ta được.

– Chúng ta chẳng cần gì cả. Còn cà phê không? Có thể thổi nấu ở đây được?

– Chắc chắn là cấm ngặt, cũng như tất cả các điều gì hợp lý một chút. Nhưng không cần. Vì dù sao thì chúng ta cũng là những người bôhêmiêng rồi mà!

Elidabét định chải đầu.

– Đằng sau nhà, có một chậu nước mưa. Vừa đủ để rửa mặt.

Elidabét mặc áo vét.

– Em đi đây. Như ở nông thôn, người ta bơm nước lên để rửa nhỉ. Ngày trước, người ta cho thế là thơ mộng đấy!

Gơrebê cười.

– So với cuộc đời ở ngoài mặt trận, thì thế nào cũng thơ mộng. Tất cả đều là tương đối.

Anh cuộn nệm vào trong chăn, thắp cây đèn cồn và đặt gamen với một ít nước lên trên. Anh chợt nhớ ra là anh đã bỏ quên tấm phiếu thực phẩm của Elidabét ở trong phòng. Vừa lúc đó, cô đi rửa mặt về, mặt tươi mát trẻ trung.

– Em có mang theo phiếu thực phẩm đấy không?

– Không, nó ở ngăn kéo phải, trong cái bàn nhỏ gần cửa sổ ấy.

– Chết rồi! Anh quên không lấy đi! Sao anh lại không nghĩ đến việc ấy nhỉ? Mà anh có thì giờ chứ có phải không đâu?

– Anh đã nghĩ đến nhiều việc quan trọng hơn rồi, cô nói. Như cái áo dạ hội của em chẳng hạn. Thôi chúng ta làm đơn xin phiếu mới vậy. Chắc đây không phải là cái phiếu độc nhất bị cháy hôm qua.

– Phải, nhưng chắc lâu đến hàng đời mất. Thế giới có đến ngày tận thế, cũng không bắt người viên chức Đức đi chệch nguyên tắc một ly được.

Elidabét cười.

– Em sẽ xin nghỉ một giờ ở xưởng để chạy vậy. Viên trưởng khối sẽ cấp cho em một giấy chứng nhận rằng em bị tai nạn.

– Em trở lại xưởng hôm này à? Gơrebê hỏi.

– Phải đến chứ, bị tai nạn là thường lắm!

– Chà! Anh muốn đốt cái xưởng đáng nguyền rủa của em quá.

– Em cũng vậy, nhưng nếu thế thì họ sẽ đưa chúng mình đi chỗ khác và chắc sẽ buồn hơn. Em không muốn sản xuất vũ khí chút nào cả.

– Nếu thế thì tại sao không biến thẳng một mạch đi cho rồi? Ai biết được việc gì đã xảy ra với em hôm qua? Có thể vì chạy đồ đạc mà em bị thương không chừng.

– Em phải chứng thực được điều đó. Xưởng có bác sĩ và cảnh sát riêng. Mọi điều gian lận đều bị trừng phạt: như làm thêm giờ, không được nghỉ phép và nếu thế cũng chưa đủ, thì được giáo dục lại, học về nghĩa vụ công dân ở một trại tập trung. Những ai ở đó về không còn muốn tái phạm nữa.

Elidabét cầm gamen nước sôi rót từ từ vào cái nắp ở dưới có một ít cà phê hóa học.

– Anh cũng chớ quên là em vừa được nghỉ ba ngày để cưới. Không nên đòi hỏi họ quá nhiều.

Anh biết là chỉ vì cha cô mà cô phải ghép mình vào cái kỷ luật ấy. Đó là sự đe dọa không bao giờ chấm dứt đối với những thân nhân các phạm nhân.

– Đồ đê tiện! Gơrebê nổi cáu. Chúng nó làm chúng mình đến nông nỗi này ư?

– Thôi anh uống cà phê rồi bớt nóng đi. Chúng mình không có thì giờ đề than vãn đâu.

– Đúng thế, Elidabét, chúng mình còn ít thời gian quá!

Elidabét gật đầu.

– Em biết, em biết rồi, phép của anh đã đến hạn mà thì giờ của chúng ta chỉ dùng để chờ đợi lẫn nhau mà hết. Em cần phải có can đảm không bước chân đến xưởng cho đến lúc anh đi mới được.

– Em cũng đã khá can đảm rồi, và đợi một người nào đó còn hơn là không có ai để đợi.

Cô hôn anh và mỉm cười.

– Sao anh biết nói những lời cần phải nói nhanh đến thế! Nhưng em phải đi đây. Chiều nay, chúng ta gặp nhau ở đâu nhỉ?

– Ừ nhỉ, ở đâu nào? Bây giờ chúng ta vô gia cư rồi. Phải làm lại từ đầu tất cả. Anh sẽ đến chờ em ở xưởng.

– Thế nếu chúng ta nhỡ hẹn vì một lý do nào đó, một cuộc báo động hay bị chặn đường thì sao?

Gơrebê ngẫm nghĩ.

– Anh sẽ đi lấy đồ đạc và đem đến nhà thờ Thánh Catơrin. Chúng ta lấy đấy là chỗ hẹn thứ hai nhé.

– Ban đêm có mở cửa không?

– Sao lại đêm? Chẳng lẽ đến đêm nay em mới về à?

– Biết thế nào được. Đã có hôm, bọn em phải ở dưới hầm sáu giờ đồng hồ. Tốt nhất là có một người nào đó để mỗi chúng ta có thể bất chợt lúc nào cũng nhắn tin lại cho nhau được. Bây giờ thì chỗ hẹn cũng không chắc nữa.

– Em định bảo là trong trường hợp có việc gì xảy ra với chúng mình ấy ư?

– Vâng.

Gơrebê gật đầu. Anh biết rằng bây giờ rất dễ lạc nhau.

– Hôm nay chúng ta chọn nhà Pônman vậy – anh nói. – Anh ngẫm nghĩ. – Không, thế cũng không chắc lắm. Lại Binđinh vậy! Hắn không gặp gì nguy hiểm cả. Anh đã chỉ nhà hắn cho em rồi. Đành rằng hắn chưa biết là chúng mình đã lấy nhau, nhưng không hề gì. Anh sẽ tạt qua nhà hắn gặp hắn để báo cho hắn biết.

– Anh lại đến vét hết của của hắn mất!

Gơrebê cười.

– Anh không định thế, nhưng quả thật là chúng ta cần phải có gì để ăn. Em có thấy là chúng ta đã dần dần đâm ra hèn rồi không?

– Đêm nay, chúng ta còn ngủ ở đây không?

– Anh mong rằng không, anh đã có suốt một ngày để đi tìm chỗ khác.

Elidabét sa sầm mặt lại một lát.

– Anh có thì giờ. Còn em, em phải đi ngay bây giờ đây.

– Anh sẽ gói đồ đạc thật nhanh và mang vào gửi ở nhà Pônman, rồi anh đưa em đến xưởng.

– Chúng ta không có thì giờ đâu, Ernest ạ! Em phải chạy vội đây. Chiều nay nhé, ở xưởng, ở nhà thờ Thánh Catơrin, hay nhà Binđinh. Cuộc đời phiêu lưu sao hấp dẫn thế nhỉ!

– Thiết gì cuộc đời hấp dẫn ấy, Gơrebê nói.

Anh trông theo khi cô đi ngang qua quảng trường. Buổi sớm mai trong sáng và bầu trời xanh thăm thẳm. Hơi sương ẩm phủ trên những căn nhà đổ như một tấm khăn bạc. Elidabét quay lại vẫy anh. Rồi cô lại chạy. Gơrebê ngắm bước chân cô. Chân cô lần lượt đặt thẳng đường, giường như cô đang cố bước theo vệt bánh xe. Ở châu Phi anh đã thấy đàn bà địa phương bước đi như thế. Cô lại vẫy anh và mất hút sau những căn nhà ở đầu quảng trường. Anh nghĩ, giống như ở mặt trận, không biết bao giờ lại gặp nhau đây. Thiết gì cuộc đời hấp dẫn ấy!

Pônman ra khỏi nhà lúc tám giờ.

– Tôi đến xem anh có gì ăn không, ông nói. Tôi có thể cho anh bánh mì.

– Cảm ơn thầy, chúng tôi đã có đủ. Tôi có thể cất vali và chăn nệm vào chỗ thầy cho đến lúc tôi ở nhà thờ Thánh Catơrin về không?

– Được lắm.

Gơrebê đem đồ đạc vào nhà Pônman. Không thấy bóng Giôdép đâu.

– Có thể tôi không có nhà khi anh về, Pônman nói. Anh cứ gõ hai tiếng thưa, hai tiếng mau. Giôdép sẽ nghe thấy.

Gơrebê mở một chiếc vali ra.

– Mỗi lúc một giống cuộc đời bôhêmiêng. Trời chứng cho tôi là khi được về phép, tôi không ngờ là sẽ như thế này.

Pônman mỉm cười yếu ớt.

– Đã ba năm này, Giôdép sống như vậy đấy. Có nhiều tháng anh ấy ngủ trên tầu điện. Anh ấy cứ luôn luôn di chuyển như thế trong khắp thành phố. Tất nhiên anh ấy chỉ có thể ngủ ngồi và trong mười lăm phút thôi. Đó là thời kỳ chúng ta chưa bị ném bom. Bây giờ thì không được nữa.

Gơrebê lấy ở trong sắc ra một hộp đồ ăn và đưa cho Pônman.

– Thầy đưa cái này cho Giôdép, tôi không cần đến.

– Thịt à? Anh không cần đến thịt?

– Không, thầy cứ đưa cho ông ấy. Những người như ông ta cần phải thoát thân. Nếu không thì sau cơn ác mộng, nước Đức sẽ còn gì? Ai sẽ làm cho cuộc đời lại tiến bước được?

Ông già nín lặng một lát. Rồi ông đi tới quả địa cầu để trên một giá sách và lấy tay xoay.

– Anh có thấy cái chấm nhỏ này không? – ông nói – nước Đức đấy. Ngón tay cái của tôi cũng che gần kín nó. Đó chỉ là một phần rất nhỏ của thế giới.

– Đúng thế, nhưng mấy năm gần đây, cái phần nhỏ ấy đã chinh phục được nhiều phần lớn hơn nó.

– Đúng là chinh phục, nhưng không thuyết phục được.

– Chưa thuyết phục được thôi. Nhưng nếu chúng ta cứ giữ khoảng ta chiếm lĩnh được thì việc gì sẽ xảy ra nào? Trong mười năm. Hai mươi năm. Năm mươi năm? Chiến thắng và thành công là những lý lẽ có sức thuyết phục rất ghê gớm. Cứ trông ở đây là rõ.

– Chúng ta có thắng đâu.

– Đây không phải là một chứng cớ.

– Đó chính là một chứng cớ, Pônman nói. Một chứng cớ rất sâu sắc nữa cơ. – Quả địa cầu vẫn tiếp tục quay trong đôi bàn tay gân guốc của ông. – Thế giới… Thế giới còn sống. Khi người ta không tin tưởng vào đất nước mình trong một thời gian, thì phải hướng về phần còn lại của thế giới. Có thể có nhật thực nhưng không thể có đêm dài vô tận. Dù sao thì cũng không thể có trên hành tinh này. Tuyệt vọng là có phần nào thiển cận. – Ông lại để quả địa cầu vào chỗ cũ. – Anh hỏi ai sẽ làm cho cuộc đời tiến bước ư? Nhà thờ Thiên Chúa đã bắt đầu với vài người đánh cá, những tín đồ trong các hầm mộ và những người còn sống sót ở đấu trường Rôm[88].

– Phải, còn chủ nghĩa quốc xã thì với một nhóm những kẻ thất nghiệp cuồng tin trong một tiệm rượu ở Muyních[89].

Pônman mỉm cười.

– Anh nói đúng. Nhưng không bao giờ một chế độ độc tài lại tồn tại được rất lâu. Nhân loại không phát triển một cách liên tục và đều đều. Lịch sử của nó là những thăng trầm, những bước lùi, những bước nhảy vọt rồi lại ngã nữa. Chúng ta đã phạm tôi kiêu ngạo; chúng ta tự phụ là đã dứt khoát đoạn tuyệt được với một dĩ vãng tàn bạo và đẫm máu. Bây giờ, chúng ta biết rằng chỉ cần một cuộc khủng hoảng tầm thường cũng đủ làm chúng ta rơi vào cảnh đó. – ông cầm mũ. – Tôi phải đi đây.

– Cuốn sách về Thụy Sĩ của thầy đây, Gơrebê nói. Nó hơi bị ướt. Tôi đã đánh mất sau lại tìm thấy.

– Không nên cứu nó khỏi trận ném bom; không bao giờ nên cứu vớt những giấc mơ cả.

– Có chứ, Gơrebê nói. Nếu người ta không cứu vớt những giấc mơ của mình thì còn cứu vớt cái gì?

– Cứu lấy lòng tin của ta. Những giấc mơ tự nó sẽ lại tái sinh.

– Thật may mắn, nếu không tôi sẽ tự treo cổ lên ngay!

– Sao mà anh trẻ thế! Pônman nói. Nhưng tôi nói gì thế nhỉ? Quả là anh trẻ thật! Anh có biết là tôi vẫn hình dung tuổi thanh niên bây giờ khác không.

– Tôi cũng vậy, Gơrebê nói.

Giôdép nói không sai. Người bõ nhà thờ Thánh Catơrin nhận cho gửi đồ đạc. Gơrebê để sắc của anh lại, rồi đến sở Nhà cửa. Sở này đã đổi chỗ và hiện đang ở phòng sinh vật học của nhà trường. Vết tích còn lại là một tủ ngăn đựng hồ sơ và một tủ đựng bình thủy tinh. Người nữ nhân viên dùng một số bình để chặn giấy. Rắn, ếch và thằn lằn lửng lơ trong cồn đã canh giữ hồ sơ những người bị nạn. Một con sóc nhồi rơm, chân ôm một viên hạt dẻ, chăm chăm nhìn Gơrebê bằng đôi mắt thủy tinh. Người nữ nhân viên là một bà già tươi cười, tóc đã bạc.

– Tôi ghi tên anh vào danh sách những người không có nhà nhé, bà ta nói. Anh có địa chỉ không?

– Không.

– Thế thì anh phải trở lại đây để hỏi xem người ta có tìm được gì cho anh không.

– Liệu tôi có chút hy vọng nào không?

– Không có đâu. Phải tìm chỗ cho sáu ngàn người trước anh. Anh nên xoay sở lấy thì hơn.

Anh quay lại quảng trường Gian và gõ cửa nhà Pônman. Không ai đáp lại. Anh chờ một lát rồi đến phố Mari để xem còn gì ở nhà không.

Ngôi nhà đã bị cháy đến tầng gác của viên trưởng khối. Mãi phút cuối cùng lính cứu hỏa mới đến. Nước nhỏ giọt ở khắp mọi nơi. Không còn gì ở phòng Elidabét. Chiếc ghế bành anh đem ra được đã biến mất. Tất cả chỉ còn lại đôi găng tay xanh bị bỏ quên ở dưới rãnh.

Gơrebê thấy mặt viên trưởng khối hiện ra sau tấm rèm cửa. Anh nhớ ra rằng anh đã hứa cho hắn xì gà. Lời hứa đó cùng với tất cả các thứ khác đã thuộc về một thế giới xa xôi và hủy diệt nào, nhưng ai mà biết được. Anh quyết định lại nhà Anphôn. Vả lại anh cũng cần thức ăn cho bữa trưa.

Chỉ có ngôi nhà bị tổn hại. Khu vườn tắm trong ánh nắng ban mai, cành lá những cây bạch dương lấp lánh trong tiếng rì rào; trong đám cỏ màu vàng, những bông thủy tiên sáng léo lên với một vẻ bí hiểm và như có một đàn bướm trắng và hồng đậu đầy trên những cây hoa nở sớm nhất; riêng ngôi nhà của Binđinh chỉ còn là một đống rác lơ lửng trên một hố sâu đầy nước phản chiếu nền trời. Đứng trước hàng rào, Gơrebê nhìn và không tin vào mắt mình nữa. Không hiểu sao, anh vẫn tin chắc rằng, không có gì có thể xảy ra cho Anphôn được. Anh đẩy cửa và bước vào. Bể tắm của bầy chim đã nát vụn. Cửa vào nhà vướng lơ lửng trên một cây đinh hương nhỏ. Những bộ sừng hươu dựng đứng ở giữa bãi cỏ, như những con vật bị chôn ở đó. Trên một cành cây, một tấm thảm rũ xuống, như lá cờ của một tên xâm lược dã man. Một chai rượu napôlêông còn nguyên vẹn cắm thẳng giữa luống hoa, như một quả bí ngẫu nhiên mọc lên ở đó. Gơrebê nhặt chai rượu lên xem qua và sau cùng anh đút vào túi áo capốt. Anh nghĩ, cái hầm chắc không việc gì và bọn ấy đã chuyển rượu đi rồi nhưng còn bỏ sót lại chai này đây.

Anh đi một vòng quanh nhà. Cửa vào bếp vẫn còn. Anh mở ra. Có tiếng người lục đục ở trong.

– Bà Klaine, anh gọi.

Một tiếng thổn thức đáp lại anh. Bà quản gia đứng dậy và đi ra.

– Tội nghiệp cho ông ấy quá! Ông ấy tốt biết mấy!

– Có việc gì thế? Ông ấy bị thương à?

– Ông ấy đã chết. Chết rồi, ông Gơrebê ạ. Ông ấy đang yêu đời biết mấy.

– Chết à?

– Vâng, thật khó mà có thể tin được, phải không, thưa ông?

Gơrebê gật đầu. Người ta vẫn khó mà tin vào cái chết được, dù cho nó đã trở thành một việc quá đỗi tầm thường.

– Việc xảy ra như thế nào? anh hỏi.

– Ông ấy ở trong hầm rượu nhưng hầm rượu cũng không được vững.

– Tất nhiên rồi, nó có phải xây dựng để chịu đựng bom cỡ lớn đâu. Nhưng tại sao ông ấy lại không ra hầm quảng trường ở Xaiden? Chỉ cách đây có vài phút thôi mà.

– Ông ấy tưởng chẳng có gì vả lại còn… – Bà Klaine ngập ngừng. – không phải chỉ có một mình ông ấy.

– Sao? Đã trưa rồi mà?

– Cô ta ở đây từ hôm trước. Một cô gái tóc vàng người cao lớn. Ông ấy vẫn thích loại gái tóc vàng, người cao lớn. Tôi có làm cho ông ấy và cô ta món gà hầm rượu. Vừa xong bữa là có còi báo động.

– Cả cô ta cũng chết à?

– Vâng, hai người lại không ăn mặc tử tế nữa chứ. Ông ấy thì mặc quần áo ngủ, còn cô ta mặc áo khoác trong nhà, một cái áo khoác mỏng bằng lụa. Và thế là ông ấy chết mà không có quân phục.

– Tôi không hiểu là có quân phục thì làm sao thoát được, Gơrebê nói. Nhưng ít ra ông ấy cũng có đủ thì giờ ăn sáng chứ.

– Vâng, ăn ngon lắm, tôi vừa dọn bánh nhân kem xong, thứ bánh mà ông ấy vẫn rất thích!

– Bà Klaine này, nếu thế thì cái chết của ông ấy cũng tuyệt lắm đấy, bà có biết không. Tôi cũng muốn được chết như thế. Bà không cần phải khóc.

– Vâng, nhưng tại sao lại chết trẻ thế? Còn sớm quá!

– Thế nào cũng vẫn là sớm. Tôi nghĩ rằng đến chín mươi tuổi cũng vẫn sớm. Bao giờ đưa đám?

– Chín giờ sáng ngày kia. Áo quan đây rồi. Ông có muốn xem không?

– Để ở đâu?

– Ở đây, trong kho thức ăn. Phòng ấy mát mẻ nhất. Áo quan đã đóng đinh rồi. Phía này ít hư hại nhất. Chỉ có phía trước bị hoàn toàn phá hủy.

– Họ đi qua bếp để vào kho thức ăn. Những mảnh thủy tinh đã được vun lại thành đống ở một góc. Một mùi rượu đổ loang và mùi mứt bay trong phòng. Một chiếc quan tài bằng gỗ sến chiếm một khoảng lớn. Trên các ngăn tường, la liệt những bình và hộp, chất nước ở trong chảy ra đặc sệt.

– Bà làm thế nào mà kiếm được cái áo quan đẹp thế? Gơrebê hỏi.

– Đảng cho đem lại đây đấy.

– Đám tang bắt đầu đi từ đây à?

– Vâng.

– Tôi sẽ đến.

– Hẳn là ông ấy sẽ hài lòng lắm.

Gơrebê nhìn bà Klaine.

– Ông ấy sẽ lên thiên đường, bà ta nói tiếp. Ông ấy vẫn quý ông lắm.

– Đối với tôi à? Tại sao vậy?

– Ông ấy nói ông là người quen duy nhất của ông ấy, không bao giờ đòi hỏi ở ông ấy một chút gì. Và còn bởi vì lúc nào ông cũng ở ngoài mặt trận.

Gơrebê đứng ngần ngừ một lát trước chiếc áo quan. Anh cảm thấy hơi hổ thẹn trước người đàn bà đang khóc sướt mướt và có vẻ đau khổ rất thành thật.

– Bà tính sao với những thứ này? anh chỉ tay vào các ngăn và hỏi.

Bà Klaine bỗng trở nên linh hoạt.

– Ông muốn lấy bao nhiêu thì lấy đi! Không lại đến rơi vào tay những người lạ mặt thôi.

– Thế thì bà cũng lấy đi! Nói cho cùng, thì chính bà đã làm ra tất cả các lọ mứt này cơ mà.

– Tôi cũng có để riêng ra một chút, nhưng tôi không lấy hết được. Ông Gơrebê ạ, ông có thể lấy được bao nhiêu thì cứ mang đi. Những người trong đảng lại đây đã phải trợn tròn mắt lên rồi. Có ít các thứ này thì hơn, ông hiểu chứ. Người ta có thể tưởng ông ấy buôn chợ đen.

– Đúng vậy.

– Thật thế, chắc chắn là cái gì còn lại sẽ bị những người lạ ấy lấy đi hết. Ông là bạn thân của ông ấy. Chắc điều ông ấy ưng nhất là ông hưởng những thứ này.

– Ông ta không còn bố mẹ à?

– Bố ông ấy còn sống nhưng ông cũng biết là quan hệ giữa ông bố và ông con ra sao rồi. Vả lại ông cụ có cần gì, cũng sẽ kiếm ra. Ở hầm thứ hai còn khối chai nguyên. Ông cần gì thì cứ lấy đi.

Người đàn bà thật thà ấy chạy vội tới các ngăn, mang nhiều hộp trở ra và đặt lên trên áo quan. Bà ta định lấy thêm nhưng lại thay đổi ý kiến xếp lại những hộp vừa lấy lần thứ nhất và mang xuống bếp.

– Hãy khoan đã, bà Klaine, Gơrebê nói. Nếu tôi có phải lấy gì, cũng nên lựa chọn cẩn thận thì hơn. – Anh xem xét các hộp. – Đây là măng, măng Hà Lan. Chúng ta không cần đến thứ này. Chúng ta cũng có thể bỏ lại đây cá trích có dầu, và cá ngạnh cốt nấu với rượu chát.

– Ông nói phải, từ hôm qua, tôi cứ mụ cả đầu óc.

Bà ta xếp tất cả thành một chồng chung chiêng trên chiếc ghế ở bếp.

– Nhiều quá, Gơrebê nói, bà bảo tôi làm thế nào mà mang đi được?

– Ông đi làm hai, ba chuyến vậy. Tội gì để người khác hưởng? Ông là quân nhân, ông có quyền được hưởng hơn tất cả cái bọn quốc xã chỉ biết ngồi lì ở nhà!

Gơrebê nghĩ, thật vậy. Elidabét, Pônman và Giôdép có quyền được hưởng nhiều hơn nữa; mình mà không lấy thì thật là ngốc như bò. Anphôn không vì thế khổ hay sướng hơn. Một lúc sau, khi anh đã đi khỏi ngôi nhà đổ, anh mới nghĩ đến điều mau rủi đã khiến anh không đến ở nhà Anphôn và không bị chết cùng với hắn.

Giôdép mở cửa.

– Hình như ông đợi tôi thì phải, Gơrebê nói.

– Tôi thấy anh đi tới, Giôdép chỉ một khe nhỏ đục trong cửa gỗ và nói. Như vậy, khách mới không đến bất ngờ được.

Gơrebê đặt gói xuống bàn.

– Tôi có đi qua nhà thờ Thánh Catơrin. Người bõ bảo là chúng tôi có thể ngủ đêm ở đó. Cảm ơn ông đã mách giúp nhé.

– Người bõ trẻ phải không?

– Không, người già.

– May cho anh được gặp ông ta nhé, ông ấy là người tốt. Ông ta nhận tôi là người giúp việc của ông ta trong một tuần lễ và tôi được ở trong nhà thờ. Một hôm, nhà thờ bị khám. Tôi phải trốn vào cây đàn phong cầm. Chính tên bõ trẻ đã tố cáo tôi. Hắn bài Do Thái. Bài Do Thái vì đức tin vào đạo giáo. Cái đó có đấy, anh ạ. Với lý do là hai ngàn năm trước đây, chúng tôi đã đóng đinh câu rút Đức Chúa Giêsu.

Gơrebê giở gói đồ ra. Anh xếp lên bàn một đẫy hộp cá thu, cá trích và patê gan. Anh lấy cả những chai rượu ở trong túi ra. Nét mặt không thay đổi, Giôdép trông anh làm.

– Thật là một kho của quý, ông chỉ nói thế.

– Chúng ta sẽ chia nhau.

– Anh giầu đến thế cơ à?

– Ông cũng thấy đấy, tôi được hưởng một món gia tài. Nhưng thứ này là của một tên đại úy SS. Ông thấy sao?

– Trái lại, chơi thế mới cay chứ. Anh quen thân bọn đại úy đến mức chúng tặng anh những thứ này cơ à?

Gơrebê nhìn Giôdép.

– Thằng này thì thân, anh nói. Đó là một thằng thanh niên đáng thương, không thực sự ác.

Giôdép không trả lời.

– Ông cho là không thể có chuyện ấy được à? Gơrebê hỏi.

– Còn anh, anh cho là có thể có?

– Có thể lắm. Có những người đi cùng với những kẻ khác vì sợ, vì yếu hèn, vì không có bản lĩnh.

– Vì thế mà người ta trở thành đại úy SS được ư?

– Có thể thế đấy.

Giôdép cười.

– Lạ thật, ông nói, người ta tưởng một tên giết người thì ở đâu và lúc nào nó cũng hành động như một kẻ giết người. Thế mà, chỉ cần một phần nhỏ trong bản thân mình có máu sát nhân là người ta có thể, trở thành một tên giết người và gây ra những việc ghê gớm tàn bạo nhất. Phải không?

– Phải, Gơrebê nói. Thú dữ lúc nào cũng là thú dữ. Người ta có nhiều tiềm lực hơn.

Giôdép gật đầu đồng ý.

– Có những tên chỉ huy các trại tập trung lính rất hài hước, những tên cai ngục SS thường tỏ ra rộng rãi và thân mật với nhau, rồi còn số đông quần chúng a tòng thì mê mẩn trước những điều được gọi là mệnh lệnh rõ ràng, dứt khoát và nhắm mắt làm ngơ trước những cảnh tàn bạo hoặc coi đó như những tai vạ cần thiết và nhất thời. Người ta gọi đó là thứ lương tâm co rãn.

– Và có những người sợ hãi nữa, Gơrebê nói thêm.

– Còn có những người sợ hãi nữa, Giôdép lễ phép nói.

Gơrebê nín lặng một lát, sau đó anh nói.

– Tôi muốn giúp ông.

– Cũng chẳng có gì lớn lắm. Tôi sống một mình, chỉ có hai điều: hoặc tôi bị chúng tóm được, hoặc tôi thoát thân, Giôdép hững hờ nói.

– Ông không có gia đình? Gơrebê hỏi.

– Trước kia thì có. Một anh, hai em gái, cha tôi, vợ tôi và một đứa con trai. Tất cả đều đã chết. Hai người bị đánh chết, một người chết bình thường, còn lại bị qua phòng hơi ngạt.

Gơrebê nhìn ông ta.

– Tất cả ở cùng một trại?

– Phải, ở cùng một trại. Giôdép đáp, vẻ lạnh lùng. Các trại tổ chức chu đáo lắm.

– Còn ông thoát khỏi bọn chúng?

– Tôi thoát được.

– Ông phải căm ghét chúng tôi lắm nhỉ?

Giôdép nhún vai.

– Căm ghét! Ai dám cho mình hưởng thứ xa xỉ ấy? Lòng căm ghét dễ làm người ta sơ hở lắm.

Gơrebê quay nhìn phía cửa sổ vẫn bị vôi gạch của căn nhà đổ bịt kín hoàn toàn. Ánh sáng leo lét của cây đèn nhỏ như đã mờ đi chút nữa. Nó ánh lên, nhợt nhạt trên quả địa cầu mà Pônman đã đẩy vào một góc.

– Anh lại trở ra mặt trận? Giôdép hỏi, vẻ trìu mến.

– Vâng, tôi lại trở ra đấy. Tôi đi chiến đấu để bọn giết người đang truy nã ông có thể cầm quyền lâu hơn một chút. Có lẽ vừa đủ để bắt được và treo cổ ông.

Giôdép lặng lẽ làm hiệu ra vẻ hiểu.

– Tôi phải ra đi nếu không người ta sẽ xử bắn tôi, Gơrebê nói – Giôdép không trả lời - và bởi vì, nếu tôi đào ngũ, thì bố mẹ và vợ tôi sẽ bị bắt và chắc là sẽ bị giết. – Giôdép vẫn không nói gì – Tôi đi ra đó và tôi biết rằng những lý lẽ của tôi không còn là những lý lẽ nữa, mặc dầu nó vẫn là lý lẽ của hàng vạn người như tôi. Chắc ông khinh chúng tôi lắm, phải không?

– Đâu có kiêu ngạo đến thế, Giôdép lẩm bẩm.

Gơrebê nhìn ông ta, không hiểu.

– Ai nói đến sự khinh bỉ? Giôdép hỏi. Chỉ có anh thôi! Tại sao lại coi những vấn đề ấy quan trọng đến thế? Tôi có khinh Pônman không? Tôi có khinh những người vẫn đêm đêm liều thân họ để che dấu tôi không? Không có họ, tôi còn sống được không? Sao anh ngây thơ thế.

Bỗng ông mỉm cười, một nụ cười gần như xa lạ với mặt ông.

– Chúng ta không nên đi lạc đề, ông nói. Vả lại chúng ta cũng nói nhiều quá rồi đấy. Không nên nói; cũng không nên suy nghĩ. Chưa đến lúc. Làm thế yếu người đi. Cả những kỷ niệm cũng làm người ta ủy mị. Làm như thế còn rất sớm. Hiện nay chỉ còn một mục đích mà ta không nên bỏ qua: đó là việc sống còn. – Ông ta đưa tay chỉ về phía những hộp đồ ăn. – Cái này giúp được chúng ta sống. Tôi xin nhận, cảm ơn.

Ông cầm hộp và định xếp sau dãy sách. Cử chỉ của ông vụng về khác thường. Gơrebê thấy những đốt đầu ngón tay của ông quắp lại và không có móng. Giôdép để ý thấy cái nhìn của anh.

– Một kỉ niệm nhỏ ở trại đấy, ông giải thích. Lối giải trí ưa thích của một thằng tiểu đội trưởng[90]. Nó gọi thế là châm những cây No-en. Nến là những cây diêm vót nhọn. Tôi thích nó làm vào ngón chân. Ở đấy khó trông thấy hơn. Làm thế này dễ bị người ta nhận ra lắm. Không phải lúc nào cũng đeo găng được.

Gơrebê đứng dậy.

– Một bộ binh phục và một quyển sổ quân nhân có thể giúp ông được việc gì không? Ông muốn thêm bớt gì trong đó thì làm. Còn tôi, tôi bảo là nó đã bị cháy rồi.

– Cảm ơn anh, vô ích thôi. Tôi tạm thời trở thành người Rumani. Chính Pônman đã nghĩ ra thế và ông ta lo liệu cả. Ông ta là bậc thầy về môn ấy đấy. Trông ngoài thì ai dám bảo thế nhỉ? Như thế tôi trở thành người Rumani, hội viên của mặt trận Sắt[91], nghĩa là bạn với bọn quốc xã. Bề ngoài của tôi cũng hợp với sự biến đổi ấy đấy. Cũng có thể dựa vào đó mà giải thích những vết thương của tôi được. Đó là do bọn cộng sản gây ra. Anh muốn đem vali và chăn đệm đi ngay à?

Gơrebê cảm thấy Giôdép muốn được ở lại một mình.

– Ông còn ở đây lâu ư? Anh hỏi.

– Chi vậy?

Gơrebê đẩy tới ông một số hộp anh đã đem đến.

– Tôi có thể lấy thêm cho ông được. Tôi lại quay đến đấy đây.

– Thế này là quá rồi. Tôi không mang được nhiều. Vả lại tôi cũng phải đi. Tôi không thể chờ lâu được.

– Còn thuốc lá, tôi quên thuốc lá. Mà có thiếu gì thuốc đâu. Tôi sẽ đem đến cho ông.

Bộ mặt Giôdép thay đổi. Ông bỗng có một vẻ thoải mái, gần như dịu dàng.

– Thuốc lá à, ông nói như đang nói về một người bạn thân, thế lại là chuyện khác. Thứ ấy đáng kể hơn thức ăn. Nếu vậy, nhất định tôi sẽ chờ anh.

[86] Bõ: người chuyên coi đồ thời, quần áo lễ ở các nhà thờ Thiên Chúa giáo.

[87] Cuộc đời lang thang, vô định của những kẻ chuyên sóng về nghề bói toán, ăn xin hay ăn cắp, vẫn thường tự xưng là nguồn gốc ở vùng Bôham, một vùng giàu có bậc nhất ở Tiệp.

[88] Đạo Cơ đốc bắt đầu có được cơ sở vững chắc ở La Mã, hồi đầu thế kỷ 1 Công nguyên và những thành phần trung kiên nhất gồm: - những người nô lệ bị bắt ra chiến đấu với thú dữ hay với những người chiến đấu chuyên nghiệp khác (gladiateurs) tại đấu trường (arène) ở La Mã vào những ngày lễ lớn để mua vui cho bọn hôn quân bạo chúa như Nêrông, Xeeda,v.v…- ngoài ra còn những tín đồ của đạo bị tàn sát phải bỏ trốn ra sống lẩn lút ở những khu hầm mộ bên ngoài thành La Mã. Những người đó được Pôn, Pie, v.v… tổ chức và truyền giáo; họ đã phát triển thành một lực lượng mỗi ngày một mạnh của đạo Cơ đốc, và sau đó Pôn, Pie đã trở thành những thánh tông đồ đầu tiên của đạo Cơ đốc.

[89] Những hoạt động đầu tiên của những phần từ phát xít ở Đức bắ đầu từ hồi 1922 – 1923, ở Muyních, thủ đô nước Cộng hòa Bavie, một trong những nước Cộng hòa của Đức do những giới phản động và bảo thủ nhất cầm quyền. Bọn chúng thường hay tụ tập ở các tiệm rượu bia ở Muyních để tuyên truyền chính trị, tranh cãi, gây rối loạn rồi đập phá và ẩu đả với nhau. Trong thời gian này chính Hítle đã có lần bị bỏ tù vì những hành động phá rối trật tự ấy, nhưng bọn chúng được thống chế Đức Ludenđoc trong chính phủ Hinđenbua che chở nên đã lớn mạnh dần và tiến tới giành được chính quyền và thiết lập chế độ phát xít ở Đức.

[90] Nguyên văn: scharfuhrer, một chức vụ trong quân đội quốc xã tương đương với chức thượng sĩ.

[91] Một tổ chức phát xít của Rumani dưới thời thế chiến 2.