Chương 22
Một số người đã đứng đợi dưới hành lang của nhà thờ Thánh Catơrin. Hầu hết đều ngồi trên vali hay giỏ xách, hoặc giữa những balô và gói. Phần lớn là đàn bà và trẻ con. Một bà già, mặt như mặt ngựa, ngồi ngay bên cạnh Gơrebê.
– Miễn là người ta đừng đưa chúng ta đi như những người tị nạn là được, bà cụ nói. Nghe đồn về những chuyện ấy thật là chán. Ở thì ở nhà gỗ, chỉ có một chút thức ăn, và gặp toàn những người nhà quê tham lam và cục cằn.
– Cháu thì thế nào cũng được, một cô gái cao và gầy nhom nói. Cháu chỉ muốn đi khỏi đây. Cái gì cũng được trừ bom đạn. Người ta phải lo liệu cho mình chứ, chúng ta mất hết trơn rồi còn gì.
– Mới vài hôm nay, tôi có trông thấy một đoàn tị nạn người Renan. Trông họ mới tội làm sao. Họ được đưa về Mếchlembua[92].
– Vùng Mếchlembua à? Nông dân ở vùng đó giầu đấy.
– Nông dân mà giầu à? Bà già có một bộ mặt ngựa cười soi mói. Họ bắt mình làm việc đến rục xương ra. Mà họ chỉ cho ăn đủ để khỏi chết đói. Quốc trưởng chắc phải biết việc này chứ.
Gơrebê nhìn bà già và cô gái gầy nhom. Đằng sau họ, khu vườn của nhà thờ hiện lên sau hàng cột kiến trúc kiểu la tinh. Những bông thủy tiên mọc dưới chân những bức tượng nhỏ của đức Chúa Giêsu trên đường thụ hình. Một con chim họa mi đậu và hót trên vai Đức Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự.
– Những người giầu phải cho chúng ta ở không, cô gái gầy nói. Chúng ta là nạn nhân của chiến tranh, là nạn nhân của chiến tranh, cô ta nhắc lại.
Ông bõ đi tới[93]. Ông ta người mảnh khảnh, mũi dài và đỏ, hai vai xuôi. Gơrebê khó mà hình dung nổi người này lại có can đảm dấu những người bị sở Ghextapô lùng bắt.
Ông bõ cho tất cả mọi người vào. Ông ta phát cho mỗi người tấm thẻ có số và đặt lên trên mỗi gói đồ một tấm giấy cũng ghi số đó.
– Tối nay, anh đừng về trễ quá nhé, ông nói với Gơrebê. Trong nhà thờ không có nhiều chỗ đâu.
– Không có nhiều chỗ ư? Nhà thờ rộng lắm mà.
– Phải, nhưng không ai được vào thánh đường, chỉ có hầm và bên rìa giáo đường là được dùng làm chỗ trú.
– Những người về muộn quá thì ngủ ở đâu?
– Ở hậu lang[94] hay những chỗ còn trống. Cũng có người ở ngay ngoài vườn.
– Hầm có chịu nổi bom không?
Ông ta dịu dàng nhìn Gơrebê.
– Khi xây nhà thờ, không ai nghĩ đến chuyện ấy. Nó có từ thời được gọi là đêm thời trung cổ.
Bộ mặt ủ rũ với cái mũi dài không lộ vẻ gì, cũng không có chút gì châm biếm. Gơrebê nghĩ, chúng ta đã tiến rất xa về nghệ thuật che giấu. Hầu hết người nào cũng trở thành bậc thầy về môn đó.
Anh đi qua hậu lang vào nhà thờ đã bị tàn phá nặng; một tháp chuông bị sập đổ và ánh sáng ban ngày tràn đầy thánh đường. Mặt trời rọi những mảng nắng, gay gắt, to vào khoảng tối mờ, đầy vẻ tôn nghiêm. Nhiều tấm kính hoa đã bị vỡ nát, chim sẻ đánh nhau giữa những ánh mầu sặc sỡ. Kho đồ lễ chỉ còn là một đống gạch vụn; từ trong nhà thờ, người ta đi thẳng vào hầm trú ẩn, Gơrebê đi xuống đấy. Đó là một cái hầm để rượu của nhà thờ. Những giá đỡ các thùng rượu vẫn còn. Không khí mát, ẩm và thơm. Mùi rượu già hàng thế kỷ át cả mùi những đêm bom đạn; trong xó hầm, Gơrebê thấy những vòng sắt nặng gắn liền vào tường đá. Lúc đó, anh mới nhớ ra rằng cái hầm này còn dùng làm hầm tra tấn các mụ phù thủy và những kẻ phản đạo trước khi trở thành hầm rượu. Người ta treo tay những người khốn khổ lên vòng sắt và nung sắt cho đỏ để nướng da thịt họ cho đến khi họ nhận tội. Sau đó mới nhân danh Chúa và lòng bác ái của đạo Giatô giết chết họ. Những tên na-di tàn bạo đã có những bậc tiền bối mẫu mực. Và con ông thợ mộc thành Nadarét[95] đã có những môn đệ thật kỳ dị.
* * *
Anh đi vào phố Átlê. Đã sáu giờ chiều. Suốt một ngày, anh đã mất công đi tìm một căn phòng mà không được. Anh thấy mệt mỏi và quyết định thôi không đi tìm nữa.
Khu phố bị tàn phá hoàn toàn. Đi giữa những cảnh đổ nát nối tiếp nhau, lòng anh se lại. Bỗng anh ngạc nhiên dừng lại. Một căn nhà nhỏ hai tầng đứng sững trước cảnh tàn phá. Căn nhà đã cổ và không được ngay ngắn lắm nhưng còn nguyên vẹn. Một mảnh vườn bao quanh nhà. Đúng là một vùng đất tươi tốt giữa bãi sa mạc tan hoang này. Những bụi cây đinh hương nghiêng mình xuống một hàng rào không thiếu một thanh gỗ lát. Cách đấy hai mươi bước lại bắt đầu cảnh giá lạnh như ở mặt trăng. Nhưng căn nhà nhỏ này và mảnh vườn con của nó đã tránh được hư hại như một phép mầu thường đi đôi với những cuộc tàn phá khổng lồ. Trên một tấm biển treo phía trên cửa, có chữ: quán Vittơ.
Cổng vườn để mở. Gơrebê bước vào. Anh không ngạc nhiên khi thấy không một miếng kính nào bị vỡ. Anh đoán trước là sẽ như vậy. Sự chờ đợi một phép mầu không xa nỗi tuyệt vọng là bao nhiêu… Một con chó săn, tai dài ngủ gần cổng. Những khóm thủy tiên, viôlét và một lẵng hoa tulíp đang rộ hoa. Trông những vật này, anh có cảm giác như đã quen biết chúng từ lâu rồi, và sau bao nhiêu năm lãng quên nay mới thấy lại chúng. Có thể anh chỉ mới mơ đến chúng. Anh đẩy cửa vào.
Gian phòng trống rỗng. Trên giá có vài cái ly, không thấy một cái chổi nào, những vòi nước bằng đồng bóng loáng, những thùng rửa cốc, chén sạch sẽ và khô ráo. Ba cái bàn có ghế chung quanh, kê sát tường. Một bức tranh độc nhất treo trên tường: tranh phong cảnh vùng Tyrôn[96]. Một thiếu nữ mặc y phục địa phương đang ngồi chơi một cây đàn giây[97] và một chàng thanh niên thiện xạ ghé xuống gần nàng. Không thấy hình quốc trưởng. Bước vào đây, Gơrebê đã biết trước rằng anh sẽ không thấy cái của đó.
Một người đàn bà đứng tuổi bước ra. Bà ta mặc một cái áo tạp dề xanh đã bạc màu, hai tay áo xắn cao. Bà không hô: Hítle muôn năm! Bà chỉ nói: chào ông và trong tiếng chào đó, đúng là có cảnh êm đềm của buổi chiều tà. Sau một ngày bận rộn, đó là lời ước nguyện cầu mong cho buổi tối được êm dịu và tốt đẹp. Gơrebê nghĩ, sao tất cả cái đó tự nhiên và lạ thường đến thế. Thoạt tiên anh muốn uống một chút để rũ hết bụi bậm, vôi vữa mà anh đã thở hít suốt ngày – nhưng anh thấy hình như Elidabét và anh cần phải cùng nhau ở đây trong buổi tối này. Phải đi vào nơi huyền ảo này, nơi mà thảm cảnh và những nỗi sầu đau của chiến tranh đều phải dừng lại bên ngoài.
– Có thể ăn tối ở đây được không bà? anh hỏi.
Người đàn bà ngạc nhiên nhìn anh.
– Tôi có nhiều thực phẩm đây, anh nói tiếp rất nhanh. Buổi chiều được ở đây, trong vườn này thì tuyệt lắm. Tôi chỉ còn vài ngày phép. Sau tôi lại phải ra mặt trận. Nếu bà muốn, chúng tôi trả bằng hiện vật thì tôi cũng có mấy hộp thức ăn đây.
– Chiều nay chúng tôi chỉ có đậu thôi. Đã từ lâu, chúng tôi không bán hàng…
– Nhưng, đậu cũng tuyệt lắm rồi! Gơrebê nói. Từ khi có chiến tranh đến nay, tôi không được ăn đậu nữa!
Bà già mỉm cười. Nụ cười dịu dàng đó như từ một dĩ vãng xa xôi hiện ra.
– Nếu anh chỉ cần có thế, thì anh cứ đến. Nếu trời không lạnh, anh cũng có thể ngồi ngoài vườn.
– Vâng, lúc đó chắc trời còn sáng. Tám giờ chúng tôi đến có được không?
– Lúc nào anh đến cũng được, đậu có thể để được.
* * *
Trên bậc cửa có một phong thư. Anh nhận ra chữ mẹ anh. Phong thư từ mặt trận trở về. Anh xé phong bì. Bằng vài dòng viết vội, bà báo cho anh biết rằng ngày mai, cha anh và bà sẽ cùng một đoàn người lánh nạn rời khỏi thành phố. Bà không biết sẽ đến nơi nào. Anh không nên lo. Đó là một biện pháp đề phòng thôi.
Anh tìm ngày gửi. Lá thư viết một tuần trước ngày anh về đến nhà. Không đả động gì đến những trận ném bom. Mẹ anh tính cẩn thận! Có lẽ bà sợ thư bị kiểm duyệt. Không chắc là ngôi nhà đã bị phá hoại trước ngày bố mẹ anh đi. Nếu như người ta tản cư cả hai ông bà đi, thì chắc là cả hai đã gặp tai nạn nào rồi.
Anh từ từ gấp lá thư và đút vào túi. Thế là bố mẹ anh còn sống. Anh có thể tin chắc điều ấy ở mức người ta có thể chắc chắn được đối với bất cứ việc gì trong thời chiến. Anh nhìn chung quanh, mắt hơi bị lóa. Tấm màn xám mà từ ngày về, anh vẫn trông mọi sự việc qua đó, bỗng vừa rơi. Phố Haken là một phố bị ném bom và bị phá hủy, không hơn không kém. Đám mây u buồn và lo sợ vẫn bao phủ căn nhà số 18 bỗng tiêu tan. Ở đó chỉ còn những cục gạch vô hại. Anh hít một hơi thật dài. Anh không thấy một niềm vui nào. Chỉ có cái khối nặng đã hai tuần nay đề trĩu lên vai anh vừa tan mất để lại cho anh một cảm giác nhẹ nhàng, hơi choáng váng. Không lúc nào, anh nghĩ rằng, trước khi đi, anh sẽ được gặp bố mẹ. Hy vọng ấy bị chôn vùi từ lâu. Anh chỉ cần biết bố mẹ anh còn sống. Bố mẹ anh còn sống, thế là anh được phép sống cho trọn vẹn.
Phố này còn bị bắn phá thêm trong trận ném bom sau. Ngôi nhà còn nguyên mặt tiền chuyến anh đến thăm trước, nay đã bị phá hủy hoàn toàn. Cánh cửa dán đầy thư, được dựng giữa hai mảng tường cách đấy vài thước. Gơrebê tự hỏi, không biết người trưởng khối điên đã ra sao thì anh thấy hắn đi qua phố tiến lại anh.
– Kìa, anh lính! người điên nói. Vẫn còn ở đây à?
– Phải, cả ông cũng thế mà!
– Anh đã nhận được thư chưa?
– Rồi.
– Thư tới đấy trưa hôm qua. Có thể xóa tên anh trên cửa được rồi đấy. Ở đây thiếu chỗ mà có nhiều người đang đợi.
– Chưa đâu, Gơrebê nói. Để vài ngày nữa đã.
– Đã đến lúc rồi, viên trưởng khối nói, vẻ nghiêm khắc. Lòng kiên nhẫn của chúng tôi có giới hạn thôi.
– Ông là chủ bút thứ báo này à?
– Một người trưởng khối phải quan tâm đến tất cả mọi việc. Trưởng khối tượng trưng cho trật tự: Chúng tôi còn một bà góa với ba con bị mất tích trong trận ném bom vừa qua. Chúng tôi cần chỗ nhắn tin về bà ấy.
– Thế thì lấy chỗ của tôi đi. Bây giờ người đưa thư như đã quen để thư của tôi trước ngôi nhà đổ kia rồi.
Viên trưởng khối gỡ lá thư của Gơrebê ở cửa ra và đưa cho anh. Anh định xé đi thì hắn ngăn lại.
– Anh điên đấy à, anh lính? Không ai xé những thứ này! Anh mà xé, cái vận may làm anh còn sống sót đến hôm nay cũng tiêu luôn đấy! Lá thư này đã cứu anh thoát được một lần sẽ còn cứu anh mãi! Anh thật dại dột!
– Phải, Gơrebê cất mảnh giấy vào túi và nói, tôi cũng chỉ xin được như thế này càng lâu càng tốt. Bây giờ ông ở đâu?
– Tôi phải dọn nhà đi rồi. Tôi tìm được một cái hang đủ thoải mái, ở dưới một hầm nhà. Tôi thuê lại của một gia đình nhà chuột. Rất thú.
Gơrebê nhìn hắn. Bộ mặt tiều tụy của hắn không lộ vẻ gì.
– Tôi định thành lập một hội, hắn nói. Hội những người có thân nhân bị chôn vùi dưới các nhà đổ. Phải đoàn kết lại, nếu không thành phố sẽ chẳng làm gì cả. Chẳng hạn, chúng ta đòi hỏi là những nơi có người chết vùi dưới gạch đá phải được cha cố đến ban phép lành và được tôn trọng như nghĩa trang vậy. Anh có hiểu không?
– Hiểu, hiểu rõ lắm.
– Có thế chứ. Có người cho tôi là ngốc. Nhưng anh, anh có ở trong hội đâu. Bây giờ anh đã có cái thư khốn khiếp của anh rồi.
Nét mặt căng thẳng của hắn biến đổi, phản ánh một cảm giác đau đớn và một cơn phẫn nộ khôn tả. Con người khốn khổ ấy quay gót và bước những bước dài đi.
Gơrebê đưa mắt nhìn theo hắn một lát. Rồi anh cũng bỏ đi. Anh quyết định không nói với Elidabét rằng bố mẹ anh còn sống.
* * *
Cô đi một mình ra khỏi xưởng và qua quảng trường để đến với anh. Trông cô bé hẳn lại như lọt thỏm vào khoảng trống bao la mà ánh hoàng hôn còn làm rộng thêm.
– Em lại được nghỉ nữa, cô thở hổn hển và nói.
– Được bao nhiêu lâu?
– Ba ngày, ba ngày cuối cùng.
Cô im bặt, lặng người vì xúc động, nước mắt long lanh.
– Em trình bày hoàn cảnh với họ, họ không làm khó dễ gì. Sau này có lẽ phải làm bù, nhưng không hề gì. Lúc ấy đối với em thế nào cũng xong. Có lẽ bận việc lại hay hơn.
Gơrebê không trả lời. Anh đau nhói khi thấy rằng hai người sắp phải xa nhau trong một tương lai rất gần. Từ lâu, anh đã biết vậy nhưng anh cũng chỉ biết rõ những tiền giả định kín đáo của cuộc đời mà không bao giờ ước lượng được sức nặng và tầm quan trọng của nó. Cho đến lúc này, biết bao dự án, lo toan và hy vọng đã che mất cái kỳ hạn ấy, bây giờ nó ở đó, như một sự thật lẻ loi, không chối cãi được, ánh chói lọi của nó như một tia quang tuyến X đã xuyên qua vẻ duyên dáng, thần diệu của cuộc đời và chỉ soi rọi phần cần thiết, thô sơ và lạnh lùng nhất.
Họ nhìn nhau. Tình cảm của họ chỉ là một, và cả hai, người nào cũng hiểu rằng người kia đau khổ biết chừng nào. Tuy đứng lặng nhưng họ thấy lảo đảo như trong cơn bão táp. Mối tuyệt vọng mà cả hai vừa trốn chạy, lại theo kịp họ. Họ thấy bị cô độc và ngăn cách nhau – Gơrebê thấy Elidabét thui thủi một mình trong xưởng, trong hầm hay trong phòng, chờ đợi nhưng không hy vọng chút nào – còn cô thì thấy anh trở lại với cảnh nguy hiểm, vì một mục đích mà anh không tin chút nào. Một tình cảm thương mến khổ đau trào đến đe dọa nhấn chìm hai người và họ đã phải lấy hết nghị lực ra phấn đấu để khỏi phải nhượng bộ, để khỏi bị làn sóng ấy đang đổ ào xuống cuốn theo. Họ đứng bên nhau, ghì chặt lấy nhau một lúc lâu, cả hai cùng đương đầu với một mối xúc cảm đau thương giống nhau. Một thời gian vô tận trôi qua trước khi lớp sóng đó rút đi.
Gơrebê thấy Elidabét dần dần ráo nước mắt, hình như chúng lại chảy lui vào trong.
– Thế là chúng ta lại có mấy ngày sống trọn vẹn bên nhau, một lát sau hồi lại, anh mới nói được.
Cô gắng mỉm cười.
– Vâng, bắt đầu từ chiều mai.
– Tốt. Bởi vì chúng ta chỉ còn vài buổi chiều, phải làm như bỗng nhiên phép của anh được kéo dài thêm vài tuần nữa.
– Vâng, cô nói.
Họ lại bước đi. Ánh chiều tà giăng trên một khung cửa sổ trống rỗng một mảnh rèm màu hồng.
– Chúng ta sẽ ngủ ở đâu? Elidabét hỏi.
– Nếu bên gian chính nhà thờ còn chỗ thì ngủ ở đó, nếu không chúng ta sẽ ngủ ở hậu lang. Nhưng trước hết chúng ta hãy đi ăn một đĩa đậu đã.
Quán Vittơ hiện lên giữa cảnh tan hoang. Tuy đã biết trước, nhưng khi thấy lại nó, Gơrebê cũng phải ngạc nhiên, vì sao trông nó huyền ảo thế. Họ đẩy cổng vào.
– Em thấy chỗ này thế nào? anh hỏi.
– Trông tưởng như một cảnh tĩnh mịch bị thời gian quên lãng, cô nói.
– Đúng thế, phải không, và buổi tối nay của chúng ta ở đây cũng sẽ phải như thế.
Hơi đất ẩm thơm thơm bốc từ những luống hoa lên. Hình như người ta vừa tưới hoa. Con chó đi vơ vẩn quanh nhà; thấy họ vào, nó khẽ vẫy đuôi.
Bà Vittơ ra đón họ. Bà mặc một cái áo tạp dề trắng.
– Anh chị muốn ở ngoài vườn không? bà hỏi.
– Vâng, Elidabét nói, nhưng nếu có thể thì bà cho cháu rửa tay trước đã.
– Được chứ cô.
Bà Vittơ đưa Elidabét vào nhà. Cả hai lên tầng gác thứ nhất. Gơrebê đi qua bếp ra vườn. Một cái bàn trải khăn kẻ ô vuông đỏ và trắng đã được kê ở đó. Hai cái ghế và hai bộ thìa, dĩa đã được sắp sẵn. Gơrebê cầm bình nước lạnh để giữa bàn, rót một ly nước và uống cạn. Anh thấy nước ấy còn ngon hơn rượu ở tiệm Giécmania. Cái vườn to hơn người ta tưởng khi đứng ngoài đường nhìn vào. Những cây hương mộc, đinh hương và vài cây đã già rồi, cành lá được tiết xuân làm xanh mơn mởn bao quanh bãi cỏ mới xén.
Elidabét trở ra.
– Anh làm thế nào mà tìm ra được chỗ này thế? cô hỏi anh.
– Vô tình thôi: chỉ có vận may mới có thể dẫn được anh đến đây.
Họ đi qua lớp cỏ đến vuốt những búp cây non.
– Đinh hương đã có nụ cả rồi, Elidabét nói. Chúng còn xanh và nhớt nhưng hoa nở cũng chóng thôi.
– Phải, Gơrebê nói, chỉ vài tuần nữa là có hoa.
Cô đi lại gần anh. Cô toát ra mùi nước mát rượi, xà phòng và tuổi thanh xuân.
– Sao ở đây dễ chịu thế nhỉ! Lạ lùng thật, em có cảm giác như đã đến đây rồi…
– Trưa nay, anh cũng có cảm giác ấy.
– Anh và em đã ở trong vườn này rồi, những lời chúng ta nói và những cử chỉ chúng ta làm, hình như tất cả những cái đó trước đây đã có rồi. Và em cũng cảm thấy rằng chỉ cần một chút thôi, một chi tiết bé nhỏ xảy ra là em lại nhớ rất rõ mọi việc – cô ngả đầu vào vai anh. – Nhưng cái chút ấy sẽ không bao giờ trở lại cả; chúng ta sẽ không bao giờ có cái chìa khóa bí mật của dĩ vãng. Có lẽ cảnh này sẽ yên nghỉ mãi mãi trong chúng ta, có lẽ nó sẽ còn ám ảnh mãi chúng ta trong tương lai…
Bà Vittơ mang ra một liễn súp đậy kín.
– Tôi trả phiếu ngay cho bà đây, Gơrebê nói. Thật tình là chúng tôi không còn nhiều, trận bom vừa qua đã đốt cháy cả. Nhưng chắc chỗ còn lại cũng đủ.
– Tôi không lấy nhiều của anh đâu, bà Vittơ nói. Đậu là từ trước chiến tranh đấy, chỉ cần phiếu mua xúc xích và bơ thôi. Anh muốn uống gì nào? Tôi hãy còn vài chai bia.
– Thế thì hay lắm. Chúng tôi đang thèm bia.
Mặt trời chiều đã lặn hẳn. Một con họa mi không biết ở đâu cất tiếng hót. Gơrebê nhớ là anh đã được nghe tiếng hót này một lần trong ngày hôm nay. Con họa mi đã đậu trên một bức tường trên con đường lên thánh giá của Chúa trong hành lang nhà thờ. Từ đó đến nay, biết bao nhiêu việc đã xảy ra. Anh nhắc nắp liễn lên.
– Xúc xích này, anh nói, em thấy không? Lại cả một đĩa đậu. Chúng ta sắp được ăn một bữa ngon tuyệt!
Anh múc đầy đĩa và trong giây lát, anh có cảm giác là mình đã có một căn nhà, một mảnh vườn, một người vợ, một bữa ăn thịnh soạn và cảnh thanh bình được bảo đảm chắc chắn.
– Elidabét này, anh nói. Nếu như người ta cho em được sống với anh mười năm của đời em trong vườn giữa cảnh tan hoang này, em sẽ làm gì?
– Em sẽ nhận ngay, và nếu là hơn mười năm em cũng cứ nhận!
– Anh cũng thế.
Bà Vittơ mang bia ra. Gơrebê mở chai và rót bia vào ly. Họ uống. Bia mát và ngon. Họ vừa nhìn nhau vừa ăn từ từ, không dám tin vào hạnh phúc của mình.
Đêm tới. Một ánh đèn pha quét trên bầu trời rồi biến mất. Con họa mi đã lặng thinh không hót nữa.
Bà Vittơ lại quay ra múc thêm xúp vào liễn.
– Anh chị ăn ít quá, bà nói, thanh niên phải ăn khỏe chứ.
– Chúng tôi ăn hết sức rồi đấy; liễn xúp đã hết đâu…
– Để lấy thêm xàlát và phómát.
Trăng lên.
– Bây giờ thì thật là đẹp, Elidabét nói. Trăng, vườn, một bữa cơm vừa ăn xong, lại một buổi tối sắp tới. Nhiều hạnh phúc thế thì chịu sao nổi!
– Thế mà trước kia, đó lại là điều bình thường nhất trên đời đấy.
Cô gật đầu và đưa mắt nhìn chung quanh.
– Ngồi ở đây, không trông thấy một ngôi nhà đổ nào cả. Cây cối che hết rồi. Thế mà có những nước chỗ nào cũng như thế này đấy!
– Khi nào chiến tranh chấm dứt, chúng ta sẽ đi đến đó chơi. Chúng ta sẽ đi tới những thành phố còn nguyên vẹn, ban đêm đèn sáng trưng. Chúng ta sẽ đi dạo chơi dọc những tủ kính sáng loáng đến nỗi trời tối mà vẫn trông rõ như ban ngày.
– Anh đoán người ta có cho chúng ta vào không?
– Đi du lịch à? Sao lại không? Sang Thụy Sĩ chẳng hạn.
– Thế thì phải có phơrăng Thụy Sĩ, làm sao mà có được?
– Chúng ta sẽ đem máy ảnh sang đó để bán. Với tiền ấy, chúng ta có thể sống được vài tuần.
Elidabét cười.
– Máy ảnh hay đồ nữ trang, hay lông thú, tóm lại tất cả những thứ đắt tiền mà chúng ta không có…
Bà Vittơ mang xàlát và phómát ra.
– Anh chị ở đây thấy dễ chịu không?
– Chúng tôi thấy khoan khoái vô cùng. Chúng tôi ở đây một lát nữa được không?
– Muốn ở bao nhiêu lâu cũng được. Còn cà phê nữa đấy. Tất nhiên là chỉ có cà-phê phế phẩm.
– Lại cà-phê nữa. Chúng mình hôm nay sống như ông hoàng bà chúa, Gơrebê nói.
Elidabét lại cười.
– Phải, thoạt tiên chúng ta sống như ông hoàng bà chúa. Có trứng cá, patê, gan ngỗng và rượu Palatina[98]. Chiều nay chúng ta sống như những người bình thường. Sau này, chúng ta sẽ sống như thế. Có phải sống như vậy là đẹp không?
– Phải đấy, Elidabét ạ.
Gơrebê nhìn cô mãi không chán. Lúc ra khỏi xưởng trông cô bơ phờ, mệt mỏi. Bây giờ mắt cô long lanh đầy sinh khí của tuổi thanh xuân. Sao cô hồi phục lại nhanh đến thế, và chẳng cần gì nhiều, cô cũng hồi phục được.
– Được sống là đẹp lắm rồi. Cô nói. Chúng ta không quen sống mấy. Không quen với nhiều điều khác nữa. Mà cũng vì vậy mà chúng ta còn nhiều việc trước mắt chúng ta. Tất cả những gì đối với người khác chỉ là việc hàng ngày, bình thường thì đối với chúng ta lại là một sự kiện lớn lao. Chẳng hạn như không khí không có mùi khói, một bữa ăn không cần phiếu, những cửa hiệu muốn mua gì cũng có, những thành phố không bị ném bom. Hoặc nói chuyện mà không cần đề phòng người bên cạnh, không phải sợ hãi nữa. Muốn thế cần phải có thời gian, nỗi sợ hãi chỉ mất đi dần và dù cho nó có trở lại một lần nữa, thì ta lại càng thấy vui hơn và ta có thể nói rằng nỗi sợ hãi ấy là hão huyền, anh có nghĩ thế không?
– Có chứ, Gơrebê nói, vẻ khó nhọc. Nếu em quan niệm như thế, tất nhiên một nguồn hạnh phúc rất lớn đang chờ chúng ta.
Họ ngồi lại thật lâu. Gơrebê trả tiền và bà Vittơ đã lui về phòng. Như vậy họ có thể ngồi trong vườn một thời gian lâu nữa.
Trăng đã lên cao. Mùi đất và lá cây ban đêm xông lên mạnh hơn và vì không có cơn gió nào nên nó đã át mùi tro than và rác rưởi còn lẩn quẩn khắp các phố. Có tiếng sột soạt của một con mèo đang đuổi chuột trong bụi rậm. Chuột sinh sôi nảy nở trong thành phố nhiều hơn trước; chúng kiếm được vô số thức ăn dưới đống nhà đổ.
Mãi tận mười một giờ, họ mới ra về. Họ cảm thấy như rời một hòn đảo để trở về lục địa.
– Anh đến muộn quá, người bõ nói với họ. Không còn chỗ nữa.
Đó không phải là người bõ anh gặp lúc sáng. Người này trẻ hơn, râu cạo nhẵn, vẻ nghiêm trang và cứng nhắc. Có lẽ người này đã tố cáo Giôdép, Gơrebê nghĩ vậy.
– Chúng tôi có thể ngủ ở ngoài vườn khu hậu lang được không?
– Tất cả các chỗ có mái ở khu hậu lang đều có người rồi. Sao anh không đến trạm đón tiếp người bị nạn của thành phố?
Câu hỏi vào lúc nửa đêm này thật là ngớ ngẩn.
– Chúng tôi tin ở Chúa hơn, Gơrebê nói.
Người bõ nghiêm khắc nhìn anh một lát.
– Nếu anh ở lại đây, anh phải ngủ ở ngoài trời.
– Cũng không sao!
– Các người có phải là vợ chồng không?
– Phải, sao vậy?
– Đây là nhà của Chúa. Những người không phải là vợ chồng không được nằm gần nhau. Dãy hậu lang chia làm hai khu, một khu cho đàn ông, một khu cho đàn bà.
– Thầy phân chia cả những người là vợ chồng?
– Phải. Khu hậu lang thuộc về nhà thờ, không thể để việc sắc dục xảy ra ở đây được. Vả lại trông anh chị không phải là vợ chồng.
Gơrebê đưa giấy hôn thú ra. Người bõ đeo một cái kính gọng thép ra và ghé lại gần một cây đèn đêm.
– Chưa được bao lâu, y gắt.
– Giáo lý đâu có quy định thời hạn.
– Anh chị đã làm lễ cưới đạo chưa?
– Tôi nói để thầy nghe nhé, Gơrebê nói. Chúng tôi mệt rồi. Vợ tôi làm việc suốt ngày. Bây giờ chúng tôi sẽ vào ngủ ở vườn khu hậu lang. Nếu thầy không bằng lòng, thầy cứ thử trục xuất chúng tôi ra xem. Nhưng thầy phải tìm người đến giúp đã, thầy làm một mình việc ấy không nổi đâu.
Một linh mục từ trong bóng tối đột ngột hiện ra. Chắc ông ta đã đi rón rén. Ông ta hỏi.
– Có việc gì thế?
Người bõ trình bày sự việc với ông linh mục. Nghe được vài câu, linh mục ngắt lời y.
– Bômê, ông nói, con đừng coi mình như Chúa tối cao. Người ta bắt buộc phải đến ngủ ở đây, đã là việc đáng buồn rồi. – Ông quay về phía Gơrebê – Nếu ngày mai anh không có chỗ trú, anh hãy đến số 7 phố Nhà Thờ trước lúc chín giờ, anh hỏi linh mục Biđenđích. Bà quản gia của tôi sẽ xếp cho anh một chỗ.
– Xin cảm ơn Cha.
Biđenđích gật đầu và đi.
– Thấy chưa, đồ tôi đòi của Chúa! Gơrebê nói với người bõ. Một vị chức sắc đã ra lệnh rồi. Hãy tuân lệnh đi! Nhà thờ là cái chế độ độc tài duy nhất còn đứng vững được sau bao nhiêu thế kỷ. Bây giờ hãy chỉ cho chúng tôi đi lối nào vào khu hậu lang.
Người bõ dẫn họ vào phòng chứa đồ thờ. Những quần áo lễ lóng lánh trong bóng tối. Họ đi qua một cái cửa, một lối đi dài và ra vườn khu hậu lang.
– Đừng ngủ trên mồ các vị giám mục nhé. Bômê càu nhàu nói. Các người không được ngủ gần nhau. Và cấm không được cởi quần áo.
– Có thể cởi giầy ra được không?
– Giầy thì được.
Họ dò dẫm bước lên trước. Những tiếng ngáy hòa với nhau vang lên dưới các vòm cuốn. Gơrebê trải tấm vải bạt và chăn lên cỏ. Anh nhìn Elidabét. Cô cười.
– Em cười gì?
– Người bõ làm em buồn cười quá, cả anh nữa.
Gơrebê kê chiếc vali vào sát tường và lấy sắc của mình làm gối. Bỗng một giọng đàn bà nổi lên giữa những tiếng ngáy nhịp nhàng. “Không, không, ồ, ồ, ồ, ”. Tiếng kêu tắt đi trong hơi thở khò khè. “Im đi”. Có tiếng đàn ông gầm lên. Tiếng kêu lại nổi lên. “Mẹ kiếp, im đi nào”. Tiếng nói giận dữ lại tiếp tục vang lên. Tiếng kêu bỗng ngừng bặt như bị chặn đứng lại.
– Đúng là giống người làm chúa tể của muôn loài đấy, Gơrebê nói. Ngay trong giấc mơ, chúng ta chỉ nghe thấy tiếng nói là cũng phục tùng răm rắp rồi!
Họ nằm bên nhau, gần như chỉ có mình họ nằm sát tường, những đống lù lù là những chỗ có người ngủ. Mặt trăng chiếu vào gác chuông đã đổ. Một tia sáng trăng nhạt soi xuống một tấm mồ của các vị giám mục. Nó đã bị sắt mẻ nhiều chỗ, không phải vì bom mà là công trình của thời gian. Một cây thập tự to, chung quanh là những bụi tường vi đứng sững giữa vườn. Có thể đoán thấy những bức tượng Chúa trên các chặng đường nhục hình ở xa xa, qua những hàng cột và vòm cuốn kiến trúc kiểu la-tinh. Trước mỗi bức tượng đều có đặt giá cầu nguyện.
Elidabét và Gơrebê nằm giữa các bức tượng Chúa bị đánh bằng roi và Chúa phải đội vòng gai.
– Lại gần đây với anh, Gơrebê nói, mặc kệ lão bõ với những điều bó buộc khổ hạnh của y.
[92] Một vùng thuộc miền Đông Bắc nước Đức, hiện nay thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa dân chủ Đức, thủ phủ là Svêrin.
[93] Nguyên văn: sacristain một chức sắc trong nhà thờ Thiên Chúa giáo có nhiệm vụ giữ gìn quần áo lễ, các đồ thờ.
[94] Nguyên văn: cloitre – phía sau nhà thờ, gần dẫy hành lang bao quanh sân nhà thờ gần tương đương với nhà trai ở các chùa chiền đạo Phật.
[95] Chỉ Chúa Giêsu. Theo Kinh thánh thì cha đẻ của Chúa Giêsu là một người thợ mộc, sống với vợ là đức thánh bà đồng trinh Mari ở Nadarét, một thị trấn ở Palextin thuộc xứ Galilê hiện nay là Ixraen.
[96] Một vùng núi thuộc phía đông dãy núi Anpơ ở giữa 3 nước Thụy Sĩ, Ý và Áo. Thủ phủ vùng Tyrôn thuộc Áo là Inxbơrúc.
[97] Đàn cithare một loại đàn giây thời cổ Hy Lạp.
[98] Tên một vùng thuộc sông Ranh sản xuất ra nhiều rượu ngon của Đức (vùng này hiện thuộc Cộng hòa Liên bang Đức)